HÓA THÂN VÀO NHÂN VẬT TRƯƠNG SINH
Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà Vũ Nương đã xa tôi và con của mình được một
năm rồi. Giờ đây tôi vô cùng ân hận vì những viêc làm của mình, nếu ngày đó tôi chịu tìm
hiểu sự việc kĩ hơn, tin lời của vợ mình hơn thì gia đình tôi đã không phải li tán như bây giờ.
Tôi vốn tên là Trương Sinh, quê ở Nam Xương, là con của gia đình hào phú nhưng lại
không có học. Lúc bấy giờ, ở trong làng tôi có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết, vì mến
dung hạnh của nàng nên tôi đã xin mẹ trăm lượng vàng để cưới nàng về làm vợ. Nhưng quả
thật, tôi lại có tính đa nghi, đối với nàng thì phòng ngừa quá mức. Biết tính tôi thế nên nàng
luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Thế nhưng cuộc
sum vầy chưa được bao lâu thì giặc Chiêm xâm chiếm, tôi theo lệnh triều đình phải đi
lính.Trước buổi ra đi mẹ tôi đã dặn dò tôi rất lĩ lưỡng, nghe lời mẹ dạy tôi liền quỳ xuống đất
cảm tạ. Quả thực, khi nghe tin mình phải ra chiến trận tôi đã rất buồn và lo lắng nhưng may
nhờ có sự động viên của mẹ và vợ nên cũng yên tâm phần nào.
Lúc tôi đi, vợ tôi đang có mang, nghe đâu khi tôi đi lính được đầy tuần thì nàng hạ sinh
bé Đản - con trai của tôi và nàng. Qua năm sau khi giặc đã dẹp yên, tôi được trở về đoàn tụ
với gia đình. Vừa về đến nhà tôi mới hay tin mẹ mất nên vô cùng đau xót bèn hỏi vợ mình về
mộ phần của mẹ rồi cùng con trai đi thăm. Thế nhưng, điều làm tôi bất ngờ nhất đó là khi tôi
bế con mình thì nó không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc tôi đành phải dỗ dành. Nhưng dù
tôi dỗ thế nào đi nữa thì thằng bé vẫn cứ khuấy khóc không yên và rồi nó thốt lên một câu
khiến tôi sững người:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Trước đây có một người đan ông đêm nào cũng
đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng không bao giờ bế Đản cả.
Nghe con nói thế tôi vừa ngạc nhiên, vừa tức giận. Không kìm nổi lòng mình vì nghĩ
rằng vợ hư tôi liền bế thằng bé về nhà để hỏi vợ mình sự việc như thế nào. Thấy tôi và con
trai về đến cửa, nàng ở trong nhà tươi cười chạy ra đón hai cha con tôi. Vừa nhìn thấy nàng
cơn ghen tuông của tôi nổi lên không thể nào kiềm chế, tôi la um lên cho hả giận. Nàng thì
một mực kêu oan, khóc lóc van xin tôi. Nhưng tôi nào có nghe, lúc này tôi đã bị cơn ghen
làm cho lú lẫn không phân biệt được đúng sai cũng không thèm để tâm tới bất cứ lời nào mà
nàng nói. Đỉnh điểm của câu chuyện là tôi đã đánh vợ mình và đuổi nàng ra khỏi nhà dù
hàng xóm có nói hộ nàng đi chăng nữa tôi vẫn không tin. Quả thật, giờ nghĩ lại tôi ăn năn về
tội của mình lắm.
Sau một hồi mắng nhiếc, chửi rủa vợ mình tôi cũng thấm mệt bèn vào trong phòng nằm
nghỉ, để mặc hai mẹ con nàng đang khóc lóc ngoài kia. Đến hôm sau tôi không thấy nàng
đâu, trong lòng bắt đầu bất an mặc dù đã đuổi vợ đi nhưng tôi biết nàng ở đây không có
người thân và không biết đi về đâu. Đang ngồi suy tư thì có người chạy về báo tin cho tôi
rằng vợ tội đã tự vẫn ở bến sông Hoàng Giang. Nghe tin như sét đánh ngang tai tôi không tin
điều này là sự thật. Mặc dù còn giận lắm nhưng thấy nàng tự tận cũng động lòng thương, tìm
vớt thây nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.
Kể từ khi vợ mất nhà cửa của tôi dường như vắng lạnh hơn rất nhiều và rồi trong một
đêm phòng không vắng vẻ, tôi đang ngồi buồn dưới ngọn đèn chợt con trai tôi chỉ vào bóng
của tôi trên vách tường và bảo đó là cha Đản. Bấy giờ tôi mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ
mình nhưng việc đã trót qua rồi.
Tôi rất hối hận vì những việc làm của mình đã đẩy vợ tôi vào cái chết, cha con tôi phải
sống cô đơn, buồn tủi. Tôi luôn tự trách mình và không biết làm cách gì để tạ lỗi, mong vợ
tha thứ . Nhưng may mắn cho tôi được gặp Phan Lang và nhận được chiếc hoa vàng của vợ.
Rồi nghe Phan Lang kể về cuộc gặp gỡ của chàng ấy dưới thủy cung với vợ mình tôi xúc
động vô cùng. Nghe lời Phan Lang và cũng mong được gặp vợ , tôi bèn lập một đàn tràng ba