Sưu tầm tác giả tác phẩm văn học trung đại Kiên Giang

Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ các tài liệu lưu trữ của các triều đại cho đến các tiểu thuyết hư cấu từ thời trung cổ để phục vụ cho các độc giả người Trung Quốc. Nền văn học Trung Quốc là một nền văn học lớn của thế giới, bởi không chỉ mang yếu tố lịch sử với sự ảnh hưởng của các đạo giáo lớn, thậm chí ảnh hưởng sâu sắc đến những quốc gia khác. Nên nền văn học Trung Quốc chứa đựng nền văn hóa lớn, đặc biệt là thời kì cổ đại, phong kiến, đã xuất hiện những tác giả lớn có tầm ảnh hưởng ở tầm châu lục. Sau đây là những tác giả xuất sắc của nền văn học Trung Quốc thời cổ đại.

1. Lỗ Tấn

Lỗ Tấn [1881 - 1936], nhà văn cách mạng Trung Quốc. Tuy sáng tác không nhiều và tập trung chủ yếu vào truyện ngắn và tạp văn nhưng ông vẫn xứng đáng là một trong những nhà văn lừng danh nhất Trung Quốc thế kỉ XX và là bậc thầy truyện ngắn thế giới. Ông sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Cha ông mất khi ông 16 tuổi. Năm 18 tuổi, ông đến Nam Kinh thi vào trường Hàng hải. Tại đó, ông được tiếp xúc với nhiều thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội tiến bộ của nhân loại. Đấy là khởi đầu để ông tiến hành nhận thức lại xã hội và dấn thân vào con đường cách mạng.

Ông là giáo sư của nhiều trường đại học và là linh hồn của nhiều tổ chức sinh viên yêu nước. Ông là một nhà văn triết lý, ông quan điểm rằng nhà văn cũng là một thầy thuốc, tuy từng là một thầy thuốc, nhưng ông cho rằng thầy thuốc chỉ chữa được một vài bệnh nhân, trong khi đất nước Trung Quốc đang trở nên mục nát, nhân dân bị che mắt, ông đã quyết định trở thành một nhà văn để có thể chữa lành được những căn bênh tinh thần của người dân Trung Quốc.

2. Lý Bạch

Lý Bạch, tự Thái Bạch hiệu Thanh Liên cư sĩ là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung. Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng. Theo lời Lý Bạch kể lại, ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường, cụ thể là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng bậc nhất Trung Quốc, mệnh danh là thi tiên, với những áng thơ bất hủ mà đến bây giờ không có ai sánh bằng.

3. Tào Tuyết Cần

Tác giả của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần, Ông sống trong triều đại phong kiến nhà Thanh, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, gia đình đời đời thế tập chức Giang Ninh chức tạo là một chức quan to thu thuế tại Giang Ninh thành. Năm lần vua Khang Hi tuần du Giang Nam thì bốn lần ngự tại Tào phủ. Cuộc sống trong phủ vô cùng xa hoa vương giả. Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ trí lực để tạo nên kiệt tác Hồng Lâu Mộng, một trong những tác phẩm về sau được đánh giá là kinh điển của văn học Trung Quốc. Tác phẩm đã được ông sửa chữa 5 lần trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền mua thuốc, con chết. Khi ông còn sống tác phẩm đã không hoàn thành và không được công bố. Sau khi ông qua đời, hai mươi tám năm sau, Cao Ngạc đã dựa vào di thảo của ông để hoàn thành nốt bằng việc viết tiếp 40 hồi. Tào Tuyết Cần có một tác phẩm duy nhất thành công – Hầu Lâu mộng, nhưng lại là mộ kiệt tác bất hủ, khiến nhiều thế hệ phải nức lòng.

4. Vương Bột

Vương Bột [650–676], tự Tử An, người Long Môn, Giáng Châu [ngày nay là Hà Tân, Sơn Tây] thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong "Sơ Đường tứ kiệt" [bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường], 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương. Văn học Trung Quốc cực kì nhiều nhà thơ nổi tiếng, với những tác phẩm đi vào sử sách. Vương Bột cũng là một trong những huyền thoại thơ của Trung Quốc. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Ngoài "Đằng Vương Các tự"  mà ai đọc thơ Đường cũng biết, nhà thơ này còn có nhiều bài thơ đặc sắc khác về nhiều mặt của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc còn nói: đó là một "thần đồng", thậm chí một "thiên tài", và làm thơ không bao giờ phải nháp.

5. Hàn Phi

Hàn Phi là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái Pháp gia, tác giả sách Hàn Phi tử. Hàn Phi tổng hợp tư tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết bộ sách Hàn Phi Tử. Trong bộ sách này, ông thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa như thiên Cô Phẫn [sự phẫn nộ của con người cô độc], Ngũ Đố [năm thứ sâu mọt], Nội Ngoại Trữ Thuyết [sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài], Thuyết Lâm [chuyện người xưa], Thuyết Nan [cái khó trong việc du thuyết],... tất cả hơn mười vạn chữ. Nguyễn Hiến Lê đánh giá bộ Hàn Phi Tử có giá trị hơn bộ Quân vương [Le Prince] của Niccolò Machiavelli [1469-1527] cả về tư tưởng lẫn bút pháp. Hàn phi là một học giả, các tác phẩm của ông mang tính đạo lý, triết lý rất cao mang giá trị giáo dục cho những thế hệ sau này.

Trung Quốc là đất nước chứa đựng những nền văn hóa lớn của thế giới, cũng như sản sinh ra những tác giả kiệt xuất, cũng như với những tác phẩm xuất sắc mà dù đã trải qua bao thời gian, vẫn tồn tại bất diệt.

Xem thêm:

Nhà thơ Kiên Giang sinh ngày 17-2-1929, mất ngày 31/10/2014, tên thật là Trương Khương Trinh, quê tại làng Đông Thái, huyện An Biên tỉnh Kiên Giang, cùng quê với nhà văn Sơn Nam. “Vốn liếng về từ ngữ người Kiên Giang rất ít, hàng ngày sống lân la với người Hoa bán tạp hoá và người Khơ-me làm ruộng. Ở đây có thể nói tiếng Việt không phát triển, lại thêm tiếng lóng mà người địa phương khác khó chấp nhận. Vốn duy nhất là ca dao được mẹ dạy cho, từ thuở ấu thơ. Vốn quan trọng hơn vẫn là cái tâm, lòng yêu nước, muốn giới thiệu tâm hồn người dân nghèo xóm mình với cả nước, cùng chia sẻ buồn vui” [Sơn Nam - Cùng bạn đọc - Lời tựa tập Hoa trắng thôi cài trên áo tím, NXB Văn học, 1/1995].Ông từng tự bạch: “Năm 1943 tôi học trường tư Lê Bá Cang [Sài Gòn]. Ăn cơm tháng, ở nhà trọ trên một ốc đảo đường Hàng Sanh [nay là Bạch Đằng] gần chùa Long Vân. Khi thức đêm học bài, tôi thấy và nghe hình tượng nhạc xe bò. Đêm nào đoàn xe bò ấy cũng lăn bánh ngang cửa thảo trang. Một thứ nhạc khô khan và thắm thiết, triền miên mà nức nở ngân vang từ những móng sắt vành xe. Tôi thao thức vì ghiền nghe nhạc xe bò, cố tìm những nét sống đẹp để tô điểm thành thơ. Hình ảnh một chiếc võng giăng dưới dạ xe chở phân rác, bốn móng bò mòn lẵn, chiếc roi tơi tả, ngọn đèn chong leo lét nhất là mái tóc phong trần luôn rối tung chính là những nét sống - trong một nếp sống nghèo mà đẹp - của người mẹ đánh xe bò. Tất cả là thơ và nhạc. Tôi đã ôm ghì được vú sữa của nguồn hứng cảm nhưng chắc hẳn chỉ ghi lại được một vài góc cạnh mà thôi. 14 năm sau, kể từ năm 1943, khi trở lại xóm chùa Long Vân, tôi không tìm được nhà trọ năm nào. Nhà tường mọc lên, người cũ đi mất, chết hoặc bị xua đuổi. Năm 1993, xóm chùa, xóm Hàng Sanh đã bị xoá mất. Người cũ mất hết. Chiếc xe bò chỉ còn trong ký ức.

Tình tang! Lốc cốc! Tang tình!Nhạc vang hoà khúc viễn trình đắng cay

[Nhạc xe bò]

Bùi Giáng trong quyển Đi vào cõi thơ [NXB Ca Dao, 10/1969] viết: “Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc - ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang. Ông Kiên Giang tuyệt nhiên không cầu kỳ, không giả tạo mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên....Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong Nước Việt như Kinh Thư nằm trong nước Tàu. Một Quê Hương bình dị thiết tha và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao”.Thơ Kiên Giang có nhiều câu phổ biến rộng rãi như:
Ong bầu đậu đọt mù uLấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồnNgày mai đám cưới người taCớ sao sơn nữ Phà Ca lại buồnĐói lòng ăn nửa trái sim

Uống lưng bát nước đi tìm người thương

Và trong bài thơ Tiền và lá ông đề: “Kính tặng thi sĩ Nguyễn Bính để nhớ ngày tá túc ở xóm biển Kiên Giang”, có lúc bị nhầm là thơ Nguyễn Bính. Bài thơ có những câu phảng phất tâm hồn chân quê cảm động:
Bây giờ những buổi chiều êmTôi gom lá đốt, khói lên tận trờiNgười mua đã bị mua rồi

Chợ đời họp một mình tôi… vui gì!

Kiên Giang còn là soạn giả cải lương lừng danh cùng thời Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều Hoa Phượng, Quy Sắc… với nghệ danh Hà Huy Hà [Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới…]. Ngoài ra ông là ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn trước 1975 như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện Tín, Tin Sáng…, tham gia phong trào ký giả ăn mày chống Mỹ - Thiệu ngày 10-10-1974. Chính vở tuồng đầu tay của ông là Người vợ không bao giờ cưới đã tạo bệ phóng cho nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm, lên hàng ngôi sao trong giới cải lương. Ông lang thang rày đây mai đó, vẫn với bộ vó giang hồ, vai mang túi xách, đầu đội chiếc nón trắng ngã mầu, cả đời lận đận với nghiệp thơ. Sống cuộc sống vất vả, lúc về hưu lui tới thường xuyên Ban Ái hữu Nghệ sĩ số 133 đường Cô Bắc, mở lớp dạy đờn ca tài tử miễn phí cho học sinh trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu, thật đúng là hình ảnh kẻ sĩ hiếm hoi trong thời buổi kinh tế thị trường.

Nhắc đến thơ Kiên Giang nhiều người nhớ ngay đến bài thơ nổi tiếng là Hoa trắng thôi cài trên áo tím. Chị Hà Khánh Phương cho biết chị còn giữ bài thơ nầy in dưới dạng tờ bướm từ lúc 17 tuổi đến nay trên 40 năm. Nhạc sĩ Huỳnh Anh [con trai danh cầm Sáu Tửng] phổ nhạc, nhiều thế hệ ca sĩ hát bài này như Thanh Thuý, Hoàng Oanh, Giao Linh, Trường Thanh và Hồ Điệp ngâm nhiều lần trong chương trình tiếng thơ Mây Tần do Kiên Giang phụ trách trên đài phát thanh Sài Gòn. Kiên Giang cho biết: “Đây là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm bụi trần. Năm 1944 tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH. - cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn: “Con Tám NH. vẫn chờ mày”. Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. tâm tình suốt đêm bên ánh đèn dầu Huê kỳ. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Kết trước là: “Xe tang đã khuất nẻo đời/Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu/Từ nay tóc rũ khăn sô/Em cài hoa tím trên mồ người xưa” thành cái kết: “Lạy chúa! Con là người ngoại đạo/ Nhưng tin có chúa ở trên trời/Trong lòng con, giữa màu hoa trắng/Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!”... Năm 1999 hãng phim TFS Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh có làm phim “Chiếc giỏ đời người” về sự nghiệp hoạt động văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh trường cũ, mới hay tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH. ở nghĩa trang Cái Su. Đúng là “Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh/Từng cài trên áo tím ngây thơ/Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng/Anh kết tình tang gởi xuống mồ”.

Nguyễn Văn Thức trong tờ bướm “Vài nhận định về thơ và các nhà thơ ở thành phố Hồ Chí Minh” có đoạn nhận xét về Kiên Giang: “Một nhà thơ chỉ còn giao lưu với Câu lạc bộ thơ Quận là chính, Hoa trắng thôi cài trên áo tím nay chỉ còn là kỷ niệm. Đôi khi tôi thấy nhà thơ buồn như sương giá, lạnh quanh đời”. Tôi nghĩ một nhà thơ 76 tuổi, dời chỗ ở hơn chục lần, đấu tranh vì độc lập đất nước, làm thơ, soạn tuồng cải lương, viết báo tận tuỵ cống hiến cho đời, để lại nhiều câu thơ hay là một thành công về văn học, là một tâm gương sáng trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn Sơn Nam tinh tế khi viết: “Một cuộc đời lăn lóc, chẳng bao giờ khấm khá, về già làm chuyện ái hữu, tương tế, quả là thành đạt, không xấu hổ với đất nước. Đây là một người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi”.

Mới đây ngồi uống bia cùng ông ở quán cóc, trong một xóm lao động nghèo gần cầu Nhị Thiên Đường quận 8, ông bảo sắp bán nhà, giọng buồn buồn nặng trĩu tâm tư. Buổi chiều thành phố thường có những cơn mưa dông, gió giật mạnh, lạnh căm căm, thương Kiên Giang một đời tận tuỵ với thơ, với cuộc sống!

Video liên quan

Chủ Đề