Cảm nhận đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng đến nhớ từ Cao lạnh nhớ sang Nhị Hà

A. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Tố Hữu

+ Là nhà thơ  của nền văn học Việt Nam

+ Là nhà thơ  trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc

+ Phong cách sáng tác:  đậm chất trữ tình chính trị

- Giới thiệu tác phẩm: Việt Bắc

+ Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết…thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Qúy Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”.

+ Có thể nói, bài thơ “Việt Bắc” cũng như đoạn thơ trên đã thể hiện rõ nét điều đó.

“Việt Bắc” là một trong những tác phẩm phản ánh cụ thể phong cách thơ của Tố Hữu, đó là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà.

Bài thơ được viết vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

- Giới thiệu khái quát về đoạn trích "Nhớ khi... Nhị Hà".

B. Thân bài

* Đoạn thơ là bức tranh rộng lớn hào hùng của những ngày kháng chiến.

1, Trước hết ở câu thơ thứ nhất, Tố Hữu tái hiện một cách cụ thể hoàn cảnh căng thẳng đầy khó khăn “Nhớ khi giặc đến giặc lùng”.

- Cảm xúc bao trùm của đoạn thơ là nỗi nhớ. Nhưng khác với đoạn trước, nỗi nhớ trong đoạn thơ này như mang cả âm điệu sục sôi của ngày kháng chiến. Đó là nhớ khi “giặc đến giặc lùng”. Ý thơ như đã mở ra một không khí đầy cam go, căng thẳng, khi giặc tìm mọi cách để truy sát, để hòng dập tắt phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến của đồng bào Việt Bắc.

2, Ba câu thơ tiếp theo, Tố Hữu lại đi vào cụ thể hóa vai trò của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những ngày kháng chiến “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.

- Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã nhiều lần nhắc đến đại từ “ta”. Nhưng so với đoạn thơ trước, đại từ “ta” thường xuất hiện cùng đại từ “mình” để tạo nên một âm điệu trữ tình ngọt ngào. Ở câu thơ này, đại từ “ta” xuất hiện nhưng mang nghĩa bao hàm là chúng ta, là dân tộc, là đất nước. Vì thế nó mang âm điệu sử thi hào hùng. Không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng biện pháp nhân hóa đã khiến cho thiên nhiên núi rừng như hòa cùng với lòng người để tạo nên một khối sức mạnh đánh đuổi quân xâm lược. Nhờ thế mà rừng cây không còn là hình tượng thiên nhiên vô tri mà nó hiện lên vô cùng sống động, nó thể hiện tình cảm gắn bó, sự đoàn kết đồng lòng của những con người Việt Bắc với thiên nhiên.

- Sang câu thơ thứ hai “Núi giăng thành lũy sắt dày”. Cũng giống như rừng cây ở câu thơ trên, núi non không chỉ là biểu tượng cho sự hùng vĩ đại ngàn mà còn mang sức mạnh để bảo vệ đất nước. Núi đã trở thành một tấm lá chắn vững chắc tựa như sắt như đồng để không có kẻ thù nào có thể vượt qua. Đọng lại trong lòng người đọc là câu thơ “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Một lần nữa, Tố Hữu lại sử dụng hình ảnh nhân hóa kết hợp với cách ngắt nhịp 4/4 làm cho câu thơ chia làm hai vế cân xứng đã tái hiện hai nhiệm vụ rất rõ ràng của rừng cây, núi đá. Rừng có khi hiểm trở, có khi dịu dàng để che chở bao bọc cho những người kháng chiến. Có khi rừng lại mạnh mẽ như một thứ vũ khí sắc nhọn để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ đất nước.

=> Tố Hữu thực sự đã thổi hồn vào thiên nhiên Việt Bắc khiến cho mỗi cánh rừng, ngọn núi trở thành người đồng hành với người kháng chiến trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Sức mạnh thiên nhiên hào quyện với sức mạnh con người đã tạo thành sức mạnh của cả dân tộc, cả thời đại.

3, Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến.
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
- Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiên cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn. Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình.

+ Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.

+ Cùng với cum từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
4, Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang.
                                                                “Ai về ai có nhớ không ?
                                                          Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
                                                                Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
                                                       Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
- Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời: “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ.

- Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố Ràng: Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng : Cao Bằng và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung.

+ Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối càng.

- Cùng với điệp từ “nhớ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham gia kháng chiến. Chiến thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ họ không những nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, họ đã phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương của cả dân tộc.

=> Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp của dân tộc, của đất nước. Với điệp từ “nhớ”cùng với thể thơ lục bát âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng, diễn tả nối nhớ vơi đầy dào dạt trong kí ức của nhà thơ. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc mạnh mẽ mãnh kiệt trong niềm vui, khiến đọc giả như đang hòa mình vào niềm vui lớn của dân tộc, niềm vui trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn tự do.
=> Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, qua nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã mang lại cho đọc giả không khí nóng hổi từ những cuộc kháng chiến đỉnh điểm của dân tộc ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù phú, giữ dội nhưng cũng rất lãng mạng và “bao la” khắc họa được hình ảnh người cán bộ về xuôi có tình cảm sâu nặng gắn bó với thiên nhiên, với cách mạng. Đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều: Việt Bắc chính là cái nôi, nuôi dưỡng cách mạng.

C. Kết bài

- Nhận xét về chất trữ tình chính trị:

+ Đoạn thơ đã nói lên nỗi nhớ của tác giả Tố Hữu. Đằng sau nỗi nhớ ấy chính là những tâm tư, tình cảm của Tố Hữu.

+ Chất trữ tình chính trị đã được biểu hiện rõ nét trong nỗi nhớ của người ra đi ấy. Hơn thế nữa, nó còn được thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật của đoạn thơ. 

+ Chất trữ tình chính trị chính là phong cách tiêu biểu của hồn thơ Tố Hữu. 

- Khẳng định giá trị của bài thơ

Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.