Cách đạt điểm cao nghị luận văn học

Phần viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học thường chiếm trọng số từ 3 – 3,5 điểm trong cấu trúc đề thi vào 10 môn Ngữ văn. Do vậy teen 2k6 cần nắm chắc kỹ năng viết loại văn này để đạt điểm cao khi làm bài thi.

Viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học là phần bắt buộc phải có trong cấu trúc đề thi học kỳ, đề thi vào 10 môn Ngữ văn, phần này thường chiếm trọng số từ 3 – 3,5 điểm. Đây cũng là một trong những phần mà rất nhiều học sinh còn yếu, chưa nắm chắc kỹ năng, khả năng diễn đạt kém nên thường bị điểm thấp.

Với trên 10 năm kinh nghiệm dạy và chấm thi môn Ngữ văn, cô Nguyễn Thị Thu Trang – Giáo viên Ngữ văn tại Hệ thống Giáo dục lingocard.vn sẽ đưa ra một số hướng dẫn giúp teen 2k6 nắm chắc kỹ năng viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học để đạt điểm cao.

Đang xem: Cách làm nghị luận văn học đạt điểm cao

Đối với dạng văn nghị luận văn học thì yêu cầu đầu tiên mà học sinh cần nắm được là phải xác định được yêu cầu chính của đề bài, từ đó mới triển khai, phân tích các ý cho sát với đề. Đặc biệt phải khai thác tối đa đề bài để viết câu chủ đề của bài văn, đoạn văn. Với mỗi thể loại văn học như tác phẩm thơ, truyện thì sẽ có kỹ năng viết khác nhau. Cụ thể như sau:

Kỹ năng viết bài nghị luận đối với văn bản thơ

Thường với văn bản thơ đề thi sẽ có yêu cầu phân tích đoạn thơ hoặc khổ thơ. Với phần này học sinh chỉ cần nắm rõ và làm theo 4 bước sau:

Bước 1: Xác định nội dung của đoạn thơ mà đề yêu cầu là gì?

Bước 2: Phân tích, xác định nội dung và biện pháp nghệ thuật xuất hiện trong đoạn thơ đó.

Bước 3: Phân tích tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó trong đoạn thơ.

Bước 4: Khái quát tình cảm của tác giả thể hiện trong đoạn thơ đó như thế nào.

Đặc biệt ở bước thứ 2 học sinh nên có sự chọn lọc, bám sát và xoáy sâu vào phân tích các hình ảnh và biện pháp nghệ thuật tiêu biểu để làm nổi bật lên vấn đề mà đề bài yêu cầu. Có như vậy thì mới gây ấn tượng được với người chấm và giúp bài thi đạt điểm cao.

Cách đạt điểm cao nghị luận văn học

Nắm chắc các kỹ năng viết văn nghị luận văn học sẽ giúp teen 2k6 đạt điểm cao thi vào 10

Kỹ năng viết bài nghị luận đối với văn bản truyện

Với phần này học sinh cần phải phân tích tác phẩm dựa trên 4 yếu tố sau đây:

+ Cốt truyện: Văn bản có những sự kiện chính nào, nêu diễn biến của nó từ nhẹ nhàng đến cao trào.

+ Ngôi kể: Ngôi thứ nhất hay ngôi thứ 3. Phân tích vai trò của ngôi kể trong truyện.

+ Nhân vật: Hoàn cảnh xuất thân, đặc điểm tính cách của nhân vật và vai trò của nhân vật trong tác phẩm. Từ đó phải khái quát được nhân vật đó thành hình tượng nghệ thuật tiêu biểu.

+ Chủ đề của tác phẩm: Chủ đề của tác phẩm là gì? Qua chủ đề thì thể hiện tình cảm của tác giả trong tác phẩm như thế nào?. Ở đây chú ý các chi tiết nghệ thuật đặc sắc mà tác giả đã sử dụng.

Đặc biệt học sinh nên tập trung vào phân tích kỹ và dành nhiều “đất diễn” cho nhân vật vì đây là “chất liệu” chính để tạo nên một văn bản truyện. Và cũng chính nhân vật với những nét tính cách tiêu biểu sẽ là nơi để tác giả gửi gắm tư tưởng, thông điệp của mình vào đó.

Ngoài những kỹ năng chính trên học sinh cũng cần lưu ý khi viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học học sinh tuyệt đối không được viết theo kiểu gạch đầu dòng mà phải viết thành các câu văn, đoạn văn rành mạch, có sự phân tách ý theo từng luận điểm, luận cứ và nêu dẫn chứng rõ ràng. Và để bài văn đạt điểm cao tối đa học sinh nên dành ra 5 – 10 phút để lập dàn ý vắn tắt trước khi bắt tay vào viết một bài văn hoàn chỉnh, điều này sẽ giúp liệt kê đầy đủ các luận điểm cần triển khai trong bài viết của mình, tránh tình trạng bị thừa thiếu hoặc bài văn bị lạc đề.

Ngoài ra để đạt điểm cao vào 10 môn Ngữ văn thì học sinh 2k6 cần tăng cường luyện đề ngay từ bây giờ.

Trong thời điểm này chương trình HM10 Luyện đề là sự lựa chọn phù hợp, giúp học sinh luyện đề môn Ngữ văn đạt hiệu quả chỉ trong thời gian ngắn.

Xem thêm: Giải Vở Bài Tập Toán Lớp 4 Bài 79 Luyện Tập Trang 90, Bài 79 : Luyện Tập

Được biên soạn và giảng dạy bởi các thầy cô giáo với nhiều năm kinh nghiệm luyện thi vào 10, HM10 Luyện đề tập hợp những bí kíp đã nêu ở trên, “quét” toàn bộ đề thi của 63 tỉnh thành giúp teen 2k6 tích lũy kiến thức và kỹ năng để tự tin chinh phục kỳ thi vào 10. 

Cách làm bài nghị luận văn học đạt điểm cao, Câu nghị luận văn học rất hay gặp trong đề thi tốt nghiệp THPT, lại chiếm nhiều điểm hơn các phần khác. Vì vậy, các

Câu nghị luận văn học rất hay gặp trong đề thi tốt nghiệp THPT, lại chiếm nhiều điểm hơn các phần khác. Vì vậy, các em cố gắng viết cho lắng đọng, để lại ấn tượng sâu sắc cho giáo viên. Mời các em cùng tham khảo hướng dẫn chi tiết cách làm bài nghị luận văn học trong bài viết dưới đây:

Các dạng đề nghị luận văn học

1. Dạng đề Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ

2. Dạng đề phân tích cảm nhận về đoạn trích văn xuôi

3. Dạng đề nghị luận về tình huống truyện

4. Dạng đề phân tích/ cảm nhận nhân vật trong tác phẩm…

5. Dạng đề so sánh, đối chiếu: hai nhân vật, hai chi tiết, hai tư tưởng, hai đoạn thơ, hai hay nhiều bài thơ…

6. Dạng đề bình luận một ý kiến bàn về văn học.

7. Dạng đề nghị luận hai ý kiến bàn về văn học.

8. Dạng đề tích hợp nghị luận xã hội : Phân tích, cảm nhận về tác phẩm, sau đó liên hệ thực thế. Đây là kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Dàn ý của từng kiểu bài nghị luận văn học

I. Cách làm dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ

1. Có các kiểu ra đề như:

1/ Phân tích toàn bộ bài thơ.

2/ Phân tích một đoạn thơ.

3/ Phân tích một khía cạnh trong đoạn thơ, bài thơ.

4/ Phân tích một hình ảnh, chi tiết trong bài thơ.

5/ So sánh giữa hai bài thơ, hai đoạn thơ.

6/ Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ

2. Dàn ý chung cho dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ.

Bạn Đang Xem: Cách làm bài nghị luận văn học đạt điểm cao

Mở bài:

– Giới thiệu tác giả và bài thơ, đoạn thơ cần phân tích chép nguyên văn đoạn thơ trong đề bài, nếu là đoạn thơ dài thì chỉ cần chép hai câu đầu, chấm chấm, rồi chép câu cuối).

– Giới thiệu ý kiến bàn về bài thơ (nếu đề bài yêu cầu nghị luận về ý kiến)

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

– Nếu là dạng đề so sánh hai bài thơ, hai đoạn thơ thì mở bài phải giới thiệu cả hai tác giả và hai bài thơ.
Phần mở bài chỉ cần nêu ngắn gọn nét chính về tác giả tác phẩm (vài dòng)

Thân bài:

– Khái quát về phong cách tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính, … của bài thơ

– Nêu vị trí đoạn thơ, thể thơ, chú ý âm điệu, giọng điệu

* Phân tích cụ thể:

Có thể bổ ngang: phân tích từng khổ, từng dòng, nếu là thơ Đường luật thì phân tích theo từng cặp Đề – Thực – Luận – Kết. Riêng đối với thơ tứ tuyệt (ví dụ một số bài thơ của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù), cách thức thông thường là chia theo cấu trúc: khai, thừa, chuyển, hợp; hoặc chia thành hai câu đầu và hai câu cuối (tuỳ từng bài cụ thể).

Có thể bổ dọc bài thơ: Phân tích theo hình tượng, theo nội dung xuyên suốt bài thơ.Đưa các nội dung chính của bài thơ, đoạn thơ thành các luận điểm lớn, nếu đề yêu cầu cảm nhận đoạn thơ, câu thơ, thì các em chia nhỏ các nội dung có trong đoạn, trong câu, biến chúng thành các luận điểm lớn để đi sâu cảm nhận.

Chú ý những hình ảnh biểu tượng, những lối nói ví von so sánh, những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu . Khi phân tích thì thao tác giảng giải, cắt nghĩa là quan trọng nhất, nhằm giúp cho người đọc hiểu được ý nghĩa của các hình ảnh biểu tượng, ý nghĩa của từ ngữ, câu thơ, đoạn thơ.

Trong quá trình phân tích, luôn luôn hướng đến sự tổng hợp, khái quát ở từng cấp độ sao cho thích hợp để rồi tiến tới những khái quát lớn của toàn bài. Phân tích phải đi kèm với đánh giá và bình luận, tránh diễn nôm bài thơ.Mỗi đoạn văn các em nên viết theo cách diễn dịch hoặc quy nạp, nhớ trình bày rõ câu chốt, câu diễn giải, câu dẫn chứng, câu khái quát nội dung đoạn, câu chuyển đoạn linh hoạt.

Kết bài:

Đánh giá khái quát về bài thơ, đóng góp riêng của tác giả

3. Những đoạn thơ trọng tâm trong chương trình thi THPT Quốc Gia

– Tây Tiến – Quang Dũng: Đoạn 1-2-3

– Việt Bắc – Tố Hữu:

– 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc

– Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu…

– Chày đêm nện cối đều đều suối xa

– Đoạn Bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta…. Thuỷ chung

– Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến: Những đường Việt Bắc của ta…Đèo De núi Hồng

– Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt đường khát vọng). Bài này dài, các em cần chú ý những đoạn tiêu biểu sau:

  • Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi…. Đất nước có từ ngày đó
  • Đất là nơi anh đến trường… Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ
  • Trong anh và em hôm nay… làm nên đất nước muôn đời
  • Em ơi em hãy nhìn rất xa…. đất nước của ca dao thần thoại

– Sóng – Xuân Quỳnh: Bài này khổ nào cũng quan trọng, có thể phân tích từng khổ, hoặc phân tích cả bài để chứng minh nhận định.

– Đàn ghi ta của Lor-Ca – Thanh Thảo: Cả bài, chú ý hình tượng nhân vật Lor- ca

4. Ví dụ minh họa: Phân tích bức tranh tứ bình – Việt Bắc

Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Các ý chính cần đạt:

– Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định về nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

– Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.

– Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.

– Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao gài thắt lưng”.

+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón”

+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.

Bài làm:

“Việt Bắc” là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này chủ yếu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong đó “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn vé thời gian suốt 15 năm “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, trên một không gian là toàn bộ Việt Bắc, kéo tràn sang Tây Bắc. Bút của Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. “Việt Bắc” là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đểu tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu:

Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nói đến Tố Hữu là nói đến một tiếng thơ trữ tình – chính trị. Suốt cả đời mình, Tố Hữu đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người cách mạng. Người ta vẫn nói ở Tố Hữu có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố cổ điển, dân gian và yếu tố cách mạng hiện đại. Có lẽ vì thế mà thơ Tố Hữu có khả năng thấm sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân. Cho đến nay, Tố Hữu đã cho xuất bản 6 tập thơ: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa’, và gần đây nhất là “Một tiếng đờn’. Những tập thơ ấy đều gắn liền, tương ứng với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ vì thế mà có người đã gọi thơ Tố Hữu là cuốn “biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam”. Nghĩa là là cho đến nay, Tố Hữu đã hoàn chỉnh một phong cách thơ của mình, một cuộc đời thơ của mình.

Đoạn thơ trên là một trong những đoạn tiêu biểu của bài VB. Tất cả chỉ có 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này cđ thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu. Nó như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát. ở mỗi cặp, cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền đất này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.

Chúng ta biết bài thơ được viết theo hình thức hát đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, là hai
câu đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái:

Ta về mình có nhớ ta

Lời hỏi vẫn có cái giọng tình tứ, với cách xưng hô ta mình – mình ta. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ở sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ mà là nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. ‘Vì vậy, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiển hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói “hoa cùng người” thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?

Và như thế, chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu. Đó là hoa cùng người Việt Bắc.

Tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vì vậy, tự nó đã cố tính hoàn chỉnh riêng. Thậm chí tự nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng. Ta đã từng gặp những bộ tứ bình như: tùng – trúc – cúc – mai, xuân – hạ – thu – đông (tứ quý), ngư – tiều – canh – mục, long – li – quy – phượng, cầm – kỳ – thi – hoạ… Trong thơ ca chúng ta cũng từng gặp rất nhiều, đó là cảnh “Trông bốn bể” trong “Chinh phụ ngâm”, đoạn “buồn trông” khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ mô tả bốn cảnh thuộc thời oanh liệt của con hổ trong “Nhớ rừng” của Thế Lữ… Những bức tranh tứ bình này giúp cho nhà thơ mô tả được một cách toàn diện và thâu tóm những gì là đặc trưng nhất. Tố Hữu đã sử dụng lối vẽ tranh tứ bình khá nhuần nhuyễn trong nhiều bài, đoạn thơ này có thể xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về “hoa và người” của 4 mùa Việt Bắc.

Mở đầu là một hình ảnh có tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê thật lặng lẽ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Gam màu cơ bản của bức tranh này là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mông và trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả chỉ viết hai chữ ” đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, loé sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong tư thế ấy. Trong bài “Lên Tây Bắc” tác giả có viết:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo.

Cũng là một hình ảnh ấy nhưng ở đoạn thơ trên, Tố Hữu phải viết bằng 4 câu thơ 28 chữ. Còn ở bài Việt Bắc này dường như nhà thơ đã cô đúc vào 8 chữ. Nhà thơ không vẽ kỹ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ về hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.

Bức tranh thứ hai:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ viết:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

Trên nền cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sắc, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá «, Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.

Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo: “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết về đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.

Tóm lại, bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.

II. Cách làm bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi

Đối tượng của kiểu bài này rất đa dạng: Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói chung, có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của đoạn trích đó.

Yêu cầu của bài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi:

Ngoài yêu cầu chung của một bài văn nghị luận: bố cục bài viết rõ ràng; trình bày ý khoa học; hành văn có cảm xúc, linh hoạt; dẫn chứng phải chính xác…Bài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi cũng có những yêu cầu riêng:

– Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác phẩm. Nghĩa là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn nội dung của đoạn trích lại sơ lược.

– Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như nội dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh giá chính xác.

Các bước làm bài:

a) Bước 1: Phân tích đề – xác định các yêu cầu của đề:

– Xác định dạng đề;

Xem Thêm : Soạn văn Quá trình tạo lập văn bản

– Yêu cầu nội dung (đối tượng);

– Yêu cầu về phương pháp;

– Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

Học sinh cần đọc kĩ đoạn trích; xác định được yêu cầu của đề; triển khai luận điểm, luận cứ phù hợp; biết vận dụng các thao tác nghị luận để viết bài văn.

b) Bước 2: Lập dàn ý – tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần

– Mở bài:

• Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.

• Giới thiệu vấn đề nghị luận

– Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích.

– Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.

c) Bước 3: Viết bài.

Dựa theo dàn bài đã xây dựng, viết thành bài văn hoàn chỉnh.

Chú ý viết đoạn văn phải thể hiện được nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những luận cứ rõ ràng. Các đoạn phải có liên kết, chuyển tiếp nhau.

d) Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa.

…….

Lưu ý khi viết câu nghị luận văn học

A. Yêu cầu

Xem Thêm : Hướng dẫn giải bài toán cực trị số phức

– Cần nắm vững nội dung kiến thức tác phẩm.

– Đọc kỹ đề, gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng trong đề. Phải hiểu đề thi đang hỏi ta điều gì?

– Xác định đề thi thuộc dạng đề thi nào? Chứng minh một nhận định hay phân tích một hình tượng, một đoạn thơ, một bài thơ… hay so sánh đối chiếu giữa các tác phẩm với nhau?

B. Các bước làm bài giống như ở phần đã lập dàn ý nhưng cần chú ý:

I. Mở bài: nêu được yêu cầu của đề bài. Nghĩa là đề thi yêu cầu như thế nào thì phải dẫn vào vấn đề như thế. Tránh lối viết mở bài mà không làm nổi bật được yêu cầu của đề.

II. Thân bài

1. Khái quát về tác giả (phong cách sáng tác), tác phẩm, xuất xứ: (Phần này rất quan trọng vì trong đáp án của Bộ, học sinh làm tốt những yêu cầu này sẽ đạt 0,50 điểm; nếu các em đã đưa phần tác giả lên mở bài thì phần khái quát có thể không cần nữa; hoặc phần khái quát sẽ dùng để nói hoàn cảnh sáng tác)

2. Nội dung phân tích, cảm nhận:

– Trong phần nội dung của bài làm, học sinh phải xác lập được các luận điểm chính rồi từ đó dựa vào các thao tác: chứng minh, bình luận, phân tích, cảm nhận… để làm rõ luận điểm.

– Nên viết đoạn văn theo lối diễn dịch để ý được rõ ràng, giám khảo chấm cũng dễ cho điểm. Đầu mỗi luận điểm, lùi bút vào 2 ô giấy để giám khảo dễ nhìn bố cục của mình hơn.

– Đối với thơ hay truyện thì phải lấy nghệ thuật để phân tích phần nội dung (Nhất là phân tích thơ).

– Khi hành văn, cần tránh những câu từ sáo rỗng. Cần viết thật cô đọng, giọng văn phải kết hợp được chất lý luận và suy tư cảm xúc.

– Tránh gạch bỏ quá nhiều trong bài làm, làm bẩn bài làm sẽ gây phản cảm cho người chấm.

– Để tăng chiều sâu cho bài viết, cần có sự so sánh, đối chiếu giữa nhân vật này, nhân vật kia, tác phẩm này, tác phẩm nọ. Cần đưa một số lời phê bình, nhận định văn học vào trong bài làm. Cần có dẫn chứng thêm ngoài tác phẩm. Những yếu tố vừa nói trên đây sẽ làm cho bài văn của các em thêm phong phú và có chiều sâu, chắc chắn sẽ được giám khảo cân nhắc mà cho điểm cao.

3. Phần tổng kết nghệ thuật: theo đáp án, trước khi kết bài sẽ có phần tổng kết nghệ thuật. Học sinh cần có đánh giá, nhận xét chung về nghệ thuật của tác phẩm (phần này đáp án cho từ 0,5 – 1,0 điểm). Thực ra phần nghệ thuật này đã nói trong khi chúng ta làm bài. Đây chỉ là bước đệm cuối cùng cho đủ bố cục bài văn.

III. Kết bài: đánh giá chung về vấn đề.

>>> Tải file để tham khảo chi tiết!