Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường To

[Baonghean.vn] - Từ những năm 60 của thế kỷ XIX, khi triều đình nhà Nguyễn suy yếu, đất nước Việt Nam dần rơi vào tay thực dân xâm lược, thì Nguyễn Trường Tộ - một người con quê hương Nghệ An đã đau đáu với nỗi niềm yêu nước, với vận mệnh dân tộc và đưa ra những yêu cầu canh tân để sớm đưa đất nước hùng cường.

Nguyễn Trường Tộ [1828 - 1871] sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa.  Là một người thông minh, Nguyễn Trường Tộ lại nhận được nền giáo dục tiên tiến rất sớm. Ông có điều kiện mà ít ai có được trong thời bấy giờ [giữa thế kỷ XIX] là đi đến nhiều nơi trong và ngoài nước, tiếp xúc với nhiều người.

Bức tượng danh nhân Nguyễn Trường Tộ. Ảnh: Tư liệu

Nguyễn Trường Tộ học thông Tứ thư Ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier đưa vào Chủng viện Tân Ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như tri thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt. Hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học, kỹ thuật, nhất là về kiến trúc, khai mỏ, mà còn đọc rộng về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật… và tìm hiểu một số thành tựu công nghệ của phương Tây nhất là Pháp. Trên đường đi sang Pháp và trở về nước, Nguyễn Trường Tộ có dịp ghé qua Rome, dừng chân ở Singapore và Hongkong.

Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về nước, khi Sài Gòn – Gia Định đã bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng. Nguyễn Trường Tộ phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái phủ Pháp ở Gia Định. Không ít lần ông sửa bớt chữ nghĩa trong công hàm của đôi bên nhằm tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình hoặc phương hại cho việc “tạm hòa”. Ông còn tìm cách thông báo một số ý đồ của phía Pháp cho các sứ thần của Triều đình như Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.

Năm 1863, sau gần 3 năm phải làm việc với quân Pháp một cách bất đắc dĩ, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát ra khỏi vùng quân Pháp, liên hệ được với Triều đình Huế. Từ đây cho đến lúc qua đời vào năm 1871, ông viết và gửi lên Triều đình Huế hàng chục bản điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước mạnh giàu, chấn hưng dân trí, coi trọng khoa học, giáo dục, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập, bảo vệ đất nước vừa bằng cả sức mạnh quân sự và chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo mà vững chắc.

Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ quan tâm đến công, nông, thương nghiệp. Ông khuyên Triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, mở mang buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài lợi, để có thêm của cải và học cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ; sửa đổi thuế khóa, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, làm sao cho “nước giàu dân cũng giàu”... Có như vậy mới giữ được độc lập trong tư thế làm chủ đón khách…

Tu viện Thánh Phaolo, số 4 Tôn Đức Thắng, Quân 1, Sài Gòn do Nguyễn Trường Tộ thiết kế. Ảnh: Tư liệu

Về mặt văn hóa, xã hội và giáo dục, Nguyễn Trường Tộ đề xuất cải cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành, thay đổi nội dung giáo dục. Ông khuyên Triều đình tìm mọi cách nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học, kỹ thuật, nhằm sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Nguyễn Trường Tộ phê phán tình trạng Kinh đô Huế luộm thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,… Ông nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại, có điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết. Mặt khác, không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài, thành lập các môn học thực dụng, dùng Quốc văn thay cho chữ Hán trong công văn, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh [nhà trẻ],…

Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho Triều đình Huế thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới lúc bấy giờ, những mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên Triều đình nên có quan hệ ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp tìm cách ngăn chặn âm mưu xâm lược của bộ phận cai trị của Pháp bên này, khéo léo chọn thời cơ lấy lại 6 tỉnh Nam Kỳ, xác lập “tư thế làm chủ đón khách”...

Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ, tuy có tư tưởng “chủ hòa” nhưng không “chủ hàng”. Ông khuyên Triều đình cải tu võ bị, trọng cả võ lẫn văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền, vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...

Vua Tự Đức đã nhiều lần tiếp nhận các điều trần của Nguyễn Trường Tộ và mời chấp nhận thực hiện một số việc như chuẩn bị mở trường kỹ thuật ở Huế, việc hòa đàm với Pháp… Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà những việc làm này đều không thành, các bản điều trần cũng dần bị Triều đình Huế bỏ qua và đi vào quên lãng...

Kênh sắt đoạn qua xã Nghi Yên nằm giữa Quốc lộ 1A cũ và mới. Ảnh tư liệu: T.H

Với quê hương Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ cũng đã bắt tay thực hiện một số công trình mang tính tầm cỡ. Trong đó nổi bật là việc ông giúp Tổng đốc An Tĩnh Hoàng Tá Viêm đào kênh Sắt - một đoạn trong kênh nhà Lê đi qua chân núi Sắt. Đoạn kênh này từng được nhiều đời vua tập trung đào nhưng không thể thông vì có nhiều quặng sắt ở dưới. Thời Vua Tự Đức, khi Hoàng Tá Viêm được cử làm Tổng đốc An Tĩnh, đã nhờ đến kiến thức uyên bác của Nguyễn Trường Tộ, trực tiếp mời ông đến đoạn kênh Sắt dù lúc này Nguyễn Trường Tộ đang điều trị bệnh ở Xã Đoài. Với kiến thức địa chất học được từ Pháp, Nguyễn Trường Tộ đã chỉ cách đào kênh Sắt. Sau khoảng 1 tháng thì đoạn kênh này được khơi thông, chấm dứt quãng thời gian nghìn năm nỗ lực đào kênh với bao nhiêu xương máu của nhân dân.

Cùng thời gian này, Nguyễn Trường Tộ cũng đã thiết kế, xây dựng 4 ngôi nhà trong khu vực giáo đường Xã Đoài [1864 - 1866], đây được xem là một trong những công trình kiến trúc kiểu châu Âu đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam...

Nghệ An tự hào là quê hương của nhà cải cách lớn Nguyễn Trường Tộ. Dù khát vọng canh tân đất nước không thành nhưng những tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của một người con xứ Nghệ. Đến nay, tư tưởng canh tân ông vẫn còn nguyên giá trị và để lại nhiều bài học quý giá cho hậu thế.

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

nêu những nội dung chính trong đề nghị cải cách của nguyễn trường tộ, em có nhận xét về những đề nghị cải cách của ông

Các câu hỏi tương tự

1. Hoàn cảnh dẫn đến tư duy cải cách của Nguyễn Trường Tộ

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng mà nguyên nhân chủ yếu là do thái độ bảo thủ, trì trệ của vua quan nhà Nguyễn. Trong khi đó nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây ngày càng hiện rõ, đe dọa nghiêm trọng nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trước bối cảnh như vậy, những người yêu nước và thức thời không thể có thái độ bàng quan, không thể đứng ngoài cuộc; họ đã lên tiếng đề xuất với triều đình nhiều phương án đổi mới, những việc làm cấp bách, những phương kế để ổn định xã hội, làm cho nước giàu, dân mạnh. Tất cả đã hình thành nên trào lưu canh tân với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch…Trong đó, Nguyễn Trường Tộ [1830-1871] là nhân vật đặc biệt nhất với những đề xuất táo bạo có tính khái quát cao trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện một tầm nhìn sâu rộng, tư tưởng kiệt xuất. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá rằng nếu những chương trình canh tân của Nguyễn Trường Tộ được thực hiện thì Việt Nam không những thoát khỏi cảnh bị thực dân đô hộ mà còn trở thành một cường quốc từ đầu thế kỷ XX. Tiếc rằng những ý tưởng, hoài bão lớn lao cũng như các đề xuất cải cách mà ông đưa ra không được thực hiện.

Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ bao quát trên mọi lĩnh vực, nó được chứng minh qua 58 bản điều trần mà ông gửi lên triều đình nhà Nguyễn trong vòng 8 năm, từ 1863 cho đến khi ông qua đời năm 1871.

2. Nội dung

- Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà dân cũng giàu". Ông khuyên triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được độc lập trong tư thế làm chủ đón khách... [xem Dụ tài tế cấp bẩm từ].

- Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực dụng, dùng quốc âm trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh [nhà trẻ], v.v... [xem Điều trần về cải cách phong tục, Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu...].

- Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt [xem Thiên hạ đại thế luận]. Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên triều đình nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với nước Anh, để chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước Pháp có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa Pháp phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đình xúc tiến ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn bọn chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm [xem Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871].

- Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều đình "ra sức cải tu võ bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng võ ngang trọng văn, quý trọng người lính, ưu đãi sĩ quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện tác chiến trong thành phố, tìm cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v...

Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ đại vô giá, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm 1862 - 1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xã Đoài. Mấy công trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu ở Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công trình xưa kia Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn vận động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ ông, cùng nhau dời làng từ trong núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đãng, thuận lợi canh tác.

Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ thuật [năm 1866 - 1867], nhưng nói chung, triều đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ bị lãng quên như một luồng ánh sáng rọi vào đám sương mù dày đặc.

Công cuộc đổi mới đất nước đã đi được chặng đường 22 năm. Rất nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đạt được sau khoảng thời gian này đã khẳng định tính đúng đắn, không thể đảo ngược của con đường phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nhiều vấn đề bất cập, tiêu cực, mặt trái cũng đã xuất hiện và bộc lộ ngày càng rõ nét cản trở quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực tiễn này đòi hỏi giới lý luận phải có những nghiên cứu tổng kết, đánh giá khách quan nhằm một mặt khắc phục, điều chỉnh những bất cập, hạn chế nảy sinh trong quá trình quản lý, điều hành công cuộc đổi mới, mặt khác, xây dựng và hoàn thiện lý luận phát triển của Việt Nam trong thời đại mới.

Video liên quan

Chủ Đề