Hiến pháp năm 1992 có bao nhiêu chương?

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kì đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới, đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng và văn minh. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá 8, tại kì họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ban hành Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980. Ngày 30/6/1989, kì họp thứ V Quốc hội khoá 8 tiếp tục ban hành Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Trong kì họp này Quốc hội đã ban hành Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng ỳêu câu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch, ưỷ ban sửa đổi Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Cuối năm 1991 đầu năm 1992, Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khoá VIII, tại kì họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý và bổ sung nhất định, ngày 15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước ”].

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản cũng giống như lời nói đầu của các Hiến pháp trước, ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong lời nói đầu cũng xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.

Chương I - Chế độ chính trị, cũng bao gồm 14 điều [từ Điều 1 đến Điều 14] như Hiến pháp năm 1980.

Tại Chương này, Hiến pháp cũng xác định những nguyên tắc

Cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của nhà nước chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức [Điều 2]. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam [Điều 4]; nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc [Điều 5]; nguyên tắc tập trung dân chủ [Điều 6]; nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín [Điều 7]. Khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 không dùng thuật ngữ “Nhà nước chuyên chính vô sản” mà dùng thuật ngữ “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,vì nhân dân”. Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất “của dân, do dân, vì dân” của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại. Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước [Điều 9].

Khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 quy định một đường lối đối ngoại rộng mở. Theo quy định của Hiến pháp mới, nước ta thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước chủ xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nước ta có thể hoà nhập vào trào lưu chung của văn minh thế giới và phù hợp với xu hướng quốc tế hoá rất cao của lực lượng sản xuất thế giới. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp năm 1992 đã làm tiền đề cho những thắng lợi to lớn của nước ta trong lĩhh vực hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Chương II - Chế độ kinh tế, bao gồm 15 điều [từ Điều 15 đến Điều 29].

Có thể nói rằng đây là chưong được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

Theo quy định tại Điều 15 Hiến pháp năm 1992, đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng chủ xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật và giao lưu với thị trường thế giới [Điều 16].

Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh [Điều 21]. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật [Điều 22]. Như vậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật. Hơn nữa, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu họp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như tài sản họp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hoá [Điều 23 và 25]. về vấn đề đất đai, cũng như trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định đất đai thuộc quyền sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp quy định thêm về quyền được sử dụng đất lâu dài đối với người được giao và được chuyển quyền sử dụng đó theo quy định của pháp luật [Điều 18].

Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 điều [từ Điều 30 đến Điều 43].

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Hiến pháp còn xác định “giảo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” [Điều 35]. Có thể nói rằng, Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta, thể hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tỉ lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 điều [từ Điều 44 đến Điều 48].

về cơ bản, Chương này giống như Hiến pháp năm 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 còn quy định bổ sung về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong frào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [Điều 47].

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 điều [từ Điều 49 đến Điều 82].

So với Hiến pháp năm 1980 thì Chương này trong Hiến pháp năm 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định “các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoả và xã hội được tôn trọng” [Điều 50]. Ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc và sinh sống ở Việt Nam còn có người không có quốc tịch. Với quy định trên đây người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích họp pháp. Với Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập [Điều 57]. Đây là một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu “về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kình tế khác” [Điều 58]. Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho gia đình và xã hội. Ngoài các quy định nói trển còn có quy định về “quyền được thông tin” là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp năm 1992. Quyền này được hiểu là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù họp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn.

Chương VI - Quốc hội, bao gồm 18 điều [từ Điều 83 đến Điều 100].

Chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. về cơ bản nội dung quyền hạn giống Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội như quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định trưng cầu ý dân [Điều 84 Hiến pháp năm 1992]. Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp;

- Quyết định các vấn đề quan họng của đất nước;

- Xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước chủ xã hội chủ nghĩa;

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp mới có một số thay đổi nhất định: Bỏ thể chế Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khôi phục lại chế định Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách [Điều 94 và 95].

Đe cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đạỉ diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước” [Điều 97]. So với Hiến pháp năm 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội cũng nhu trách nhiệm của các cơ quan nhà nuớc trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định cụ thể hơn [xem Điều 97 và Điều 100 Hiến pháp năm 1992].

Chương VII - Chủ tịch nước, bao gồm 8 điều [từ Điều 101 đến Điều 108]. Với Hiến pháp năm 1992 chế định Chủ tịch nước cá nhân được quy định lại thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp năm 1959.

So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết, Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp năm 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn vì Chủ tịch nước “khỉ xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ” [Điều 66] và Chủ tịch nước “khỉ xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt” để xem xét những vấn đề lớn của nước nhà [Điều 67]. Chủ tịch theo Hiến pháp năm 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể như đã nói ở phần trước có một số nhược điểm như không nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn ữong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992 quyền hạn không rộng như Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 1992.

Chương VIII - Chính phủ, bao gồm 9 điều [từ Điều 109 đến Điều 117].

Cũng như Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959, Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta có thể thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp năm 1980 xây dựng Chính phủ [Hội đồng Bộ trưởng] theo mô hình của hiến pháp chủ xã hội chủ nghĩa nhưng với quan điểm tập quyền “rắn”, nghĩa là quyền lực nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 kế thừa Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền “mềm”, nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhung cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Chính phủ là cơ quan châp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Với quy định này, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước.

Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ, làm nổi trội vai trò của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.

Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền được quy định tại các khoản 2,4 và 5 của Điều 114 Hiến pháp năm 1992.

Chương IX - Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bao gồm 8 điều [từ Điều 118 đến Điều 125].

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nước ta vẫn chia làm 3 cấp hành chính: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường và thị trấn [Điều 118]. Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân vẫn như cũ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân rõ hơn: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ỷ chỉ, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên'1'’ [Điều 119]. Như vậy, có thể thấy rằng hai đặc tính của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan nhà nước quan trọng đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động.

về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp năm 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1989 về thành lập thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các ban. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, quyền hạn của chủ tịch ủy ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể ủy ban nhân dân, nay chuyển cho chủ tịch ủy ban nhân dân [xem Điều 124]. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân do Quốc hội khoá IX [kì họp thứ 5] thông qua ngày 21/6/1994 trên tinh thần Hiến pháp năm 1992 đã tăng thẩm quyền cho chủ tịch ủy ban nhân dân [xem Điều 52].

Đe cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý nhà nước và xã hội, Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương được mời tham dự hội nghị ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương [Điều 125].

Chương X - Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều [từ Điều 126 đến Điều 140].

Theo quy định tại Điều 126 có thể nói về nhiệm vụ của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với quy định của Hiến pháp năm 1980.

Về tổ chức hệ thống cơ quan toà án được quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1993, Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1995. Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây, ở nước ta có các toà án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định.

Trước năm 1992, trong hệ thống tòa án nhân dân ở nước ta chỉ có toà hình sự và toà dân sự. Sau thời điểm trên, hệ thống tổ chức toà án cấp trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà kinh tế, toà lao động và toà hành chính để chuyên xét xử các tranh chấp kinh tế, lao động và hành chính. Ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.

Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức tòa án nhân dân theo Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước còn tất cả các thẩm phán của tòa án nhân dân các cấp kể cả phó chánh án tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức [Điều 38]. Nhiệm kì bổ nhiệm của các thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu.

Về các nguyên tắc xét xử, Hiến pháp năm 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp năm 1980.

Về viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước đây nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992 thi Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao do viện trưởng cử và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Uỷ ban kiểm sát viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do viện trưởng cử và trình Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định nay chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương [Điều 28 và 30 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992].

Ngoài quy định nói trên, Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992 có quy định mới về việc viện trưởng viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân [Điều 140 Hiến pháp năm 1992].

Các quy định trên đây về viện kiểm sát nhân dân cho thấy Hiến pháp năm 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng. Đồng thời, Hiến pháp mới cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp với hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.

Chương XI - Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, bao gồm 5 điều [từ Điều 141 đến Điều 145].

Chưong này về cơ bản giữ nguyên các quy định của Hiến pháp năm 1980, chỉ bổ sung vào Hiến pháp việc quy định ngày Quốc khánh của nước ta là 2/9 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp là Chương cuối cùng của Hiến pháp bao gồm Điều 146 và Điều 147. Nội dung của Chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp năm 1980.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, đồng thời là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp năm 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỉ. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của con người Việt Nam. Đó là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá pháp lý thế giới.

Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp thứ tư của Nhà nước ta và đã được sửa đổi, bố sung một số điểu theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25.12.2001 của Quốc hội khoá X.

Hiến pháp năm 1992 ra đời đã kịp thời thể chế hoá đường lối đổi mới toàn diện của Đảng trong những năm đầu đổi mới, tạo cơ sở pháp lí hiến định quan trọng và hết sức cần thiết cho bước chuyển biến mang tính cách mạng của xã hội Việt Nam ở những năm cuối cùng của thế kỉ XX, từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, hành chính, bao cấp, sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hoá một bước cơ bản mọi mặt đời sống xã hội, đã trực tiếp góp phần đưa xã hội Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài và ngày nay đang chuyển mạnh sang thời kì mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Quốc hội Khoá VIII [1987 - 1992], sau hai lần có quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1980, tại kì họp thứ 5, ngày 30.6.1988 cũng đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để tiến hành “sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới”.

Hiến pháp năm 1992 có 12 chương, 147 điều. Có một sự trùng hợp thú vị: tuy Hiến pháp năm 4980 so với Hiến pháp mới đã được sửa đổi bổ sung nhiều, nhưng cả hai Hiến pháp đều gồm "Lời nói đầu", 12 chương, 147 điều.

"Lời nói đầu" so với Hiến pháp năm 1980 đã được rút còn lại khoảng một phần ba, súc tích hơn, chỉ giữ lại những cột mốc lịch sử lớn, đề cập đến công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn bước đầu là » nguyên nhân đưa đến yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1980 đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, quyết tâm của nhân dân Việt Nam nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp mới.

Chương l - Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có 14 điều, từ Điều 1 đến Điều 14 và cả 14 điều đều có sửa đổi, bổ sung như: chuyển cụm từ “và các hải đảo" ở cuối đoạn 1 đặt ngay sau đất liền thành: bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Điều s xét về ý thuộc nội dung có sự điều chỉnh cơ bản: ở Hiến pháp năm 4980 khẳng định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản thì nay xác định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều 4 vẫn tiếp tục xác định vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng có những bổ sung quan trọng: nếu ở Hiến pháp năm 4980 nói Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo thì ở đây đã được rút gọn:

Đảng là lực lượng lãnh đạo và ý: “là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam” cũng được rút gọn, không còn, đồng thời có sự bổ sung, từ “Đảng.... theo chủ nghĩa Mác - Lênin” thì nay là: “Đảng... theo chủ nghĩa nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" và nếu ở Hiến pháp năm 1980: “Các tổ chức của Đảng" thì nay là: “Mọi tổ chức của Đảng

hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Chương II - Chế độ kinh tế, nếu ở Hiến pháp năm 1980 có 22 điều, thì Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, thu gọn còn 15 điều. Đổi mới tư duy và chính sách kinh tế là khâu “trước hết, đi đầu trong đường lối, chính sách đổi mới toàn diện đời sống đất nước và vì vậy ở Chương này cũng thể hiện rõ nhất tính đổi mới trong các quy định, điều luật của chương từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở.

Vấn đề lớn thu hút sự quan tâm nhiều của xã hội là vấn đề quyền sử dụng đất. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, trước hết là nông dân mở rộng các quyền sử dụng đất, Quốc hội đã có quy định bổ sung người sử dụng đất là tổ chức, cá nhân... “được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.

Chương IIl - Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, có 19 điều, từ Điều 30 đến Điều 48, có điều chỉnh, mở rộng từ 13 điều ở Hiến pháp năm 1980 thành 19 điều theo tinh thần đổi mới, chia sẻ phần trách nhiệm của Nhà nước với xã hội, ở một số điều đã sử dụng cách quy định: “Nhà nước và xã hội” như “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam" [Điều 30]; “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc” [Điều 34];... Mặt khác, Nhà nước đã xác định được những lĩnh vực phải ưu tiên đặt lên vị trí “hàng đầu" hoặc then chốt: “Giáo dục và đào tạo là mặt trận hàng đầu” [Điều 35]; “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội"... [Điều 37].

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều từ Điều 44 đến Điều 48, có sửa đổi và bổ sung ở một số điều về “bảo vệ an ninh

quốc gia, trật tự an toàn xã hội..." [Điều 47] và và nhiệm vụ “xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ" [Điều 47]: bổ sung ý “kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng”.

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, có 34 điều, từ Điều 49 đến Điều 82, là chương dài nhất của Hiến pháp, so với Hiến pháp trước chỉ giữ nguyên 4 điều, sửa đổi đến 26 điều và có thêm 4 điều mới với nội dung chủ yếu là quy định cho rõ, đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chú ý đến tính khả thi, khả năng thực hiện.

Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các quy định về quyền công dân có những thay đổi lớn: "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật' [Điều 57], “Công dân có quyền sỏ hữu về thụ nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà Ỏ, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" [Điều 58].

Trong lĩnh vực chính trị - nhà nước, các quyền về tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương vẫn được giữ vững, duy trì. Về các quyền tự do dân chủ, Hiến pháp mới không những ghi lại các quy định của các Hiến pháp trước mà còn có sự phát triển đáng kể, đặt vấn đề quyền công dân nhìn từ phương diện quyền con người: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật [Điều 50], “quyển được thông tin" [Điều 69]; quyền tự do tôn giáo được bổ sung. Quyền tự do đi lại, cư trú cũng có bước phát triển mới; “Công dân có quyền tự do đi lại và cứ trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp lẩật [Điều 68]. Nói đúng hơn, đây là sự trở về với quy định của Hiến pháp đầu tiên. Một trong năm quyền tự do cá nhân được Điều 10 Hiến pháp 1946 quy định là công dân Việt Nam có quyển... “tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, có bổ sung cần thiết: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà á" để có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam gũ, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử li nghiêm minh" [Điều 72].

Các chương từ Chương VI đến Chương X, có 58 điều, được tập trung quy định về tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Về các cơ quan cấp trung ương, Hiến pháp năm 1992 lại thực hiện một sự đi ều chỉnh lớn trực tiếp có quan hệ đến tất cả các cơ quan là thiết chế Hội đồng nhà nước sau 12 năm vận hành với hai nhiệm kì Quốc hội [Quốc hội Khoá VII nhiệm kì 5 năm và kéo dài † năm [1981 - 1987], Quốc hội Khoá VIII nhiệm kì 5 năm kéo dài 3 tháng [1987 - 1992] đã tỏ ra không hoàn toàn thích hợp và đã được thay thế, phục hồi lại các thiết chế Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1959 với một số điều chỉnh theo Hiến pháp năm 1946.

Về Quốc hội, với 18 điều [Điều 83 đến Điều 100], tuy về cơ bản, giữ lại các quy định của Hiến pháp năm 1980, nhưng cũng có những thay đổi với sự xuất hiện trở lại Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng như chức danh Chủ tịch nước và sự điều chỉnh trong tính chất của cơ quan hành pháp cao nhất và cả những bổ sung, cụ thể hoá, điều chỉnh trong nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Đối với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đến Hiến pháp năm 1992, về quyền hạn, nhiệm vụ so với Hiến pháp năm 1959, có sự điều chỉnh làm rõ nét hơn tính chất thường trực của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp thì thực hiện một số quyền hạn, nhiệm vụ của Quốc hội và “báo cáo Quốc hội hoặc trình Quốc hội phô chuẩn tại kì họp gần nhất của Quốc hội như quy định tại các điểm 8, 9 Điều 91.

Chương VII - Chủ tịch nước, với 8 điều, từ Điều 101 đến Điều 108 là sự tái lập thiết chế nguyên thủ quốc gia - Chủ tịch nước mà quyền hạn không như quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 4946, nhưng cũng không như quy định tại Điều 63 Hiến pháp năm 1959 mà đã mang tính thực quyền, nhất là các quyền mà theo Hiến pháp năm 4959 thì giao cho Uỷ ban thường vụ thực hiện [Điều 53, các điểm 11, 12, 14, 15] “9... Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp đại sứ hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 10. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền pửu nưiệc ngoài; tiến hành đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; 12. Quyết định đặc xá...”. Chủ tịch nước lại được giao “đề nghị Uỷ ban thường vụ quốc hội [Điều 103 Hiến pháp 1992] xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các quy định tại điểm 8, điểm 9, Điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua...” [Điều 103, điểm 7]. Về Chính phủ [9 điều, từ Điều 109 đến Điều 117] từ Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 có sự điều chỉnh quan trọng. Trên nền của sự thừa lo Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc .. [Điều 104], tiếp đến là sự điều chỉnh lớn một X những tính chất đặc trưng của cơ quan hành pháp cao nhất: là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hay là của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.. Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu và bổ nhiệm các Bộ trưởng và đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và trước Quốc hội [Điều 117]. Thủ tướng có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng và được Chương này quy định: ra quyết định, chỉ thị trong chỉ huy, điều hành [Điều 115].

Về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân - Chương IX, có 8 điều từ Điều 118 đến Điều 125, về cơ bản chưa có những điều chỉnh lớn. Về bộ máy nhà nước, như Nghị quyết hội nghị trung ương 2 [Khoá VII] tháng 12.1991 xác định, chỉ mới cải cách một bước bộ máy nhà nước và chủ yếu ở cấp trung ương, đối với tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, do Hội đồng nhân dân là một thiết chế phải tiếp tục nghiên cứu để có thể thực hiện cải cách một cách cơ bản, toàn diện, nhất là trong tình hình Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân lúc bấy giờ vừa được bầu năm 1989 và ở cấp nào có thành lập Hội đồng nhân dân đang là vấn đề còn ý kiến khác nhau lớn, nên khác với ba Hiến pháp trước là tại mỗi thời điểm.

Hiến pháp đều khẳng định cấp chính quyển được lập Hội đồng nhân dân thì Điều 118 Hiến pháp năm 1992 dành việc quy định đó lại cho Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân: “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Ở các đơn vi hành chính do luật định". Nội dung của chương này, vì vậy về cơ bản kế thừa, giữ lại những điều của Hiến pháp năm 1980.

Về Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chương X, có 15 điều, từ Điều 126 đến Điều 140, về cơ bản vẫn giữ lại các điều quy định của Hiến pháp năm 1980 với một số điều chỉnh, sửa đổi quan trọng: thay cho chế độ bầu cử Thẩm phán của Hiến pháp năm 1980 [Điều 129] là “chế độ bổ nhiệm, bãi nhiệm... Thẩm phán" [Điều 128]. Đối với Viện kiểm sát [từ Điều 138 đến Điều 141] cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1980.

Các chương XI, Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô; Chương XII, Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp vẫn giữ lại các điều của Hiến pháp năm 1980.

3. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001

Sau khoảng 10 năm có hiệu lực, Hiến pháp năm 1992 đã phát huy được hiệu quả của một đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiến pháp năm 1992 đã thực sự tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá của thế giới hiện đại. Tuy nhiên, sau một thập kỉ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có những thay đổi nhất định đòi hỏi Hiến pháp phải được bổ sung, sửa đổi nhằm phát huy hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của nó trong việc điều chỉnh các QHXH. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội khoá X, kì họp thứ IX đã ban hành Nghị quyết số 43/2001/QH10 ngày 29/6/2001 về việc thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Bản dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã được đưa ra thảo luận rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Sau khi tổng hợp các ý kiến đóng góp của nhân dân, bản dự thảo đã được chỉnh lý, bố sung nhiều lẩn. Sau một thời gian làm việc khẩn trương với sự bàn bạc, thảo luận dân chủ, công khai, ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X, kì họp thứ X với đa số tuyệt đối đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

4. Nội dung cơ bản của những vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp năm 1992

Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001, có 24 vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp năm 1992. Cụ thể:

Những sửa đổi, bổ sung trong Lời nói đầu:

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống nồng nàn yêu nước, nhờ truyền thống yêu nước này mà chúng ta đã làm nên những trang sử vẻ vang cho nước nhà như đã nhiều lần đánh thắng các kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần, đó là giặc Tống, Nguyên, Minh, Thanh và hai thực dần, đế quốc lớn thời hiện đại là Pháp và Mỹ. Vì vậy, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa lớn trong thời đại ngày nay. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Quốc hội đã nhất trí bổ sung cụm từ “phát huy truyền thống yêu nước’'’ vào đoạn cuối của Lời nói đầu. Đoạn cuối của Lời nói đầu được viết như sau:

“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao tỉnh thần tự lực, tự cường xây dựng đẩt nước, thực hiện đường lối đổi ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thẳng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương I- Chế độ chính trị.

Chương Chế độ chính trị được sửa đổi, bổ sung 4 điều. Đó là các điều 2, 3, 8, 9:

+ Ngày nay, các nước tiến bộ ưên thế giới đều xây dựng nhà nước pháp quyền. Khái niệm nhà nước pháp quyền [Rule of law, L’Etat de droit] đã trở thành một khái niệm phổ biến trong đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Xây dựng nhà nước pháp quyền là xây dựng một nhà nước mà ở đó tất cả các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức nhà nước kể cả các quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước đều hoạt động theo đúng các quy định của hiến pháp và pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật không những là công cụ để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội mà còn là công cụ để nhân dân thực hiện qùyền làm chủ của mình và để giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Khẳng định tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai câp nông dân và đội ngữ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thong nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

+ Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu này cần phải được thể hiện trong Hiến pháp. Vì vậy, Điều 3 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã ghi nhận:

“Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dãn, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ỉch của Tổ quốc và của nhân dân”.

+ Sau hơn 15 năm [kể từ năm 1986] thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức của những mặt trái của nền kinh tế thị trường, trong đó có nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước trở thành một trong nhịrng vấn đề được Nhà nước và xã hội quan tâm sâu sắc, vì vậy Hiên pháp sửa đổi đã đưa vấn đề đấu tranh chống tham nhũng lên nhi âm vụ hàng đầu.

Điều 8 Hiến pháp sửa đổi đã quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước ph tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chi kiến và chịu sự giám sát của nhân chống tham nhũng, lãng phí và cửa quyền, tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của người dân; kiên quyết đẩu tranh biểu hiện quan liêu, hách dịch,

+ Đại đoàn kết toàn dân là một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc Việt Nam. Nhờ dân mà dân tộc ta tuy nhỏ yếu đã đánh thắng thực dân, đế quốc hùng mạnh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ khi thành lập cho đến nay luôn luôn là một tổ chức tập hợp và đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các lực lượng xã hội trong và ngoài nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng ngày càng tỏ ra là một tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đổ khẳng định và nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 9 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung nhự sau:

“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cẩp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tỉnh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.

Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả".

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương II - Chế độ kinh tế.

Chương Chế độ kinh tế được sửa đổi, bổ sung 5 điều: Điều 15, Điều 16, Điều 19, Điều 21, Điều 25.

+ Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI với những thành tựu khoa học, kĩ thuật và công nghệ mà loài người đã đạt được, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã mang tính chất quốc tế hoá, bất cứ hàng hoá gì người ta cũng có thể mua, cũng có thể bán bất cứ ở đâu trong phạm vi toàn cầu. Như vậy, thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng hoá giờ đây không bó hẹp trong một quốc gia mà đã ở phạm vi toàn cầu. Trong điều kiện đó, bất kì một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều buộc phải hội nhập quốc tế, chấp nhận luật lệ chung trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế, đồng thời phải bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia mình. Xác định rõ các nguyên tắc và định hướng trên đây, Điều 15 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã quy định: “Nhà nước xây dựng nền kinh tể độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩt nước.

Nhà nước thực hiện nhất quán chinh sách phát triển nền kinh tể thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng".

+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng chủ xã hội chủ nghĩa, sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng, tuy nhiên muốn phát huy mọi tiềm năng kinh tế của đất nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh đều phải được phát triển lâu dài và bình đẳng trước pháp luật. Thể hiện tư tưởng này, Điều 16 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã quy định: '‘"Mục đích chỉnh sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kình tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thế, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tể tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.

Các thành phần kình tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kình doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cam; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.

Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Điều đáng lưu ý là trong Điều 16 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã bổ sung hai thành phần kinh tế là kinh tế tiểu chủ và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, theo quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi nước ta có 7 thành phần kinh tế.

+ Nhằm xác định rõ định hướng chủ xã hội chủ nghĩa trong Imh vực kinh tế, Điều 19 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Kỉnh tể nhà nước được củng cổ và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

+ Điều 21 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi được bổ sung thành phần kinh tế tiểu chủ cho phù họp với Điều 16, theo đó Điều 21 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quỵ mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.

Kỉnh tế gia đình được khuyến khích phát triển".

+ về hoạt động đầu tư về Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Điều 25 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định: “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước".

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương III - Vẫn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ.

Chương này được sửa đổi, bổ sung ương 4 điều: Điều 30, Điều 35, Điều 36, Điều 37.

+ Trong thời đại hội nhập và toàn cầu hoá, việc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam hiện đại, vừa tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại, vừa giữ được bản sắc của văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ hết sức quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, vì vậy phải thể hiện rõ tư tưởng chủ đạo trên đây. Vì vậy, Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoả Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.

Nhà nước thong nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cẩm trưyền bá tư tưởng và văn hoả phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục”.

+ Giáo dục và đào tạo thường gắn liền với nhau. Phát triển giáo dục là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, như vậy theo nghĩa rộng giáo dục bao gồm cả đào tạo, còn đào tạo có nghĩa hẹp hơn giáo dục. Đào tạo có nghĩa là giáo dục nghề nghiệp. Neu nâng cao dân trí là nhu cầu không có giới hạn, thì đào tạo nghề nghiệp lại theo những nhu cầu nhất định, theo sự cần thiết của phân công lao động xã hội. Vì vậy, Quốc hội đã nhất trí sửa đổi quy định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” thành “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.” [Điều 35 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi].

+ Sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam không những đạt được những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực kinh tế, mà trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng đã đạt được những tiến bộ lớn. Chúng ta về cơ bản đã phổ cập giáo dục tiểu học và xoá nạn mù chữ như quy định của Hiến pháp năm 1992. Vì vậy, nhiệm vụ tiếp tục của chúng ta là phải thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Và điều này đã được thể hiện trong Điều 36 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi.

+ Thế kỉ XXI là thế kỉ của nền kinh tế tri thức. Khoa học và công nghệ vốn đã giữ vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giờ đây càng trở nên quan trọng hơn. Phát triển khoa học và công nghệ cũng như phát triển giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu. Quốc hội với đa số tuyệt đối đã nhất trí bổ sung điều này vào phần đầu của Điều 37 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi.

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Chương V được sửa đổi, bổ sung tại 2 điều: Điều 59 và Điều 75.

+ Đoạn cuối của Điều 59 trước đây quy định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoả và học nghề phù hợp”. Đoạn này được sửạ đổi và bổ sung lại như sau: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp”. Việc sửa đổi, bổ sung như vậy là cần thiết vì thuật ngữ “khuyết tật” chính xác hơn thuật ngữ “tàn tật” và ngoài trẻ em khuyết tật còn có những trẻ em đặc biệt khó khăn khác cũng cần phải được sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội để được học văn hoá và học nghề như trẻ em mà bố mẹ và người thân đều mất trong tai biến thiên nhiên, tai nạn giao thông hoặc bệnh tật, trẻ em vì nhiều lý do khác nhau bị bỏ rơi mà không thể tìm lại bố mẹ, người thân...

+ Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, trong đó có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, bảo hộ quyền lợi chính đáng của họ, giúp họ luôn hướng đến quê hương, đất nước, nhớ về cội nguồn của mình, Điều 75 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chỉnh đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Nhà nước khuyển khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đẩt nước”.

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương VI - Quốc hội.

Trong Chương VI có sự sửa đổi, bổ sung tại Điều 84 [các điểm 4, 5, 7, 13] và Điều 91 [bãi bỏ điểm 8, sửa đổi điểm 9 và đảo lại trật tự nội dung tại các điểm 10, 11, 12].

+ Thực hiện việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương theo hướng tăng thẩm quyền cho chính quyền địa phương, điểm 4 Điều 84 trước đây quy định Quốc hội quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Nay theo quy định mới, Quốc hội chỉ phân bổ ngân sách trung ương còn phân bổ ngân sách địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân địa phương. Các thẩm quyền khác quy định trong điểm 4 Điều 84 vẫn giữ nguyên như cũ.

+ Vấn đề tôn giáo ở nước ta cũng như ở các nước trên thế giới là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, vì vậy chính sách tôn giáo phải do Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, các nhà lập pháp Việt Nam đã bổ sung vào điểm 5 Điều 84, theo đó Quốc hội không những có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định chính sách dân tộc như quy định trước đây mà còn quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước.

+ Nhằm tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn, điểm 7 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

+ Nhằm phân biệt việc phê chuẩn các loại điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí kết và đề nghị Quốc hội phê chuẩn với việc phê chuẩn điều ước quốc tế do Chính phủ kí kết và Chù tịch nước đề nghị Quốc hội phê chuẩn, điểm 13 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định: Quốc hội “quyết định chỉnh sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kỉ; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tể khác đã được kí kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước”.

+ Điểm 8 Điều 91 bị bãi bỏ. Đây là điểm quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội trong kì họp gần nhất của Quốc hội. Việc bãi bỏ quy định trên đây là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, việc phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của Chính phủ là công việc đặc biệt quan trọng phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Kinh nghiệm nước ngoài cũng cho thấy rằng, việc phê chuẩn bổ nhiệm các thành viên Chính phủ và các nhân sự cấp cao trong bộ máy nhà nước thuộc thẩm quyền của Nghị viện [hoặc thượng nghị viện].

+ Việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược cũng là công việc đặc biệt quan trọng, đòi hỏi sự sáng suốt, thận trọng và cần thiết sự suy xét, bàn định của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, vì vậy chỉ trong trường hợp Quốc hội không thể họp được thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới có quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất của Quốc hội. Thể hiện tư tưởng trên đây cụm từ “trong thời gian Qụổc hội không họp" [điểm 8 Điều 91 Hiến pháp năm 1992] đã được thay thế bằng cụm từ “trong trường hợp Quổc hội không thể họp được" [điểm 9 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi]. Điều đó có nghĩa là nếu trong điều kiện Quốc hội có thể họp được thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải triệu tập phiên họp bất thường của Quốc hội để quyết định vấn đề tuyên bố tình trạng chiến tranh.

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương VII - Chủ tịch nước.

Chương VII được sửa đổi, bổ sung tại các điểm 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 103.

+ Phù hợp với việc bãi bỏ điểm 8 Điều 91, điểm 4 Điều 103 được sửa đổi, bổ sung, theo đó Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

+ Điểm 6 Điều 103 trước đây quy định Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương, nay bổ sung: Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

+ Điểm 7 Điều 103 trước đây quy định Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8, 9 Điều 91 trong thòi hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Điểm này được sửa đổi lại, theo đó Chủ tịch nước chỉ có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh vì thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và 9 Điều 91 đã bị bãi bỏ.

+ Điểm 9 Điều 103 về nội dung không có gì khác trước, tuy nhiên được quy định cụ thể hơn.

+ Điểm 10 Điều 103 được bổ sung quy định Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước quốc tế đã trực tiếp kí.

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương VIII - Chỉnh phủ.

Trong Chương vin có sự sửa đổi, bổ sung ở điểm 8 Điều 112, điểm 2 Điều 114, Điều 116.

+ Điểm 8 Điều 112 trước đây chỉ quy định Chính phủ thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; kí kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ nay ngoài thẩm quyền trên Chính phủ còn có thẩm quyền đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103 [thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước].

+ Phù họp với việc bãi bỏ thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, điểm 2 Điều 114 được sửa đổi, theo đó Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền đề nghị Quốc hội thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

+ Điều 116 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã bãi bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của thủ trưởng các cơ quan trực thuộc Chính phủ.

- Những sửa đổi, bổ sung trong Chương X - Toà án nhân dân và viện kiếm sát nhân dân.

Chương X được sửa đổi, bổ sung tại Điều 137 và Điều 140.

+ Trước đây, theo quy định tại Điều 137, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các viện kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, do phạm vi kiểm sát rất rộng nên hiệu quả của công tác kiểm sát thấp, hơn nữa giữa cơ quan kiểm sát và thanh tra nhiều khi trùng lắp công việc của nhau. Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã thu hẹp thẩm quyền của cơ quan kiểm sát, theo đó các cơ quan này chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

+ Điều 140 Hiến pháp năm 1992 quy định, viện trưởng các viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, do phạm vi thầm quyền của viện kiểm sát nhân dân bị thu hẹp nên Điều 140 được sửa đổi, theo đó viện trưởng các viện kiểm sát nhân dân địa phưomg chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng không phải về “tình hình thi hành pháp luật ở địa phương” như trước đây mà về việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương.

Tóm lại, trong 12 chương Hiến pháp năm 1992 chỉ có 4 chương là: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chủ xã hội chủ nghĩa [Chương IV]; Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân [Chương IX]; Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh [Chương XI]; hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp [Chương XII] là hoàn toàn giữ nguyên, còn lại từ lời nói đầu cho đến các chương khác đều có sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, đánh dấu một bước hoàn thiện chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, củng cố việc tổ chức, phân công và phối họp các nhánh quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá của thế kỉ XXI.

Chủ Đề