Hạn chế trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

1. Đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Ngay từ ngày xây dựng chính quyền, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Do vậy, xây dựng, phát triển văn hóa suy cho cùng cũng là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Còn xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Vì vậy, xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa. Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong suốt quá trình thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nền văn hóa này vừa đảm bảo được sự thống nhất của quốc gia - dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc, vừa tôn trọng và phát huy sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là nền văn hóa thắm nhuần sâu sắc các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển đất nước. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa VIII, Đảng ta tiếp tục ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 về xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bổ sung thêm quan điểm mới là: sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững đất nước;; phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, phải quan tâm xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh phát huy sức mạnh nội lực trong nước cần thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn ghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước.

Vấn đề phát triển văn hóa, con người được Đảng ta định hướng rất rõ trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng về tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[1]. Theo đó, phải phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế...[2]. Để thực hiện thành công quan điểm phát triển văn hóa, con người trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các đơn vị... khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội[3].

Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ghi rõ trong Hiến pháp. Nhằm định hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới, Đảng ta nêu rõ các quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện.

2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng. Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.

3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Xuất phát từ 5 quan điểm trên, Đảng ta đã đưa ra 6 nhiệm vụ rất cơ bản và bao quát một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sáu nhiệm vụ đó là: (1) xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về đạo đức, tâm hồn, thể chất đến trí tuệ, năng lực; (2) xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; (3) xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; (4) nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; (5) phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa; (6) chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phức tạp trong tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[4].

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cả về mặt nhận thức và cách thức.

Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ đổi mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu và động viên, tổ chức cho Nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người. Về cách thức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng hài hòa, vừa bảo đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa thông qua việc thực hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 33-NQ/TW.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa, Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh các yêu cầu sau: Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật, quyền tác giả và các quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, tích cực tiếp thu và ứng dụng hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về văn hóa, không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ quản lý.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng và người Việt Nam nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực.

Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trò quan trọng, là động lực của sự phát triển đất nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI yêu cầu phải xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy môn đào tạo. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; giàu trí tuệ, phong phú về đời sống tinh thần, trong sáng về đạo đức, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật, chăm lo xây dựng cộng đồng; biết suy nghĩ độc lập, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, lành mạnh; có tinh thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự quản, dân chủ, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã hội hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực phát triển con người toàn diện.

Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cầu đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người ngang với đầu tư cho phát triển kinh tế. Bởi lẽ, chung quy mọi sự phát triển đều do con người, vì con người. Nếu giá trị văn hóa bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, con người bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà nước cần đầu tư cả về tài lực, vật lực và có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ để thực hiện mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay. Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh xã hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ trong xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, nhất là những vùng khó khăn. Xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm. Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, con người.

Tóm lại, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất nước. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản sắc, cốt cách dân tộc. Con người là nguồn lực quan trọng nhất .giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội Ngày nay, văn hóa, con người còn được xác định là một trong những yếu tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Vì thế, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam hiện nay./.

   TS. Phạm Thị Mỹ Phượng - Trưởng khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị Tiền Giang.

Chú thích:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.143.

[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.115-116.

[3] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.262-263.

[4] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.115-116.