Đánh giá những tác phẩm văn học dân gian
Báo cáo nghiên cứu là văn bản trình bày kết quả nghiên cứu của một vấn đề dựa trên những bằng chứng khoa học, khách quan và đáng tin cậy. Viết báo cáo nghiên cứu là một hoạt động thực tiễn để bạn rèn luyện khả năng tìm hiểu, khám phá về đời sống xã hội và thiên nhiên (hiện tượng, sự việc, địa lý, lịch sử,......) thông qua tài liệu thu thập được và trình bày kết quả tìm hiểu, khám phá đó. Vấn đề nghiên cứu có thể là một vấn đề đời sống hoặc một vấn đề rút ra từ tác phẩm văn học mà bạn đã biết. Show Cách tiến hành thực hiện viết báo cáo nghiên cứu theo từng loại mục:Nghiên cứu một tác phẩm văn học dân gian (Nghiên cứu một truyện cổ dân gian):Chuẩn bị:
Tìm ý, lập đề cương:
Tài liệu tham khảo: Nêu danh sách các tài liệu đã được tham khảo trong khi làm bài nghiên cứu hoặc được trích dẫn (lưu ý sử dụng đúng quy cách, theo tiêu chuẩn của một sản phẩm nghiên cứu khoa học) .
2. Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn học dân gian:2.1. Trả lời câu hỏi:Câu 1 (Trang 116 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Vấn đề (câu hỏi) nghiên cứu của tác giả trong bài viết là gì? Câu 2 (Trang 116 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Để triển khai bài viết, tác giả đã sử dụng những luận điểm chính nào?
Câu 3 (Trang 116 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Tác giả đã sử dụng những loại bằng chứng nào để làm sáng tỏ các luận điểm chính?
2.2. Thực hành viết:Chuẩn bị viết:
Xây dựng đề cương:
Viết bài theo dàn bài đã lập: Dưới đây là bài tham khảo.Đăm Săn là tác phẩm sử thi kinh điển của Việt Nam, có vị trí và vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền văn học nước nhà. Thiên sử thi không chỉ miêu tả trận đánh oanh liệt, phản ánh hiện thực và khát vọng anh hùng của con người Ê-đê mà còn tạo ra bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo của người Ê-đê thông qua các chi tiết trong truyện. Cho đến nay đã có nhiều người nghiên cứu về sử thi này. Những nhà nghiên cứu người Pháp đã có công lao to lớn trong việc phát hiện, biên dịch và xuất bản sử thi Đăm Săn đầu tiên trên thế giới. Sau đó, đến năm 1957, tác giả Đào Tử Chí đã dịch tác phẩm Đăm Săn từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và đăng trên Tạp chí Văn nghệ với tên gọi: Bài ca chàng Đăm Săn. Khi sử thi Đăm Săn được dịch sang tiếng Việt thì công cuộc sưu tầm tác phẩm đã được quan tâm nhiều hơn nữa. Nhìn chung, các tác giả đã giành sự quan tâm đến sử thi Đăm Săn và thu được nhiều kết quả tự hào. Tuy nhiên, sử thi Đăm Săn chưa khai thác hết vẻ đẹp văn hoá Ê-đê trong sử thi Đăm Săn để có những hiểu biết mới mẻ về bản sắc văn hoá cộng đồng người Ê-đê nói chung và sử thi Đăm Săn nói riêng. Trước tiên, có thể thấy, ngôi nhà là nét đặc trưng về giá trị văn hoá vật chất của người Ê-đê. Trong sử thi Đăm Săn, ngôi nhà của người anh hùng Đăm Săn đã mô tả khá kỹ: "nhà chàng Đăm Săn dài đến nỗi tiếng cồng chiêng đánh đằng trước nhà, người ở sau nhà không nghe thấy. Mái hiên nhà chàng con chim phải mỏi cánh mới hết ".Nhà của Đăm Săn có nhiều "chiếc khiên sáng như đom đóm", "mây nặng trĩu làm cong các sào phơi. Thịt bò thịt trâu treo đầy xung quanh ","bát đĩa bằng đồng bày khắp sàn nhà "(2) . Người Ê đê còn cất nhiều vật dụng ở trong nhà, đặc biệt tại phòng ngủ, chẳng hạn như ché rượu cần, cồng chiêng, nồi đồng, thịt trâu bò. .. vì đây là các tài sản giá trị, thể hiện sự sung túc. Ngôi nhà đó không chỉ là không gian sinh sống mà còn là nơi gắn bó nhiều thế hệ dòng tộc người Ê đê, nơi thể hiện sự thịnh vượng, giàu có của cộng đồng, bộ lạc. Thực tế nhà truyền thống của người Ê-đê cũng chia không gian nội thất làm hai phần theo chiều dài, phần phòng khách vừa là nơi nghỉ ngơi lại là nơi kết nối cả đại gia đình. Phần cuối cùng lại dành cho các cặp vợ chồng sống trong những phòng có vách ngăn. Những ngôi nhà này không chỉ là biểu trưng vật chất của thế chế gia đình hiện đại mà còn là nơi gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của người Ê Đê theo thời gian. Ngôi nhà sàn được làm từ tre, nứa hoặc bằng luồng, mặt sàn và bờ tường bao quanh nhà làm bằng thân cây chuối hay vỏ quả mít già đập dập, mái lợp rơm rạ. Điều đặc biệt của căn nhà này là nó có hai cầu thanh đực dành cho các thành viên nam và cầu thang cái dành cho nữ giới. Đời sống của người Ê-đê cũng được phản ánh trong món ăn hàng ngày. Ẩm thực Ê Đê là sự hoà quyện đầy tinh tuý của thảo mộc, gia vị và thực phẩm tươi sống với các phong cách chế biến độc đáo. Những món ăn này có sự pha trộn tinh tế của hương vị chua, cay và mặn. Ẩm thực Ê Đê đã góp phần tạo ra sự phong phú cho nền ẩm thực Việt Nam. Và cũng là yếu tố hấp dẫn khách du lịch. Trong mỗi bữa ăn, cơm nếp là một món ăn chính và muối ớt là gia vị không thể thiếu của đồng bào Ê Đê. Những món ăn tiêu biểu của Ê Đê với nhiều loại gia vị và thảo mộc có thể kể đến như món thịt heo xào sả ớt, các loại thịt thú rừng hay một số món hầm như cháo nấu bằng bột gạo nếp giã nhỏ, canh măng đắng, cá lóc kho, gà nướng. Trong sử thi Đăm Săn, Đăm Par Kvây đã tiếp đãi Đăm Săn trước lúc đi tìm Nữ Thần Mặt Trời "đốt một gà mái đẻ, giết một gà mái con, giã gạo trắng như hoa êpang". Ẩm thực Ê Đê phản ánh tinh thần và lối sống khoáng đạt, gần gũi của con người với thiên nhiên thông qua cách nguyên liệu, chế biến theo phong cách vừa dân dã, vừa đậm chất núi rừng. Bản sắc văn hoá của cộng đồng người Ê đê được biểu hiện rõ nét trong trang phục và những hoạt động lao động sản xuất. Người anh hùng Đăm Săn được mô tả với thân thể khoẻ mạnh, cường tráng trong trang phục: "cái khố có hoa sao, cái áo có hoa mai", "Trên cổ, chàng thắt một cái khăn màu tím. Quanh lưng, chàng thắt một chiếc khăn màu đỏ ".Trang phục của Đăm Săn cũng là trang phục điển hình của đàn ông Ê đê xưa. Y phục của đàn ông gồm áo và khố: áo của nam thường có phần cánh tay tương đối dài, vạt sau dài hơn vạt trước và khố là để che kín một nửa thân dưới của họ. Ngoài ra, họ cũng hay mang hoa tai, vòng bạc hoặc đeo khăn đen nhiều vòng trên người. Chính những bộ trang phục này đã tôn lên nét đẹp mạnh mẽ và đầy cá tính của họ. Bên cạnh đó, các người vợ của Đăn Săn cũng mang những bộ trang phục khá độc đáo "Mỗi nàng mặc một chiếc váy có hoa mai và chiếc áo có hoa ban". Trang phục của họ là váy tấm hoặc áo len, chúng được dệt từ vải với tông màu chàm, màu đen chủ đạo và điểm nhiều hoa văn mang đậm dấu ấn thiên nhiên rừng núi. Trang phục còn kết hợp với trang sức bằng vàng hoặc đồng, vòng tay thường được đeo thành bộ đôi để tránh tiếng va đập của voi vào nhau. Phương tiện đi lại phổ biến nhất của người Ê đê xưa là voi, là ngựa: "Mặt đất có dấu chân ngựa giống hình con quay. Mặt đất in đầy dấu bánh xe như miệng chày giã lúa". Đăm Săn đã cưỡi voi đưa người dân đi lao động đánh bắt ốc, cua, tôm; cưỡi voi đi chiến đấu với M ’ tao Grứ và M ’ tao M ’ la nhằm bảo vệ thị tộc, bảo vệ vợ của mình. Đó là những "con voi đực đuôi dài chấm đất, có cặp ngà rộng, mặt nó như đoá hoa xinh đẹp, khiến bất cứ ai nhìn thấy nó đều phải trầm trồ". Không chỉ có voi mà ngựa cũng là một người bạn đồng hành cùng Đăm Săn đi tìm nữ thần Mặt Trời "con ngựa chạy nhanh như gió bay, leo lên đỉnh đồi, băng qua bao dòng thác, bao con suối" đã cùng Đăn Săn trải qua mọi thử thách ở rừng sáp đen của bà Sun Y Rít và cùng Đăm Săn rong ruổi trên con đường khám phá thiên nhiên. Đặc điểm văn hoá tiêu biểu của người dân Ê-đê là chế độ cha truyền con nối. Điều này được thể hiện đậm nét trong sử thi Đăm Săn. Chế độ cha truyền con nối của người Ê đê in đậm nét trong kiến trúc và trang trí trên đầu cầu thang vào nhà. Chúng được trang trí đôi bầu sữa và hình vầng trăng khuyết – những biểu tượng sinh động của tính nữ. Khi Đăm Săn đến nhà của Nữ Thần Mặt Trời "cầu thang trông như chiếc gương". Văn hoá người Ê đê còn gắn với tục nối dây (Juê nuê) – một luật tục cổ truyền trong hôn nhân của người Ê đê. Tục còn quy định khi chồng chết, người vợ có quyền yêu cầu nhà chồng phải thế một người đàn ông khác về làm chồng. Ngược lại khi vợ chết, người chồng phải cưới một người con gái trong nhà vợ, nếu người đó không có chồng. Theo tục Juê nuê, trong hôn nhân của người Ê đê, khi bà của H ’ Nhí và H ’ Bhí chết thì hai nàng phải nối dây với chồng bà là ông M ’ tao Y Kla (cậu của Đăm Săn) . Nhưng cậu của Đăm Săn chết, Đăm Săn phải thay thế cậu nối sợi dây hôn nhân với H ’ Nhí và H ’ Bhí. Trong sử thi, Đăm Săn đã thực hiện công việc đồng áng gắn với các hoạt động chăn nuôi, đánh bắt và trồng trọt. Khát vọng của chàng mang ý nghĩa thể hiện khả năng của chính bản thân để đưa sức mạnh con người sánh ngang với thiên nhiên. Đăm Săn kiên cường đi tìm nữ thần Mặt Trời. Đứng trước nữ thần Mặt Trời rất xinh đẹp, chàng đã tỏ rõ ý muốn của mình: "Tôi đến đây tìm người dệt chăn cho tôi, dệt vải dệt giày cho tôi đi, tìm người làm cơm cho tôi ăn". Nhưng nữ thần Mặt Trời đã từ chối. Chàng thất vọng lên ngựa quay lại buôn làng nhưng ngựa của Đăm Săn không chạy đua kịp với vận tốc của ánh sáng mặt trời nên cuối cùng chàng chết chìm trong rừng đất đỏ đen đang tan chảy của bà H ’ Sun Y Rít. Người anh hùng đã hy sinh nhưng lý tưởng ấy còn được tiếp nối mãi với sự xuất hiện của Đăm Săn cháu sau này, những người dân Ê đê khác sẽ lại bước tiếp con đường của chàng Đăm Săn, tiếp tục hoàn thiện lý tưởng, khát vọng khẳng định mình, chinh phục thiên nhiên, khai phá miền đất mới để mở rộng sự giàu sang, trù phú của buôn làng như người anh hùng này đã tạo ra trước đó. .. Sử thi Đăm Săn là một trong các kiệt tác lớn của nền văn hoá dân tộc. Qua hình tượng Đăm Săn, chúng ta hiểu rõ thêm về bản sắc văn hoá và con người Ê đê vùng đất Tây Nguyên. Người Ê đê ở Đắk Lắc có đời sống vật chất và tinh thần rất đặc sắc. Chính những giá trị văn hóa truyền thống của người Ê đê đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa của vùng đất Tây Nguyên, tạo nên nét khác biệt trong văn hóa so với các vùng văn hóa khác. Những nét văn hóa phong phú và đa dạng của người dân tộc Ê đê đã thực sự đóng góp những tri thức văn hóa lịch sử quý giá vào kho tàng văn học sử thi nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, sử thi Đăm Săn đã tô đậm thêm những nghi thức, nghi lễ truyền thống với nhiều tập tục đặc sắc của tộc người Ê đê không thể hoà lẫn với các dân tộc khác. |