5 mặt hàng hàng đầu ở Georgia năm 2023

Bạn muốn đến Mỹ định cư và sống một cuộc sống thật thoải mái trong một môi trường có giá cả sinh hoạt vừa phải. Vậy thì việc tìm hiểu những tiểu bang và thành phố có chi phí sinh hoạt thấp nhất ở Mỹ là một bước quan trọng mà bạn không thể bỏ qua. Bài viết này sẽ giúp bạn tìm ra địa điểm sinh sống phù hợp.

  • Cách để biết được tiểu bang nào có chi phí sinh hoạt rẻ nhất nước Mỹ
  • Những tiểu bang có chi phí sinh hoạt rẻ nhất nước Mỹ
    • Mississippi
    • Arkansas
    • Oklahoma
    • Missouri
    •  Tennessee
    • Michigan
    • Kansas
    • Georgia
    • Alabama
    • Indiana
    • Iowa
    • Kentucky
    • Ohio
    • Tây Virginia
    • Texas
  • Lời kết

Cách để biết được tiểu bang nào có chi phí sinh hoạt rẻ nhất nước Mỹ

Một tổ chức có tên là Hội đồng Nghiên cứu Kinh tế và Cộng đồng đã có một cuộc nghiên cứu về các yếu tố chi phí hàng hóa và dịch vụ trong sáu hạng mục: nhà ở, tiện ích, hàng tạp hóa, giao thông, chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu thiết yếu khác nhằm xác định các tiểu bang có chi phí sinh hoạt rẻ nhất nước Mỹ. Bên cạnh đó, họ còn xem xét sức mua của cư dân trong tiểu bang, bằng cách tính mức thu nhập trung bình chia tổng số lượng mặt hàng và dịch vụ mỗi người có thể sử dụng. Nếu bạn chuyển đến một tiểu bang có chi phí sinh hoạt thấp hơn, bạn sẽ có thể sống thoải mái dù với mức thu nhập khiêm tốn.

Tuy nhiên, mức chi phí sinh hoạt từng tiểu bang có thể dao động, và ngay cả những tiểu bang có chi phí sinh hoạt thấp hơn hiện nay cũng có thể tăng do nhiều yếu tố. Các tiểu bang trong danh sách này đã liên tục được Hội đồng Nghiên cứu Kinh tế và Cộng đồng đánh giá là nơi có chi phí sinh hoạt rẻ nhất tại Mỹ trong nhiều năm qua.

CHUYÊN GIA DI TRÚ TƯ VẤN MIỄN PHÍ

Những tiểu bang có chi phí sinh hoạt rẻ nhất nước Mỹ

Mississippi

Tính đến năm 2019, Mississippi được xếp hạng là những tiểu bang có giá cả phải chăng nhất ở Mỹ, với chi phí sinh hoạt thấp hơn khoảng 15% so với mức trung bình của Hoa Kỳ. Giá thuê nhà trung bình khoảng $1000 [thấp hơn khoảng 30% so với giá thuê trung bình ở Mỹ], chi phí mua nhà trung bình trong tiểu bang vào khoảng $180.000. 

Xem thêm các bài viết:

Người Việt Nam có mua được nhà ở Mỹ không?

Chia sẻ kinh nghiệm thuê nhà ở Mỹ

Cẩm nang định cư: Nên sống ở đâu tại Mỹ

Hàng tạp hóa và chi phí vận chuyển, đi lại cũng thấp hơn so với mặt bằng chung. Ngoài chi phí sinh hoạt phải chăng, Mississippi còn là nơi có thị trường việc làm rộng lớn với các ngành tiêu biểu như nông nghiệp, hàng không vũ trụ. 

Arkansas

Arkansas nằm vị trí thứ 2 trong danh sách. Theo báo cáo của Hội đồng Nghiên cứu Kinh tế và Cộng đồng, tiểu bang này có chi phí sinh hoạt rẻ hơn khoảng 13% so với mặt bằng chung ở Hoa Kỳ. Điều thực sự khiến Arkansas thu hút cư dân đó là chi phí vận chuyển cực kỳ thấp so với những tiểu bang khác, do đó bạn có thể di chuyển tới bất kỳ đâu trong tiểu bang mà không cần đắn đo về giá cả.

Giá thuê nhà trung bình khoảng $1.095 và giá mua trung bình là $175.000. Ngoài ra, dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Arkansas có giá rẻ nhất toàn quốc.

Oklahoma

Tiểu bang này nổi tiếng với chi phí nhà ở đặc biệt thấp. Bạn có thể tiết kiệm khoảng 25% chi phí nhà ở so với mức thuê trung bình tại các tiểu bang khác. Bên cạnh đó, giá cả thị trường các nhu yếu phẩm, hàng tạp hóa cũng khá thấp.

  • Chi phí thuê nhà: 1.000 USD 
  • Giá nhà ở: 119.800 USD

Cơ hội nghề nghiệp rộng mở với các ngành đặc thù như công nghệ sinh học, năng lượng, khí tượng học,…

Ngoài ra, tiểu bang này cũng được đánh giá là một nơi đáng sống với cảnh quan thiên nhiên đa dạng, hữu tình.

Một số khu vực mà bạn có thể lựa chọn sinh sống: Khu đô thị Oklahoma City, vùng ngoại ô Broken Arrow, vùng nông thôn Adair,…

Missouri

  • Chi phí thuê nhà thấp hơn khoảng 27% so với mức trung bình của cả nước.
  • Giá thuê trung bình là 998 USD.

Phương tiện đi lại cũng khá rẻ, do đó bạn có thể di chuyển tới bất cứ đâu mà không sợ tốn kém. Các dịch vụ tiện ích và chăm sóc sức khỏe cũng rẻ hơn mức trung bình so với các bang khác. 

 Tennessee

Giá thuê trung bình là $1.315 cao hơn một chút so với các tiểu bang khác trong danh sách này.

Tuy nhiên, Tennessee vẫn được xếp hạng là tiểu bang có mức chi phí sinh hoạt thấp nhất cả nước, bởi lẽ giá cả hàng tạp hóa, chăm sóc sức khỏe và vận chuyển đặc biệt thấp. Điều đó làm cho chi phí sinh hoạt chung thấp hơn khoảng 11% so với mức trung bình của cả nước. 

Nếu bạn quá lo lắng về chi phí nhà ở bạn có thể tham khảo một số khu vực có chi phí nhà ở phải chăng như: Murfreesboro, Smyrna, Johnson City, Clarksville và Chattanooga.

Michigan

Giá nhà trung bình: 161.063 USD.

Chi phí nhu yếu phẩm, hàng tạp hóa, thực phẩm thấp nhất toàn quốc. Mức chi tiêu trung bình của cư dân ít hơn 10% so với mặt bằng chung cả nước. Các dịch vụ tiện ích, giao thông giá cả phải chăng. 

Detroit là nơi có giá nhà đất phải chăng, với giá nhà: 48.188 USD và giá thuê nhà: 915 USD.

Kansas

Nằm ở vùng Trung Tây, Kansas có chi phí sinh hoạt thấp hơn khoảng 10% so với mức trung bình toàn quốc. Giá nhà nằm ở mức trung bình, do đó không quá khó để bạn có thể sở hữu một căn hộ.

Bên cạnh đó thuế thu nhập ở tiểu bang này khá thấp, cư dân không phải lo lắng về việc đóng thuế làm thâm hụt các khoản chi tiêu.

Các ngành kinh tế chủ lực: hậu cần và phân phối, khoa học sinh học và hàng không vũ trụ.

Georgia

Mặc dù bạn có thể thấy thành phố Atlanta tương đối đắt đỏ, nhưng chi phí sinh hoạt ở các thành phố, khu vực còn lại của tiểu bang thấp hơn đáng kể so với giá cả trung bình ở Mỹ. Giá nhà ở và các tiện ích khá rẻ, giá nhà trung bình tầm 186.500 USD.

Georgia là một trong những bang phát triển kinh tế hàng đầu ở Mỹ với các ngành chủ lực như: bất động sản, truyền thông, công nghệ, nông nghiệp và khai thác mỏ.

Alabama

Giá nhà ở trung bình 129.300 USD.

Giá cả phương tiện đi lại khá phải chăng, chi phí sinh hoạt khá thấp. Đặc biệt giá nhà tại Birmingham khá rẻ, trung bình chỉ 65.5000 USD bạn đã có thể sở hữu một ngôi nhà.

Nền công nghiệp ô tô, hàng không phát triển mạnh, là nơi tọa lạc các trụ sở chính của nhiều tập đoàn lớn như Continental Motors và Encompass Health. Mercedes-Benz cũng có một nhà máy sản xuất gần thành phố Vance. Cơ hội việc làm luôn rộng mở đối với cư dân trong tiểu bang.

Indiana

Trong khi chi phí sinh hoạt ở Mỹ đã tăng trong những năm qua, thì Indiana vẫn là một trong những nơi có giá cả phải chăng nhất. Không chỉ có chi phí nhà ở, thực phẩm và vận chuyển thấp mà bang Indiana cũng là nơi có rất nhiều cơ hội việc làm dành  cho người lao động.

Các ngành nghề chủ lực: Chăm sóc sức khỏe, tài chính, giáo dục, tài chính, sản xuất,… Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục tại bang Indiana cũng phát triển, với các trường học nổi tiếng toàn quốc.

Iowa

Iowa không chỉ đứng top tiểu bang có chi phí sinh hoạt thấp mà còn là nơi có hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt thứ 3 và hệ thống giáo dục tốt thứ năm ở Hoa Kỳ. 

Des Moines [thành phố của Iowa] nằm trong Top 4 những nơi đáng sống tại Hoa Kỳ và cũng là một trong những thành phố có giá cả phải chăng nhất trong tiểu bang. Nhà trung bình trong thành phố chỉ có giá $140.800. Con số này thậm chí còn thấp hơn giá nhà trung bình của tiểu bang là $141.200.

Giao thông vận tải cũng khá rẻ trên toàn tiểu bang. Bạn chỉ phải trả chi phí vận chuyển ở Iowa ít hơn khoảng 8% so với những nơi khác trong cả nước.

Kentucky

Kentucky là một trong những nơi có chi phí sinh hoạt rẻ nhất tại Mỹ, đặc biệt giá thực phẩm ở đây cực kỳ phải chăng. Cư dân ở đây có thể tiết kiệm chi phí mua thực phẩm lên đến 9% so với những tiểu bang khác, chi phí nhà ở và giao thông cũng khá thấp.

Giá nhà trung bình khoảng 146.000 USD. Giống như nhiều tiểu bang khác, tại Kentucky bạn có thể lựa chọn được một số khu vực sinh sống với giá thấp hơn mặt bằng chung trong cùng tiểu bang, Louisville là một điển hình.

Các ngành kinh tế chủ lực: nông nghiệp, năng lượng và chăm sóc sức khỏe.

Ohio

Giá thuê nhà ở bang Ohio khá thấp, bạn có thể thuê được 1 căn hộ ở Cincinnati, Columbus hoặc Cleveland với giá chỉ từ 1000 USD trở xuống. Thậm chí giá thuê nhà tại khu vực Cleveland có thể thấp hơn đáng kể.

Bên cạnh đó, phí dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng rất phải chăng.

Tây Virginia

Bạn sẽ tiết kiệm được 9% chi phí khi sử dụng các dịch vụ tiện ích, mua thực phẩm nếu sống tại Virginia. Bên cạnh đó, giá nhà ở cũng nằm ở mức 96.4000 USD, đây là một mức giá hợp lý dành cho cư dân sống ở Mỹ. 

Nền kinh tế ở Tây Virginia là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong cả nước,  tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho cư dân sống ở trong tiểu bang.

Texas

Texas là tiểu bang đông dân và có diện tích lớn thứ 2 tại Hoa Kỳ. Với thế mạnh về sự phát triển kinh tế và cơ hội việc làm cho cư dân, vì thế tiểu bang này thu hút người nhập cư khá đông đúc. Dù dân cư đông nhưng giá cả nhà ở vẫn rất phải chăng, chỉ với 130.800 USD bạn có thể sở hữu một căn hộ. Bên cạnh đó, chi phí chăm sóc sức khỏe cũng thấp hơn mức trung bình toàn quốc.

Lời kết

Như vậy, bạn có khá nhiều sự lựa chọn để định cư. Mỗi tiểu bang ở trên có một đặc thù riêng biệt về vị trí địa lý, cơ hội làm việc và phát triển bản thân. Chi phí có thể là một trong số các yếu tố cần được xem xét, do đó trước khi đưa ra  quyết định chính thức, hãy đảm bảo rằng bạn thật sự hài lòng với môi trường mà mình đang hướng đến để an cư và lập nghiệp trong tương lai. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào khác, hãy gửi đến công ty tư vấn định cư Mỹ US Direct IMM, luật sư Mỹ sẽ trực tiếp tư vấn cho bạn!

Georgia’s agricultural industry plays a significant role in the state’s economy, contributing billions of dollars annually. Agricultural labor, while no longer the largest source of work for Georgians today, has nevertheless shaped the culture and identity of the state.

Once viewed primarily as a cotton state, Georgia now consistently ranks first in the nation’s production of poultry and eggs and is also a top producer of peanuts, pecans, tobacco, blueberries, and peaches. Overall, the state accounts for 2 percent of total U.S. agricultural sales.

Peanut HarvestPhotograph by uacescomm 

The food and fiber sector is very diversified and includes the production and processing of a wide range of commodities. Georgia has 9.9 million acres of land devoted to farms, with an average farm size of 235 acres. In 2019 Georgia had more than 42,000 individual farms, and the state’s farmers sold more than $9.5 billion worth of agricultural products.

Georgia’s top products include the poultry and egg industry, which accounted for a third of Georgia’s farm commodities, with three out of four counties involved in poultry and egg production. In addition to producing the most broilers [chickens intended for consumption], Georgia produces the majority of the nation’s peanuts and is one of the highest producing states for cotton, pecans, and watermelons. 

Other crops produced in Georgia include apples, berries, cabbage, corn, cottonseed, cucumbers, grapes, hay, oats, onions, peaches, rye, sorghum grain, soybeans, tobacco, tomatoes, vegetables, and wheat, as well as ornamentals, turf grass, and other nursery and greenhouse commodities. Beef cattle, dairy cows, and hogs are produced on farms throughout the state. Miscellaneous livestock such as meat goats and sheep, catfish, trout [aquaculture], and honeybees are also produced. 

Dairy CowsPhotograph by Equipe Integrada

Georgia’s agricultural statistics are reported annually by county and commodity in the Georgia Farm Gate Value Report​, compiled by Georgia’s Cooperative Extension Service county agents.

Early History

When General James E. Oglethorpe led the first settlement of English colonists at Savannah in 1733, one of their goals was to find crops that could be profitably grown and exported to England. Oglethorpe sought the advice and counsel of Tomochichi, leader of the Yamacraw people, who were skilled in hunting, fishing, and cultivating maize [corn], beans, pumpkins, melons, and fruits of several kinds. With the colonists learning successful food cultivation from the Yamacraw, the Trustees of the colony also established an experimental garden of ten acres in Savannah to find profitable agricultural exports. Employing botanist Hugh Anderson to collect seeds, drugs, and dyestuff from other countries with similar latitudes, the Trustee Garden served as an early agricultural experiment station to research what could be grown in Georgia.

These early experiments yielded mixed results. Attempts to produce wine and olives largely failed, and the orange trees that bordered the crosswalks of the garden suffered from springtime frosts. Mulberry trees, to feed silkworms, fared better, and Georgia’s small silk industry produced enough for Queen Caroline of England to wear a dress made of Georgia silk for her fifty-second birthday in 1735. While silk production increased to nearly a ton by 1767, it required huge subsidies by the British government and was frequently unprofitable.

More lucrative was rice cultivation, which was first pioneered in the neighboring South Carolina Lowcountry. Yet rice required a lot of land and labor, both of which were in short supply given Trustee policies that prohibited slavery and required small landholdings. After tremendous pressure, the Trustees ended the ban on slavery in 1750, and royal authorities eased limits on land ownership when taking over Georgia the following year. The colony’s agriculture soon gravitated toward a plantation system resembling neighboring South Carolina, producing cash crops like rice, indigo, and sometimes cotton. While small farms dominated Georgia on the eve of the American Revolution [1775–83], much of the colony’s most profitable crops were produced by enslaved African laborers on expanding plantations.

“King Cotton”

Cotton and tobacco became the major crops in Georgia after American independence because the loss of British markets and subsidies undercut other lucrative crops like indigo. Initially, cotton was limited to Georgia’s sea islands, but the invention of the cotton gin by Eli Whitney in 1793 near Savannah revolutionized the cotton industry. Short-staple cotton that could grow across Georgia but was limited by the difficulty of removing its green seeds now became profitable through the ginning process. Combined with the accelerating British industrial revolution, the cotton gin enabled the expansion of cotton across the state. By 1860 there were 68,000 farms in the state, and they produced 700,000 bales of cotton. Only 3,500 farms had 500 acres or more, and 31,000 had fewer than 100 acres of land.

Ballphotograph của Michael Bass-Deschenes

Những người lao động da đen nô lệ và người bản địa mang chi phí sản xuất bông nhanh chóng.Khi đất ở các khu vực trồng bông của miền đông trung tâm Georgia giảm các chất dinh dưỡng, các chủ đồn điền làm nô lệ đã tìm kiếm những vùng đất màu mỡ hơn ở phía tây nam Georgia và ở các bang phía tây.Các dân tộc Lạch và Cherokee sau đó đã bị buộc phải từ vùng đất của họ bởi các hiệp ước đáng ngờ, trong khi các gia đình da đen bị phá vỡ khi những người theo dõi di chuyển lực lượng lao động của họ về phía tây.

Nội chiến [1861-65] đã thay đổi đáng kể lực lượng lao động nông nghiệp của bang bằng cách giải phóng hàng ngàn người lao động nô lệ, nhưng Cotton tiếp tục là vụ mùa chính ở nhiều vùng của Georgia.Vào năm 1870, hơn 725.000 kiện bông đã được sản xuất, phần lớn là bởi những người chia sẻ đen, những người thường bị buộc phải nuôi những vùng đất của những người nô lệ trước đây. & NBSP;

Sản xuất bông chuyên sâu tiếp tục làm cạn kiệt đất Georgia.Các nhà lãnh đạo nông nghiệp ngay từ giữa những năm 1800 đã đưa ra những đức tính đa dạng hóa nông nghiệp bang bang và khuyến nghị rằng sự nhấn mạnh lớn hơn được đặt vào chăn nuôi, gia cầm, vườn cây, vườn nho, rau, thức ăn thô xanh và lâm nghiệp.Tuy nhiên, bởi vì Cotton là một loại cây trồng tiền mặt hấp dẫn đối với những người cho vay, nó đã thống trị nông nghiệp không chỉ ở Georgia mà trên khắp miền Nam trong nhiều thập kỷ.Một sự trầm cảm lâu dài về giá bông trong phần còn lại của thế kỷ XIX đã bẫy những người chia sẻ đen và số lượng ngày càng tăng của các đối tác trắng của họ trong khoản nợ, tịch thu khả năng di chuyển xã hội.Agricultural leaders as early as the mid-1800s extolled the virtues of diversifying the state’s agriculture and recommended that greater emphasis be placed on livestock, poultry, orchards, vineyards, vegetables, forage, and forestry. Still, because cotton was such an attractive cash crop to lenders, it dominated agriculture not only in Georgia but throughout the South for many decades. A long depression in cotton prices for the remainder of the nineteenth century trapped Black sharecroppers and an increasing number of their white counterparts in debt peonage, foreclosing the possibility of social mobility.

Tuy nhiên, vào năm 1915, mọt boll lây lan vào Tây Nam Georgia, phá hủy hàng ngàn mẫu bông.Cái hại đó, kết hợp với giá rất thấp cho bông sau Thế chiến I [1917-18], khiến đa dạng hóa bắt buộc.Hơn nữa, các hoạt động canh tác đã lỗi thời và gây tổn hại, chẳng hạn như cày xới mà không liên quan đến đường viền đất và xen kẽ & nbsp;

Xói mòn đất

Sản lượng bông giảm từ mức cao hơn 5 triệu mẫu Anh và 2.769.000 kiện vào năm 1911 xuống chỉ còn khoảng 500.000 kiện vào năm 1923. Gần đây hơn vào năm 2018, 1.305.000 mẫu bông đã được thu hoạch, với tổng số 1.955.000 kiện được sản xuất và nhận tiền mặt là 735.69.000 đô la.Cotton không còn là vua vua ở Georgia, nhưng vẫn quan trọng vì doanh số của nó vẫn chiếm hơn 23 phần trăm tổng số biên lai tiền mặt cho sản xuất cây trồng trong năm 2017.

Dân số trang trại

Georgia vẫn là một quốc gia nông nghiệp cho đến sau Thế chiến II [1941-45].Dân số nông thôn không giảm nhiều giữa năm 1920, khi & NBSP;Có 2,1 triệu người nông thôn và 310.000 trang trại, và 1960, khi vẫn còn 1,98 triệu cư dân nông thôn.Tuy nhiên, theo thời gian, tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn giảm từ khoảng 85 % vào năm 1900 xuống còn 37 % vào năm 1990. & NBSP;there were 2.1 million rural people and 310,000 farms, and 1960, when there were still 1.98 million rural residents. Over time, though, the proportion of the population living in rural areas decreased from about 85 percent in 1900 to 37 percent by 1990. 

Nhiều yếu tố góp phần làm giảm dân số nông thôn Georgia.Đầu tiên, Đại suy thoái và Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, các chương trình thỏa thuận mới đã phá vỡ hệ thống chia sẻ, một phần lớn của nền kinh tế nông nghiệp Georgia vào đầu thế kỷ XX.Chẳng hạn, Đạo luật Điều chỉnh Nông nghiệp đã trả tiền cho các chủ đất không trồng một số cây trồng nhất định, làm giảm nhu cầu của chủ đất đối với người chia sẻ và cho phép họ đuổi người lao động da đen nghèo khó.Khi điều kiện được cải thiện, chủ nhà đã mua máy móc tiết kiệm lao động thay vì phục hồi sharecroppers.

Broilerscourtesy của Lưu trữ Georgia.

Dân số nông thôn cũng giảm khi các nhà máy và trung tâm đô thị mở rộng với tốc độ nhanh chóng trong Thế chiến II, và khi các cựu chiến binh theo học đại học về GI Bill.Những sinh viên tốt nghiệp này hoặc khám phá sự nghiệp phi nông nghiệp hoặc nắm lấy nông nghiệp công nghiệp, hiện đại với các trang trại cơ giới lớn.Nhu cầu lao động nông nghiệp tăng trở lại vào gần cuối thế kỷ XX khi chủ đất ngày càng chuyển sang cây lương thực không thể được thu hoạch bằng máy móc.Càng ngày, những người lao động nhập cư từ Mỹ Latinh đáp ứng nhu cầu duy trì và thu hoạch cây trồng.

Tính đến năm 2017, chỉ có khoảng 42.000 trang trại ở Georgia và ít hơn 10 % công dân Georgia, làm việc trong nông nghiệp hoặc lâm nghiệp.Hơn 9,9 triệu mẫu Anh được phân loại là đất nông nghiệp, với quy mô trang trại trung bình là 235 mẫu Anh.Gần một nửa trong số tất cả các trang trại Georgia đã kiếm được ít hơn 2.500 đô la trong năm 2017, trong khi 15 phần trăm kiếm được hơn 100.000 đô la.

Mặc dù số lượng các trang trại ở Georgia vẫn tiếp tục giảm từ khoảng 47.000 trong năm 2007 xuống còn 42.000 trong năm 2017, các khoản tiền đang tăng kích thước.Diện tích trang trại trung bình ở tiểu bang tăng 3 phần trăm từ năm 2012 đến 2017.

Vidalia Onionsphoto lịch sự của Dịch vụ bảo tồn tài nguyên thiên nhiên USDA & NBSP;

Tác động kinh tế của thực phẩm, chất xơ và các ngành công nghiệp liên quan được ước tính vào năm 2019 ở mức hơn 73 tỷ đô la.Điều đó bao gồm 13 tỷ đô la giá trị cổng trang trại, hoặc giá trị của sản phẩm khi nó rời khỏi trang trại và khoảng 60 tỷ đô la giá trị chế biến.Nông nghiệp hỗ trợ hơn 392.400 việc làm trong tiểu bang và Georgia luôn được xếp hạng là nhà nước lâm nghiệp hàng đầu trong cả nước.

Mặc dù việc làm ngành dịch vụ đã vượt qua việc làm nông nghiệp kể từ khi kết thúc thế kỷ XX, sản xuất nông trại vẫn tiếp tục là một phần trung tâm của nền kinh tế Georgia.

3 mặt hàng hàng đầu của Georgia là gì?

Georgia dẫn đầu đất nước trong việc sản xuất đậu phộng và hồ đào.Bông đứng thứ hai trong số các loại cây trồng của Georgia, tiếp theo là thuốc lá, đậu nành và ngô.Các loại cây trồng khác bao gồm cỏ khô, yến mạch, hạt lúa miến và lúa mì.Khoai lang là loại rau quan trọng nhất của Georgia.

10 mặt hàng hàng đầu của Georgia là gì?

Hơn 65% Georgia đang ở trong rừng.Lâm nghiệp là một ngành công nghiệp trị giá 16,7 tỷ đô la mỗi năm ở Georgia.Mười mặt hàng hàng đầu của Georgia theo thứ tự cấp bậc của họ là gà thịt, bông, trứng, gỗ, đậu phộng, ngựa, thịt bò, các sản phẩm nhà kính để trồng trọt trang trí, sữa, và các nhà máy container từ các vườn ươm.broilers, cotton, eggs, timber, peanuts, horses, beef, greenhouse products for ornamental horticulture, dairy, and container plants from nurseries.

10 mặt hàng hàng đầu ở Georgia 2022 là gì?

Georgia là một quốc gia số một trong cả nước trong việc sản xuất đậu phộng, gà thịt [gà], hồ đào, quả việt quất và hành lá.Chúng tôi cũng ở hoặc gần đỉnh khi nói đến bông, dưa hấu, đào, trứng, dưa chuột, ngô ngọt, ớt chuông, cà chua, dưa đỏ, lúa mạch đen và bắp cải.peanuts, broilers [chickens], pecans, blueberries and spring onions. We are also at or near the top when it comes to cotton, watermelon, peaches, eggs, cucumbers, sweet corn, bell peppers, tomatoes, cantaloupes, rye and cabbage.

5 mặt hàng hàng đầu trong nông nghiệp là gì?

10 nguồn thu tiền mặt lớn nhất từ việc bán hàng hóa trang trại do Hoa Kỳ sản xuất trong năm 2021 là [theo thứ tự giảm dần]: gia súc/bê, ngô, đậu nành, sản phẩm sữa/sữa, gà thịt, lợn, cây trồng linh tinh, lúa mì, thịt gàTrứng, và cỏ khô.cattle/calves, corn, soybeans, dairy products/milk, broilers, hogs, miscellaneous crops, wheat, chicken eggs, and hay.

Chủ Đề