So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự

– So sánh với Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 thì Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ là người bào chữa, không chỉ là các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án như trước đây.

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Ảnh mang tính minh họa (nguồn internet)

Điều 86 BLTTHS 2015; “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Ảnh mang tính minh họa (nguồn internet)

Nguồn chứng cứ

Nguồn chứng cứ trong BLTTHS 2015 được tách ra từ Điều 64 BLTTHS 2003 để thành hai điều luật riêng:

– Chứng cứ (Điều 86 Bộ luật TTHS 2015)

– Nguồn chứng cứ (Điều 87 Bộ luật TTHS 2015).

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Ảnh mang tính minh họa (nguồn internet)

Việc tách bạch này có ý nghĩa lớn nhằm tránh sự nhầm lẫn dẫn đến đồng nhất giữa chứng cứ với nguồn chứng cứ trong hoạt động tố tụng hình sự.

Nguồn chứng cứ bao gồm: Vật chứng, lời trình bày của đương sự, dữ liệu điện tử, hoạt động định giá tài sản, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác… Những yếu tố trong nguồn chứng cứ này chỉ có thể được coi là chứng cứ khi nó “là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.

Nói cách khác, không phải cái gì trong nguồn chứng cứ cũng đều được coi là chứng cứ, nếu như nó không có thật (VD: “vật chứng” được thay thế bằng một vật khác cùng loại) hoặc không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS 2015 quy định.

Thu thập chứng cứ

Điểm mới đáng chú ý của thu thập chứng cứ theo BLTTHS năm 2015 là ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ theo đề nghị của người bào chữa. Đây là trường hợp người bào chữa không thể tự mình thu thập chứng cứ được, nội dung này thể hiện sự mở rộng quyền của người bào chữa, đúng theo tinh thần đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội.

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Ảnh mang tính minh họa (nguồn internet)

BLTTHS 2015 bổ sung quyền tự thu thập chứng cứ của người bào chữa (khoản 1 Điều 73, khoản 2 Điều 88); cho phép người bào chữa có cơ sở pháp lý để tự mình thu thập chứng cứ hoặc đề nghị các cơ quan khác thu thập chứng cứ. Việc bổ sung quyền này góp phần làm cho vụ án được xem xét một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ hơn.

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Ảnh mang tính minh họa (nguồn internet)

Ngoài ra, tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS 2015 có quy định trình tự thu thập tài liệu trong hoạt động điều tra mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển giao cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát đóng dấu bút lục, sao lưu sau đó bàn giao lại cho cơ quan điều tra.

Đây cũng là trình tự mới bổ sung để Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát toàn bộ các tài liệu thu thập được, tránh được những sai sót trong việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự./.

Trong khoa học luật tố tụng hình sự, thông thường các hoạt động chứng minh được gọi là giai đoạn chứng minh. Thật ra, thuật ngữ giai đoạn chứng minh được sử dụng là chỉ đối với mỗi loại chứng cứ; Còn đối với toàn bộ quá trình chứng minh trong vụ án hình sự thì thuật ngữ đó chưa thật chuẩn xác.Thuật ngữ này quá nhấn mạnh trật tự thời gian trong hoạt động chứng minh mà chưa thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và logic, có tính hệ thống của toàn bộ quá trình chứng minh.

Đối với mỗi chứng cứ, quá trình chứng minh gồm các giai đoạn thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

1. Thu thập chứng cứ

Thu thập chứng cứ là hoạt động của chủ thể chứng minh phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Mỗi chứng cứ đều được xác định bằng một nguồn nhất định. Vì vậy, có thể nói, thu thập chứng cứ thực chất là phát hiện các thông tin, tư liệu, dấu vết liên quan đến đối tượng chứng minh (chứng cứ), thu giữ, bảo quản các nguồn chứa đựng các thông tin, tư liệu đó (nguồn chứng cứ) nhằm lưu giữ và bảo vệ giá trị chứng minh của các chứng cứ thu thập được trong cả quá trình giải quyết vụ án.

Để đảm bảo tính chính xác, khách quan của chứng cứ, việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo các trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Theo quy định của Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm:

- Hình thức chủ động: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ là triệu tập người biết về vụ án để nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các hoạt động điều tra khác.

Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

- Hình thức thụ động: Người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Người có quyền thu thập chứng cứ thu thập những chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và thông tin do người tham gia tố tụng, cơ quán, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra.

Dù theo hình thức nào thì các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ án cũng phải được thu giữ đưa vào hồ sơ vụ án bằng hình thức tố tụng xác định. Thông thường các hoạt động thu thập chứng cứ được ghi nhận bằng biên bản hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS.

Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quả trình chứng minh. Đê bảo đảm cho chứng cứ thoả mãn tính khách quan, liên quan và hợp pháp, việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định là:

- Bất kì cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng có thể đưa ra các tài liệu, đồ vật và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án;

- Chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật tố tụng hình sự quy định mới có quyền thu thập chứng cứ. Đó là người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của bị hai, đương sự;

- Việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Chỉ được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ được quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 2015; khi thu thập các chứng cứ cụ thể phải tuân thủ các trình tự, thủ tục quy định đối với các hoạt động tố tụng tương ứng.

So sánh chứng cứ và nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự

2. Kiểm tra chứng cứ

Kiểm tra chứng cứ là giai đoạn tiếp theo của quá trình chứng minh. Việc kiểm tra chứng cứ là nhằm xác định lại các thông tin, tài liệu thu thập được thoả mãn các thuộc tính của nó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp hay không? Vì vậy, tất cả các chứng cứ thu thập được trong vụ án hình sự phải được chủ thể chứng minh kiểm tra một cách khách quan, toàn diện và kĩ lưỡng.

Nội dung kiểm tra chứng cứ được xác định xuất phát từ các thuộc tính của chứng cứ. Mỗi chứng cứ đều phải được kiểm tra tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Chỉ các thông tin, tài liệu thoả mãn cả ba thuộc tính đó thì mới được sử dụng làm chứng cứ để chứng minh.

Chứng cứ được kiểm tra bằng các phương pháp khác nhau. Các phương pháp kiểm tra chứng cứ phổ biến được áp dụng trong thực tiễn là:

- Phân tích từng chứng cứ từ góc độ tính khách quan, tính liên quan cũng như tính hợp pháp để khẳng định thông tin, tài liệu thu thập được có được sử dụng làm chứng cứ không;

- So sánh, đối chiếu các chứng cứ với nhau để xác định các thuộc tính của chứng cứ này hay chứng cứ khác. Đặc biệt sử dụng phương pháp này để kiểm tra tính khách quan của chứng cứ. Thông qua so sánh các chứng cứ với nhau, có thể tìm ra các mâu thuẫn cũng như tìm ra nguyên nhân của mâu thuẫn đó. Việc so sánh, đối chiếu chỉ thực hiện được khi phân tích riêng rẽ các chứng cứ và tổng hợp chứng cứ lại thành hệ thống các chứng cứ của vụ án;

- Tiến hành các hoạt động thu thập thêm chứng cứ mới cũng như loại bỏ các chứng cứ đã thu thập được. Để kiểm tra tính khách quan trong hỏi cung bị can, cơ quan điều tra hỏi thêm người làm chứng; thông qua chứng cứ sao chép lại, thuật lại, cơ quan điều tra thu thập chứng cứ gốc;

- Kiểm tra chéo những chứng cứ được các bên tranh tụng thu thập; giữa các chứng cứ do cơ quan điều tra, viện kiểm sát thu thập với chứng cứ do người bào chữa thu thập ...

Đặc điểm của kiểm tra chứng cứ được xác định bằng nhiệm vụ của từng giai đoạn tố tụng. Chứng cứ được nhiều cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra nhiều lần khác nhau. Để kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải kiểm tra tất cả các chứng cứ thu thập được; để quyết định truy tố, viện kiểm sát kiểm tra lại chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra; tại phiên toà, toà án kiểm tra lại chứng cứ thu thập được trong các giai đoạn trước đó. Toà án chỉ ra bản án quyết định trên cơ sở các chứng cứ đã được thẩm tra, xác minh tại phiên toà.

3. Đánh giá chứng cứ

Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, người bào chữa và những người khác có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm xác định tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp của từng chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng họp các chứng cứ đã thu thập được trong vụ án hình sự.

Đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự là trả lời các câu hỏi: Chứng cứ cụ thể được thu thập có đáp ứng đầy đủ các thuộc tính quy định để được sử dụng chứng minh không? Các chứng cứ thu thập được trong vụ án đã đủ để xác định tất cả các tình tiết của vụ án để ra các quyết định tố tụng và giải quyết thực chất vụ án hay chưa V.V..

Là một giai đoạn của quá trình chứng minh, đánh giá chứng cứ có mối quan hệ chặt chẽ với việc thu thập và kiểm tra chứng cứ. Chứng cứ chỉ được đánh giá sau khi được thu thập; việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để thu thập thêm chứng cứ mới. Đánh giá chứng cứ là biện pháp để kiểm tra chứng cứ; đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu thập được cũng chính là biện pháp so sánh, đối chiếu trong quá trình kiểm tra chứng cứ V.V..

Chủ thể đánh giá chứng cứ được phân thành hai nhóm trên cơ sở pháp luật quy định việc đánh giá chứng cứ là quyền hay nghĩa vụ của chủ thể đó:

- Theo quy định của BLTTHS năm 2015 (Điều 15), trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc đánh giá chứng cứ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng khác nhau phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng. Việc đánh giá là độc lập nhưng liên quan chặt chẽ với nhau. Việc đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ chứng cứ ở giai đoạn tố tụng trước là điều kiện cho việc đánh giá chứng cứ ở giai đoạn sau; việc đánh giá chứng cứ ở giai đoạn sau là sự kiểm tra kết quả chứng minh của giai đoạn trước. Đánh giá chứng cứ là trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kết quả đánh giá chứng cứ có liên quan đến quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc ra các quyết định tố tụng, giải quyết thực chất vụ án. Cho nên pháp luật đòi hỏi những chủ thể này tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc đánh giá chứng cứ.

- Những người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc giải quyết vụ án có quyền chứng minh nói chung và đánh giá chứng cứ nói riêng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. BLTTHS quy định các thủ tục tố tụng khác nhau để người tham gia tố tụng sử dụng đánh giá chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như quyền đưa ra các yêu cầu, quyền đưa ra chứng cứ, triệu tập thêm người làm chứng, tham gia tranh luận tại phiên toà, đặc biệt là quyền bào chữa của bị can, bị cáo... Những người tham gia tố tụng đánh giá chứng cứ là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đó là quyền của họ, cho nên pháp luật không đòi hỏi một cách chặt chẽ các điều kiện, nguyên tắc đánh giá đối với họ.

Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, người phạm tội nói riêng và giải quyết vụ án hình sự nói chung.

- Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa ngay đối với quá trình chứng minh và là cơ sở quan trọng cho việc thu thập, kiểm ưa chứng cứ. Đánh giá chứng cứ giúp cho việc xác định giới hạn chứng minh, cho việc đưa ra và giải quyết các giả thiết trong quá trình chứng minh.

- Đánh giá chứng cứ có vai trò cực kì quan trọng trong xác định sự thật khách quan của vụ án.

- Đánh giá chứng cứ là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra các quyết định tố tụng hoặc tiến hành các hoạt động tố tụng.

- Đánh giá chứng cứ là căn cứ để đi đến các kết luận và ra các quyết định giải quyết thực chất vụ án hình sự.

Nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định trong BLTTHS và thể hiện trong các điểm cơ bản sau đây:

- Đánh giá chứng cứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc hiến định về sự độc lập xét xử của toà án. Không ai được can thiệp cũng như xác định trước giá trị chứng minh của bất kì chứng cứ nào khi điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm... thực hiện việc đánh giá chứng cứ và có các kết luận về vụ án. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm... thực hiện việc đánh giá chứng cứ theo niềm tin nội tâm của mình.

- Đánh giá chứng cứ phải trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ trên cơ sở các quy định của BLHS về tội phạm và cấu thành tội phạm cụ thể, các quy định về trách nhiệm hình sự và hình phạt mới có thể xác định đúng đôi tượng chứng minh và giới hạn chứng minh; chỉ trên cơ sở các quy định của BLTTHS chứng cứ mới bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên quan (khoản 1 Điều 108 BLTTHS năm 2015).

- Chứng cứ phải được đánh giá trên cơ sở ý thức pháp luật với tinh thần trách nhiệm cao.

- Chứng cứ phải được đánh giá một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện, đầy đủ mọi chứng cứ đã thu thập được (khoản 2 Điều 108 BLTTHS năm 2015). Người đánh giá chứng cứ phải xem xét, đánh giá toàn bộ chứng cứ với đầy đủ các giá trị chứng minh, không xem thường hoặc quá coi trọng chứng cứ nào; xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp, cả chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép lại, thuật lại.

Để đánh giá chứng cứ một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ cần sử dụng phương pháp đánh giá từng chứng cứ tách rời trước khi đánh giá toàn bộ chứng cứ. Hay nói cách khác, mỗi chứng cứ phải được đánh giá riêng và trong mối liên hệ với nhau trên cơ sở thống nhất là đối tượng chứng minh của vụ án hình sự.

- Trước hết chứng cứ được đánh giá riêng lẻ để xác định tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của nó. Khi đánh giá từng chứng cứ, người đánh giá phải xác định chứng cứ đó có xác thực hay không, có liên quan đến đối tượng chứng minh hay sự kiện chứng minh không và chứng cứ đó có được xác định bằng nguồn mà pháp luật quy định, được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hay không;

- Đánh giá tổng hợp chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ. Chủ thể xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ trong mối liên quan chặt chẽ với nhau. Việc đánh giá tổng hợp chứng cứ là để nhằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận về các vấn đề của vụ án.

Đánh giá từng chứng cứ và đánh giá tổng hợp các chứng cứ của vụ án có quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau. Đánh giá từng chứng cứ là điều kiện để đánh giá đúng tổng hợp chứng cứ của vụ án. Nếu từng chứng cứ không được đánh giá chính xác, khách quan thì không thể đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, khi đánh giá tổng hợp chứng cứ thì các chứng cứ thu thập được có thể phù hợp với nhau nhưng cũng có thể có những chứng cứ khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp này, việc đánh giá tổng hợp chứng cứ là nhằm lí giải cho sự khác nhau, sự mâu thuẫn đó để đi đến nhận thức thống nhất, kết luận về sự thật duy nhất đúng đắn, khách quan về vụ án làm cơ sở cho việc ra bản án, các quyết định giải quyết thực chất vụ án.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về quá trình chứng minh trong vụ án hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.0069 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật The Light

Các câu hỏi thường gặp

Câu hỏi: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về ai?

Trả lời:

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.

Câu hỏi: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những gì?

Trả lời:

Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau; mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng cũng như toàn bộ vụ án đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và chính xác.

Câu hỏi: Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh những gì?

Trả lời:

Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.