Vì sao khoảng 30 năm cuối của thế kỉ xix nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhanh chóng

Chủ nghĩa tư bản là một loại hình nhà nước điển hình phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến Châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh. Trong quá trình phát triển của mình, chủ nghĩa tư bản đã liên tục biến đổi.

Bài viết dưới đây của chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin cơ bản liên quan đến đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?

Để tìm ra các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, chúng ta cần hiểu được định nghĩa chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận xuất hiện lần đầu tiên tại Châu Âu vào thế kỷ XVII.

Chủ nghĩa tư bản phát triển đến một giai đoạn nhất định thì xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

Vì sao khoảng 30 năm cuối của thế kỉ xix nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhanh chóng

Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền

Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản có sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do những nguyên nhân cơ bản sau:

– Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm xuất hiện những ngành sản xuất mới, qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy mạnh, các xí nghiệp có quy mô lớn được hình thành.

– Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, có nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật như lò luyện kim, sự ra đời của máy móc, phát triển những phương tiện vận chuyển mới (xe hơi, tàu thủy, xe điện, máy bay, đường sắt,…) . Điều này đòi hỏi thành lập các xí nghiệp lớn, dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

– Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

– Sự phát triển nhanh chóng nêu trên dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến, tăng quy mô tích lũy nhằm tăng sức cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, các nhà tư bản lớn ngày càng phát triển.

– Đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống tín dụng cũng trở thành đòn bẩy quan trọng thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần tạo tiền đề để cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:

(1) Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Trong những năm 1900, các xí nghiệp ở Pháp, Mỹ, Anh chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾ tổng số máy bay hơi nước và điện lực, số lượng công nhân và tổng số sản phẩm được làm ra chiếm gần một nửa so với toàn thế giới. Các doanh nghiệp lớn, trình độ kỹ thuật cao cạnh tranh gay gắt khó đánh bại nhau nên đã liên kết với nhau để nắm độc quyền.

Như vậy, có thể hiểu tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào tay mình phần lớn việc sản xuất hoặc tiêu thụ một số hàng hóa nào đó nhằm thu lại lợi nhuận cao. Đây là một đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa độc quyền.

(2) Tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính

Điều này được thể hiện thông qua quá trình phát triển của các tổ chức tín dụng. Sản xuất công nghiệp ở mức độ tích tụ cao, các ngân hàng nhỏ và vừa không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ yêu cầu của các xí nghiệp lớn; vì vậy, các tổ chức độc quyền công nghiệp đã tìm đến các ngân hàng lớn hơn phù hợp với điều kiện của mình.

Trước sự khốc liệt của cạnh tranh, các ngân hàng nhỏ phải chấm dứt hoạt động hoặc sáp nhập vào ngân hàng lớn. Điều này, đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng.

Sự ra đời của tổ chức độc quyền ngân hàng dẫn đến hệ quả sau:

– Làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, ngân hàng nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên khống chế các hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản.

– Các tổ chức độc quyền tham gia vào ngân hàng bằng cách mua cổ phần để chi phối hoạt động của ngân hàng làm nảy sinh ra tư bản tài chính.

Sự phát triển của tư bản tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội gọi là bọn đầu sỏ tài chính.

(3) Xuất khẩu tư bản

Đây là việc xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm chiếm đoạt giá trí thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

Như vậy, bạn đọc đã nắm được các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chúng tôi mong rằng bạn đọc đã có được những thông tin hữu ích. Cảm ơn quý bạn đọc đã theo dõi bài viết của chúng tôi.

I. Anh và Pháp cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX

1. Nước Anh.

a). Tình hình kinh tế:

- Đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX, nền công nghiệp Anh vẫn đứng đầu thế giới. Sản lượng than của Anh gấp 3 lần Mĩ và Đức; sản lượng gang gấp 4 lần Mĩ và gần 5 lần Đức. Về xuất khẩu kim loại, sản lượng của 3 nước Pháp, Đức, Mĩ gộp lại không bằng Anh.

- Từ cuối thập niên 70, Anh mất dần địa vị độc quyền công nghiệp, mất cả vai trò lũng đoạn thị trường thế giới, bị Mĩ và Đức vượt qua.

Nguyên nhân:

+ Máy móc xuất hiện sớm nên cũ và lạc hậu, việc hiện đại hóa rất tốn kém.

+ Một số lớn tư bản chạy sang thuộc địa, vì ở đây lợi nhuận nhiều hơn chính quốc. Mặt khác, cướp đoạt thuộc địa có lợi nhiều hơn so với đầu tư cải tạo công nghiệp.

- Tuy vậy, Anh vẫn chiếm ưu thế về tài chính, xuất cảng tư bản, thương mại, hải quân và thuộc địa.

- Trong thời kì này, nhiều công ti đặc quyền xuất hiện ở hầu hết các ngành công nghiệp. Quá trình tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, nhiều tổ chức độc quyền ra đời chi phối toàn bộ đời sống kinh tế nước Anh, 5 ngân hàng ở khu Xi-ti Luân Đôn nắm 70% số tư bản cả nước.

- Nông nghiệp khủng hoảng trầm trọng, phải nhập khẩu lương thực.

b). Tình hình chính trị

- Anh là nước quân chủ lập hiến, thực hiện chế độ hai Đảng (Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ) thay nhau cầm quyền, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, đàn áp phong trào quần chúng và đẩy mạnh xâm lược thuộc địa.

- Đây là thời kì giai cấp tư sản Anh tăng cường mở hệ thống thuộc địa đặc biệt ở châu Á và châu Phi.

- Chủ nghĩa đế quốc Anh tồn tại và phát triển dựa trên sự bóc lột một hệ thống thuộc địa rộng lớn (chiếm 1/4 dân số thế giới), hệ thống thuộc địa rộng lớn của đế quốc Anh đầu thế kỷ XX trải dài từ Bắc Mĩ, châu Phi, châu Á đến châu Đại Dương…

2. Nước Pháp.

a). Tình hình kinh tế:

- Trước 1870, công nghiệp Pháp đứng hàng thứ hai thế giới, cuối thập niên 70 trở đi, công nghiệp Pháp bắt đầu chậm lại, tụt xuống hàng thứ tư sau Đức, Mĩ, Anh.

- Nguyên nhân:

+ Kĩ thuật lạc hậu.

+ Pháp thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ, mất đất, phải bồi thường chiến tranh.

+ Nghèo tài nguyên và nhiên liệu, đặc biệt là than đá.

+ Giai cấp tư sản chỉ chú trọng đến xuất cảng tư bản, không chú trọng phát triển công nghiệp trong nước.

- Nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong kinh tế Pháp, tình trạng đất đai bị chia nhỏ, không cho phép sử dụng máy móc và kĩ thuật canh tác mới.

- Đầu thế kỷ XX, quá trình tập trung sản xuất diễn ra trong lĩnh vực công nghiệp, dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền, chi phối nền kinh tế Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.

- 5 ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm 2/3 tư bản của các ngân hàng trong cả nước.

- Khác với Anh, tư bản chủ yếu đầu tư vào thuộc địa, còn ở Pháp, tư bản phần lớn đưa vốn ra nước ngoài, cho các nước chậm tiến vay với lãi suất lớn.

- Tư bản Pháp phần lớn đưa vốn ra nước ngoài, cho các nước chậm tiến vay với lãi suất lớn.

b). Tình hình chính trị:

- Tháng 9/1870, nước Pháp thành lập nền Cộng hòa thứ ba, song phái cộng hòa đã sớm chia thành hai nhóm Ôn hòa và Cấp tiến thay nhau cầm quyền.

- Đặc điểm của nền cộng hòa là tình trạng thường xuyên khủng hoảng nội các. Trong vòng 40 năm (1875 - 1914) ở Pháp diễn ra 50 lần thay đổi chính phủ.

- Pháp tăng cường chạy đua vũ trang để trả mối thù với Đức.

- Tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa chủ yếu ở khu vực châu Á và châu Phi, hệ thống thuộc địa của Pháp rất rộng lớn, chỉ sau Anh.

II. Các nước Đức và Mĩ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX

1. Nước Đức.

a). Tình hình kinh tế:

- Sau khi đất nước thống nhất (1871), nền kinh tế Đức phát triển với tốc độ nhanh.

+ Từ năm 1870 đến năm 1900, sản xuất than tăng 4,4 lần, gang tăng 6 lần độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi.

+ Đức đã vượt Pháp và gần đuổi kịp Anh. Trong những ngành công nghiệp mới như điện, hóa chất.... Đức cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

+ Năm 1883, công nghiệp hóa chất của Đức đã sản xuất 2/3 lượng thuốc nhuộm trên thế giới.

- Nền công nghiệp Đức sở dĩ có được bước nhảy vọt như thế là do có một số thuận lợi:

+ Thống nhất được thị trường dân tộc.

+ Có nguồn tài nguyên dồi dào, nhất là than đá; Đức giàu sắt do chiếm được hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp.

+ Nhận được số tiền bồi thường chiến tranh 5 tỉ phrăng của Pháp.

+ Do công nghiệp hóa muộn nên Đức có thể sử dụng thành tựu kĩ thuật của những nước đi trước.

+ Nguồn nhân lực dồi dào do số dân tăng nhanh và sự bóc lột nhân dân lao động trong nước.

- Trong những năm 1890 - 1900, sản lượng công nghiệp Đức tăng 163% (Anh 49%, Pháp 65%).

- Năm 1900, Đức vượt Anh về sản xuất thép, về tổng sản lượng công nghiệp, Đức dẫn đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ).

- Công nghiệp phát triển đã làm thay đổi cơ cấu dân cư giữa thành thị và nông thôn. Từ năm 1871 đến năm 1901, số dân thành thị tăng từ 36% đến 54,3%. Nhiều thành phố mới, nhiều trung tâm công thương nghiệp và bến cảng xuất hiện.

-Điểm nổi bật của quá trình phát triển công nghiệp Đức là sự tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức độc quyền diễn ra sớm hơn nhiều nước khác ở châu Âu. Hình thức độc quyền phổ biến ở Đức là cácten và xanhđica.

- Những tổ chức độc quyền này gắn với các ngân hàng thành tư bản tài chính. Ngành ngân hàng cũng tập trung cao độ.

- Nông nghiệp của Đức cũng có những tiến bộ nhưng chậm chạp hơn do việc tiến hành cách mạng tư sản không triệt để. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc và địa chủ. Bên cạnh việc canh tác theo phương thức tư bản chủ nghĩa (dùng máy móc, phân hóa học, áp dụng kĩ thuật mới...), những tàn dư phong kiến vẫn được duy trì.

- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông dân Đức phân hóa sâu sắc. Phần lớn nông dân bị phá sản phải đi làm thuê cho quý tộc, địa chủ hoặc đi kiếm ăn ở các cơ sở công nghiệp.

b). Tình hình chính trị:

- Hiến pháp 1871 quy định nước Đức là một Liên bang gồm 22 bang và 3 thành phố tự do, theo chế độ quân chủ lập hiến.

+ Hoàng đế là người đứng đầu, có quyền hạn tối cao (tổng chỉ huy quân đội, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, triệu tập và giải tán Quốc hội...).

+ Quyền lập pháp trong tay hai viện: Hội đồng Liên bang (Thượng viện) gồm đại biểu các bang và Quốc hội (Hạ viện) do bầu cử, nhiệm kì 3 năm.

+ Các bang vẫn giữ hình thức vương quốc (có vua, chính phủ và quốc hội riêng), nhưng quyền hạn bị thu hẹp.

+ Phổ là bang lớn nhất và mạnh nhất trong Liên bang Đức (chiếm 61% dân số và 64% lãnh thổ).

- Nhà nước liên bang được xây dựng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc tư sản, đứng đầu là Hoàng đế Vin-hem I và Thủ tướng Bi-xmác. Khi nước Đức chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tầng lớp quý tộc tư sản vẫn giữ vai trò quan trọng.

- Mặc dù có Hiến pháp, có Quốc hội, nhưng chế độ chính trị ở Đức không phải là chế độ đại nghị tư sản mà thực chất là chế độ nửa chuyên chế, áp dụng sự thống trị của Phổ trên toàn nước Đức.

- Nước Đức tiến lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khi phần lớn đất đai trên thế giới đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của Anh, Pháp. Mâu thuẫn giữa Đức với Anh, Pháp càng thêm sâu sắc. Tính chất quân phiệt hiếu chiến là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Đức.

2. Nước Mĩ.

a). Tình hình kinh tế:

- Cuối thế kỉ XIX, Mĩ là nước có nền kinh tế phát triển trong số các nước công nghiệp tiên tiến.

+ Trong 30 năm (1865 - 1894), Mĩ từ hàng thứ tư vươn lên hàng đầu thế giới về sản xuất công nghiệp, bằng 1/2 tổng sản lượng các nước Tây Âu và gấp 2 lần nước Anh.

+ Sản xuất gang, thép, máy móc... chiếm vị trí hàng đầu thế giới.

+ Năm 1913, sản lượng gang, thép của Mĩ vượt Đức 2 lần, vượt Anh 4 lần; than gấp 2 lần Anh và Pháp gộp lại. Độ dài đường sắt của Mĩ vượt tổng chiều dài đường sắt Tây Âu.

- Nông nghiệp cũng đạt được những thành tựu đáng kể.

+ Nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi (đất đai rộng và màu mỡ) kết hợp với phương thức canh tác hiện đại (chuyên canh, sử dụng máy móc và phân bón), Mĩ đã trở thành vựa lúa và nơi cung cấp thực phẩm cho châu Âu.

+ Từ năm 1860 - 1900, sản lượng lúa mì tăng 4 lần, ngô 3,5 lần, lúa mạch 5,5 lần; giá trị nông sản xuất khẩu tăng gần 4 lần. Cuối thế kỉ XIX, Mĩ bán 9/10 bông, 1/4 lúa mạch trên thị trường thế giới. Mĩ cũng là nước cung cấp nhiều thịt, bơ và lúa mì nhất.

+ Mĩ có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú (đặc biệt là mỏ vàng, mỏ dầu lửa); có nguồn lao động dồi dào, tay nghề cao luôn được bổ sung bởi luồng người nhập cư, tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật mới.

- Sự cạnh tranh gay gắt trong sản xuất công nghiệp và những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì đã thúc đẩy mạnh mẽ sự tập trung sản xuất và tư bản của Mĩ. Các nhà tư bản lớn liên minh với nhau thành những tơrớt.

+ “Công ti thép Mĩ” của Moóc-gân thành lập năm 1903 kiểm soát 60% ngành công nghiệp thép, 60% việc khai thác quặng đồng, 66% việc sản xuất thép tấm và 50% thép thành phẩm...

+ Tơrớt dầu lửa "Stan-đa" của Rốc-phe-lơ kiểm soát 90% ngành sản xuất dầu với 7 vạn km ống dẫn dầu, hàng trăm tàu đi biển và kho hàng ở trong và ngoài nước... Hai tập đoàn trên còn lũng đoạn ngành ngân hàng ở Mĩ, nắm trong tay 1/3 toàn bộ của cải nước Mĩ.

- Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Mĩ đã vươn lên thành nước phát triển ngoại thương và xuất khẩu tư bản. Thị trường đầu tư và buôn bán của Mĩ là Ca-na-đa, các nước ở vùng biển Ca-ri-bê, Trung Mĩ và một số nước châu Á.

b). Tình hình chính trị:

- Chế độ chính trị ở Mĩ đề cao vai trò Tổng thống thống, thay phiên nhau cầm quyền là Đảng Cộng hoà (đại diện cho lợi ích của đại tư bản công nghiệp và tài chính) và Đảng Dân chủ (đại diện cho lợi ích của tư bản nông nghiệp và trại chủ).

- Sự tranh cử giữa hai đảng đã tạo điều kiện cho giới cầm quyền lôi kéo về phía mình một bộ phận những người bất mãn, gạt bỏ việc lên nắm chính quyền của một đảng thứ ba.

- Sau cuộc nội chiến 1861 - 1865, đời sống chính trị của người da đen được cải thiện phần nào. Song họ vẫn bị loại ra khỏi các cơ quan chính quyền và mất quyền công dân bởi những quy định khắt khe về quyền bầu cử. Nạn phân biệt chủng tộc đẩy họ vào tình cảnh tồi tệ.

- Năm 1881, nước Mĩ ban hành đạo luật quy định người da đen phải ngồi toa riêng khi đi tàu, không được vào khách sạn, vườn hoa và những nơi công cộng dành cho người da trắng...

- Đây cũng là thời kì Mĩ đẩy mạnh việc thôn tính những đất đai rộng lớn ở miền Trung và miền Tây của thổ dân In-đi-an, mở rộng biên giới đến bờ Thái Bình Dương. Từ thập niên 80, Mĩ bành trướng ảnh hưởng ở khu vực Mĩ Latinh và Thái Bình Dương, gây chiến tranh với Tây Ban Nha (1898) để tranh giành thuộc địa, chiếm Ha-oai, Cu Ba và Phi-líp-pin... Mĩ từng bước can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Trung, Nam Mĩ.


Page 2

Vì sao khoảng 30 năm cuối của thế kỉ xix nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhanh chóng

SureLRN

Vì sao khoảng 30 năm cuối của thế kỉ xix nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhanh chóng