Bảng so sánh factoring và forfaiting năm 2024

  • 1. MỤC BẢNG BIỂU....................................................................................................................iii BẢNG................................................................................................................................................iii BIỂU ĐỒ...........................................................................................................................................iii SƠ ĐỒ...............................................................................................................................................iii LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................................1 CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN[FACTORING].......................................4 1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring...................................................................................4 1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring....................................................................................7 1.2.1.Khái niệm về factoring......................................................................................................7 1.2.2.Đặc điểm của factoring.....................................................................................................9 1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ thương mại khác..........9 1.2.4.Chức năng của factoring.................................................................................................11 1.2.5.Phân loại Factoring.........................................................................................................12 1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế....................................14 1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế.............................................................17 1.3.Rủi ro trong nghiệp vụ factoring........................................................................................21 1.3.1. Rủi ro từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ factoring............................................................21 1.3.2. Rủi ro từ phía người mua...............................................................................................22 1.3.3.Rủi ro từ phía ngân hàng, hay đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring..............................22 1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nghiệp vụ factoring...........................................22 1.4.1. Các nhân tố khách quan.................................................................................................22 1.4.2. Các nhân tố chủ quan....................................................................................................23 1.5.Kinh nghiệm về hoạt động factoring trên thế giới.............................................................23 1.5.1. Tình hình hoạt động factoring trên thế giới...................................................................23 1.5.2. Kinh nghiệm về hoạt động factoring của một số quốc gia trên thế giới.........................26 1.5.3.Các bài học kinh nghiệm cho hoạt động factoring tại Việt Nam.....................................29 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN [FACTORING] TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.................................................................................................................31 2.1. Cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.........................................................................................................................................31 2.1.1. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động factoring tại Việt Nam...............................31
  • 2. định cơ bản về factoring trong các văn bản luật và dưới luật...........................32 2.2. Thực trạng hoạt động factoring tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam...................35 2.2.1. Số lượng các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ factoring........................................35 2.2.2. Quy trình thực hiện factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.........................37 2.2.3. Quy mô, doanh số Factoring..........................................................................................43 2.3. Rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ factoring....46 2.3.1.Rủi ro tín dụng................................................................................................................46 2.3.2.Rủi ro gian lận.................................................................................................................47 2.3.3.Rủi ro thu nợ...................................................................................................................47 2.3.4.Rủi ro thanh khoản.........................................................................................................47 2.3.5.Rủi ro ngoại hối...............................................................................................................47 2.4.1. Kết quả đạt được...........................................................................................................48 2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại.............................................................................................49 2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động factoring.......................51 CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN [FACTORING] TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM............................................................................................54 3.1. Sự cần thiết phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.......54 3.2. Triển vọng áp dụng nghiệp vụ factoring tại Việt Nam.......................................................55 3.2.1. Năng lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng được củng cố................55 3.2.2. Nhu cầu về dịch vụ factoring ngày càng tăng.................................................................58 3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam...........59 3.3.1. Giải pháp chủ yếu..........................................................................................................59 3.3.2. Giải pháp hỗ trợ.............................................................................................................71 3.4. Kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. 74 3.4.1. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước....................................................................74 3.4.2. Những kiến nghị với các ngân hàng thương mại Việt Nam............................................75 KẾT LUẬN.........................................................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................79
  • 3. BIỂU BẢNG Bảng 1.1 : Doanh số factoring trên thế giới giai đoạn 2007-2011....................................................24 Bảng 1.3 : Doanh số Factoring của các quốc gia hàng đầu châu Á giai đoạn 2006-2010.................25 Bảng 1. 4: Số lượng khách hàng của dịch vụ factoring tại Anh năm 2011........................................27 Bảng 2.1 : Số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ factoring giai đoạn 2007-2011.......................................................................................................................................36 Bảng 2.2: Biểu phí/lãi suất dịch vụ bao thanh toán của ACB...........................................................37 Bảng 2.3 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ của Vietcombank.....................................................................40 Bảng 2.4 : Doanh số factoring tại Việt Nam trong giai đoạn 2005– 2011........................................43 Bảng 2.5 : Doanh số factoring xuất nhập khẩu của Vietcombank giai đoạn 2007-2011...................45 Bảng 2.6 : Doanh số nghiệp vụ factoring nội địa của ngân hàng VIB...............................................46 Bảng 3.1 : Quy mô vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại Việt Nam..................................56 Bảng 3.2. Tỷ lệ CAR một số ngân hàng thương mại Việt Nam.........................................................56 Bảng 3.3. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và một số ngân hàng thương mại..........57 BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1.1 : Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011....................................................6 Biểu đồ 1.2 : Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới giai đoạn 2007 - 2011..................................................................................................................................................7 Biểu đồ 1.3. Thị phần doanh số factoring các châu lục trên thế giới năm 2011...............................25 Biểu đồ 1.4 : Tình hình doanh số factoring của một số nước Asean................................................26 Biểu đồ 1.5 : Doanh số factoring của Anh trong năm 2011.............................................................27 Biểu đồ 1.6 : Doanh số factoring của Ý trong giai đoạn 2007 - 2011...............................................28 Biểu đồ 1.7 : Doanh số factoring của Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2011........................................29 Biểu đồ 2.2 : Doanh thu Factoring theo nhóm dịch vụ của Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011.. .44 SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán....15 Sơ đồ 1.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị bao thanh toán......16 Sơ đồ 2. 1a : Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của ACB...........................................38 Sơ đồ 2.1b : Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của ACB..............................................39 Sơ đồ 2.2. Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của Vietcombank................................41
  • 4. Quy trình thực hiện bao thanh toán nhập khẩu tại Vietcombank.................................42
  • 5. cấp thiết của đề tài. Trên thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế từng bước được đẩy nhanh. Đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, khoa học kỹ thuật phát triển, nhất là sự phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu của công nghệ thông tin và thị trường tài chính đã tác động lớn tới cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra những cơ hội mới cho những quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng là một quốc gia đang phát triển, đang đứng trước những cơ hội ấy. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều những yếu tố phức tạp, các tranh chấp, xung đột xảy ra thường xuyên gây mất ổn định không chỉ về mặt chính trị, mà còn về kinh tế tới nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn, với những lợi thế cạnh tranh nhất định,luôn tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và các nước đang phát triển. Đứng trước những cơ hội và thách thức ấy, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả và bền vững , nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên trường quốc tế là mục tiêu phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói, đối với một quốc gia đang phát triển, lĩnh vực tài chính ngân hàng được coi như là một “mạch máu” của nền kinh tế. Với các bước tiến rõ rệt theo ba xu hướng : một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính; hai là , phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại; ba là, mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế, lĩnh vực này đã dần trở thành một lĩnh vực quan trọng đối với mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, để gặt hái được những thành công hơn nữa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu của mình bằng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bao thanh toán là một sản phẩm được đưa vào chiến lược phát triển của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam gần đây. Mặc dù, trên thị trường tài chính ngân hàng quốc tế, bao thanh toán không còn mới mẻ, nhưng ở Việt Nam, dịch vụ này vẫn còn khá mới lạ và việc phát triển dịch vụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn với lượng doanh số còn khiêm tốn. Với mục tiêu nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn dịch vụ bao thanh toán, em đã chọn đề tài “Nghiệp
  • 6. toán [Factoring] – Thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Mục tiêu nghiên cứu: Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán [Factoring]. Thứ hai, nghiên cứu về thực trạng nghiệp vụ bao thanh toán [Factoring] tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá chung về tình hình phát triển, những thành tựu đạt được, cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện phát triển nghiệp vụ bao thanh toán [Factoring]. Thứ ba, đề xuất một số những giải pháp và đưa ra một số những kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán [Factoring] tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Dịch vụ bao thanh toán được phổ biến dưới hai hình thức : Factoring và Forfaiting. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ tập trung vào một hình thức của hoạt động bao thanh toán : Factoring trong giai đoạn 2007 - 2011. Vì vậy, thuật ngữ “Bao thanh toán”được sử dụng trong khóa luận đồng nghĩa với “Factoring” và thuật ngữ “Factor” sẽ được hiểu là các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ Factoring. Phương pháp nghiên cứu : Khóa luận được nghiên cứu dựa trên các phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, đối chiếu kết hợp với việc minh họa bằng sơ đổ, bảng biểu nhằm mục đích làm vấn đề trở nên rõ ràng hơn, trực quan hơn. Bên cạnh đó, dựa trên việc tham khảo, trao đổi ý kiến với cán bộ tác nghiệp tài trợ thương mại tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, nên những số liệu nghiên cứu được tập hợp chính xác hơn. Kết cấu của khóa luận : Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được thể hiện qua ba chương như sau: Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
  • 7. Thực trạng về nghiệp vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011. Chương III : Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới. Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài sẽ không tránh khỏi được những thiếu sót về nội dung, cũng như về hình thức. Kính mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các thầy cô giáo, để đề tài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới PGS.TS Nguyễn Thị Quy, cô đã góp ý cho em rất nhiều về mặt kết cấu, nội dung đề tài, và những kiến thức cần thiết để em có thể hoàn thành được khóa luận này. Em xin chân thành cám ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2012 Sinh viên Hoàng Hải Ly
  • 8. TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN[FACTORING] 1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring. Một số học giả cho rằng nghiệp vụ bao thanh toán bắt nguồn từ khoảng 2000 năm về trước dưới thời đế chế La Mã, xuất phát từ hoạt động đại lý hưởng hoa hồng. Bên cạnh đó, một số ý kiến khác lại cho rằng Factoring bắt đầu hình thành từ nền văn minh Mesopotamia cách đây 4000 năm, một nền văn minh đầu tiên phát minh ra chữ viết, hình thành các luật lệ thương mại, cũng như các quy tắc nhà nước. Khái niệm factor xuất phát từ động từ tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does thing”. Hầu hết các quốc gia văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã ứng dụng một số những phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ, ví dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu. Tuy có hai luồng ý kiến về lịch sử hình thành của bao thanh toán, nhưng hầu hết các học giả đều thống nhất ở quan điểm Factoring có nguồn gốc từ sự phát triển thương mại quốc tế, trong đó, hình thức sơ khai ban đầu là việc sử dụng các đại lý thương mại ở nước ngoài làm factor. Vào thế kỷ 15, bao thanh toán phát triền mạnh ở Anh dưới hình thức ứng trả trước một phần cho người ủy nhiệm [hay còn gọi là người cung ứng sản phẩm] . Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chủ nghĩa thực dân Mỹ, đó là tiền đề thúc đẩy sự phát triển của bao thanh toán trong khoảng thời gian này. Khi Mỹ mở rộng biên giới phía Tây, kéo theo khoảng cách giữa châu Âu và thị trường Mỹ trở lên lớn hơn, đồng nghĩa với sự giảm mức độ tin cậy về tín dụng đối với các khách hàng Mỹ của các nhà sản xuất ở châu Âu. Một sự bảo đảm cho khoản tín dụng thương mại cho các nhà sản xuất châu Âu là cần thiết. Bởi vậy, để giảm mức độ lo ngại bởi vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho tới khi thu hồi được khoản tiền bán hàng ngày một dài hơn, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ đã đứng ra thành lập một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ tài chính, marketing, trong đó bao gồm cả nghiệp vụ bao thanh toán. Trong khoảng thời gian thế kỷ 17, 18, sự giao lưu thương mại quốc tế giữa các nước châu Âu và các khu vực khác trên thế giới được đẩy mạnh. Do hạn chế về thông tin liên lạc, và phương tiện vận chuyển hàng hóa, nên nhà xuất khẩu phải chỉ
  • 9. lý thương mại tại các thị trường nước ngoài, cho phép các đại lý này được quyền bán hàng của họ trên cơ sở tín dụng thương mại và hóa đơn thương mại của chính các đại lý, đồng thời cũng bắt các đại lý phải chịu trách nhiệm về các khoản tín dụng thương mại này bằng khoản tiền ứng trước để trả cho phí cảng, thuế,...và tiền hàng cho họ. Thế kỷ 19 đánh đấu một sự biến chuyển mạnh mẽ của factoring thông qua các đại lý thanh toán ngành dệt may của Mỹ, hay trong các ngành công nghiệp điện, hóa chất, sợi tổng hợp....Và khi nền kinh tế Mỹ vững mạnh, các mối quan hệ lệ thuộc giữa Mỹ và Châu Âu không còn tồn tại nữa, nhu cầu sử dụng các đại lý thương mại tại thị trường nước ngoài đã giảm xuống. Nhờ vào những nguồn lực trong nước, và việc áp đặt biểu thuế gắt gao với hàng hóa nước ngoài, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa giảm xuống. Các đại lý bao thanh toán bấy giờ đã điều chỉnh dịch vụ của mình theo nhu cầu của nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các hoạt động tín dụng, thu nợ, kế toán...Factoring nội địa ra đời, nhằm đáp ứng nhu cầu bán hàng trong phạm vi biên giới một quốc gia. Đầu thế kỷ 20, bao thanh toán phát triển rộng hơn sang các ngành công nghiệp khác, như phụ kiện, đồ may mặc, đồ nội thất.... Các đại lý bao thanh toán đưa ra hình thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hóa đơn thương mại . Từ đó, bao thanh toán đã thực sự có một chỗ đứng vững vàng trong các hoạt động thương mại. Hiện nay, các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới nhiều hình thức : một phòng ban của một tổ chức tài chính lớn, hay tồn tại độc lập như một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bao thanh toán. Số lượng các factor trên thế giới có xu hướng ngày càng gia tăng nhanh với mức lãi suất tăng cao. Sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ bao thanh toán dẫn tới nhu cầu cấp thiết thành lập Hiệp hội bao thanh toán. Đầu năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế IFG [International Factor Group] ra đời với gần 70 thành viên là những ngân hàng, đơn vị bao thanh toán độc lập.. của 47 quốc gia trên toàn thế giới. Với mục tiêu giúp các đơn vị bao thanh toán thuận lợi trong quá trình hợp tác, IFG lập ra hệ thống bao thanh toán hai đơn vị, hay còn gọi là hệ thống dịch vụ bao thanh toán quốc tế. FCI [Factors Chain International] – Hiệp hội bao thanh toán thế giời được thành lập năm 1986, đứng ra tập hợp các công ty bao thanh toán độc lập với nhau.
  • 10. ngày đầu thành lập, FCI đã xác định được mục tiêu hoạt động của mình : [i] Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu. [ii] Giúp các thành viên trong Hiệp gội giành được lời thế cạnh tranh trong tài trợ thương mại thông qua việc : thiết lập mạng lưới các nhà bao thanh toán hàng đầu thế giới, xây dựng mạng lưới thông tin tiện ích, hiện đại để kết nối các nhà bao thanh toán với nhau, thường xuyên mở các lớp đào tạo nghiệp vụ và không ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán như là một phương thức tối ưu trong tài trợ thương mại. Cho tới nay, FCI đã trở thành một Hiệp hội có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới sư phát triển của bao thanh toán trên thế giới với 255 đơn vị bao thanh toán của 69 quốc gia trên toàn thế giới. Hiện nay, tổng doanh số bao thanh toán của các thành viên trong Hiệp hội chiếm tới 80% doanh số bao thanh toán toàn cầu. Biểu đồ 1.1 : Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011. ĐVT : Triệu EUR [Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011]
  • 11. : Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới giai đoạn 2007 - 2011. 2007 : 58% 2008 : 59% 2009 : 59% 2010 : 56% 2011 : 57% [Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011] Qua biểu đồ trên, ta có thể thấy đượ sự phát triển của Hiệp hội bao thanh toán FCI hay sự chiếm ưu thế của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế giới. 1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring. 1.2.1.Khái niệm về factoring. Đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, hay các doanh nghiệp ở những nước phát triển trên thế giới, khái niệm bao thanh toán đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam. Vậy thực chất bao thanh toán là gì và dịch vụ bao thanh toán được cung cấp nhằm mục đích gì. Để trả lời cho những câu hỏi trên, trước hết cần làm rõ bằng một số khái niệm về bao thanh toán. Khái niệm 1 : “Hợp đồng Factoring [Factoring contract] là hợp đồng giữa đơn vị bán và đơn vị bao thanh toán [Factors], theo đó, người bán có thể chuyển nhượng cho các đơn vị bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàn hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán phải thực hiện ít nhất 2 trong 4 chức năng sau : [i] tài trợ cho bên bán, bao gồm các khoản vay và thanh toán trước, [ii] quản lý các khoản liên quan tới các khoản phải thu, [iii] thu hộ các khoản phải thu, [iv] bảo hiểm rủi ro thanh toán của con nợ” [Điều 1, công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế 1998 - UNIDROIT Convention on International Factoring – Ottawa, Canada, 28 May 1998]. Khái niệm 2 : “Hợp đồng Factoring là hợp đồng theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho một đơn vị bao thanh toán [factor], có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc không, để nhận được ít nhất một trong các chức năng sau: [i] theo dõi sổ sách các khoản phải thu, [ii] thu hộ các
  • 12. [iii] bảo hiểm rủi ro nợ xấu” [Điều 1, Quy tắc chung về Factoring quốc tế của Hiệp hội Factoring quốc tế - General Rules For International Factoring – FCI] Khái niệm 3 : “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua lại việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ” [Điều 2, quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 30/2008/QĐ- NHNN ngày 16/10/2008 về sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành ngày 6/9/2004] Khái niệm 4 : “dựa trên quan điểm của luật và kế toán thì factoring là một dịch vụ dựa vào những khoản phải thu được chuyển nhượng. Các khoản phải thu của người bán hàng được chuyển nhượng cho factor, do đó tạo ra một sự chuyển đổi chủ nợ. Một factor sẽ trở thành chủ nợ mới và độc quyền với các khoản phải thu, bao gồm cả phần phụ thuộc vào các khoản phải thu đó” [Theo cuốn Marketing International Factoring, 2000] Tóm lại, từ các khái niệm trên đây, xét về các khía cạnh mà bao thanh toán có liên quan, ta có thể hiểu bao thanh toán [Factoring] là một công cụ tài chính cung cấp cho người bán hàng hoặc một thực thể kinh doanh bốn yếu tố dịch vụ dưới đây: - Tài trợ vốn lưu động. - Dịch vụ thu hộ tiền thanh toán từ người mua hàng. - Dịch vụ quản lý số bán hàng. - Dịch vụ bảo đảm rủi ro. Sự khác nhau giữa các khái niệm chính là ở việc đơn vị bao thanh toán cung cấp nhiều hay ít số lượng các dịch vụ để được gọi là Bao thanh toán. Dịch vụ bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: 1. Tổ chức bao thanh toán [factor]: là ngân hàng, công ty tài chính chuyên thực hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ. Trong nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao thanh toán, một đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà nhập khẩu.
  • 13. hay nhà xuất khẩu [seller, exporter]: các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ của khách hàng nhưng chưa đến hạn thanh toán. 3. Người mua hàng [người mắc nợ] hay nhà nhập khẩu [buyer, debtor, importer]: hay còn gọi là người phải trả tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng 1.2.2.Đặc điểm của factoring. Về mặt hình thức, bao thanh toán được cung cấp chủ yếu dưới hai loại đó là factoring và forfaiting. Bản chất của hai loại bao thanh toán này có những đặc điểm khác nhau nhất định, từ đó quyết định tới mức độ phổ biến của hai loại bao thanh toán này trong thực tế. Trên thế giới, factoring thường được áp dụng phổ biến hơn là forfaiting. Forfaiting có thể hiểu là loại hình bao thanh toán tuyệt đối, tức là một hình thức tài trợ thương mại của tổ chức tín dụng cho người xuất khẩu theo phương thức miễn truy đòi. Đối tượng áp dụng của nghiệp vụ forfaiting là các khoản phải thu trung và dài hạn có nguồn gốc từ các hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ với điều kiện các khoản phải thu phải được bảo lãnh thanh toán bởi một ngân hàng có uy tín. Factoring, hay còn gọi là bao thanh toán tương đối,trước hết là một hình thức cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ factoring, tổ chức tín dụng ứng trước cho khách hàng của mình một khoản tiền nhất định thấp hơn giá trị thực tế của các khoản phải thu. Hoạt động factoring được thực hiện, dựa trên quan hệ về mua bán quyền tài sản là quyền đòi nợ. Tổ chức tín dụng sau khi thực hiện nghiệp vụ factoring, có quyền thay mặt bên bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đòi nợ bên mua hàng hóa và sử dụng dịch vụ khi khoản nợ tới ngày đáo hạn. Đồng thời, tổ chức tín dụng được phép hưởng phần chênh lệch giữa giá trị thực tế của khoản nợ, và số tiền tổ chức tín dụng đã bỏ ra để mua khoản nợ đó. 1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ thương mại khác. 1.2.3.1. Sự khác nhau giữa factoring và cho vay thông thường.
  • 14. chất, factoring và cho vay thông thường đều là hình thức cung cấp tín dụng cho người yêu cầu dựa trên những điều kiện, quy định nhất định. Tuy nhiên, hai nghiệp vụ này vẫn có những điểm khác nhau cơ bản, dẫn tới những ưu thế hay những hạn chế riêng khi áp dụng trong thực tế. Tiêu chí Bao thanh toán Cho vay thông thường Chủ thể tín dụng Có hai chủ thể gắn liền với khoản tín dụng :bên bán và bên mua. Chỉ có một chủ thể gắn liền với khoản tín dụng. Hạn mức tín dụng Cấp hạn mức dựa trên uy tín và năng lực bên bán và bên mua. Cấp hạn mức dựa trên uy tín và năng lực bên vay vốn. Hình thức cấp tín dụng ứng trước cho bên bán hàng [dựa trên hóa đơn bán hàng]. Cấp vốn cho bên vay [dựa trên tài sản đảm bảo bên vay] Thu nợ Thu nợ từ bên mua hàng. Thu nợ từ bên vay. Chức năng Theo dõi bán hàng và các khoản phải thu từ bên mua Theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn bên vay. 1.2.3.2. Sự khác nhau giữa factoring với tài trợ các khoản phải thu. Tiêu chí Bao thanh toán Tài trợ các khoản phải thu Chủ thể tham gia Ba bên gồm : Factor, người mua hàng, người bán hàng. Hai bên : ngân hàng [tổ chức tín dụng] và bán hàng. Hạn mức tín dụng Tùy thuộc vào loại hình bao thanh toán, dựa trên cơ sở hóa đơn thương mại. Tài trợ thường được cấp cho người xuất khẩu dựa vào từng khoản phải thu riêng biệt. Rủi ro tín dụng Phụ thuộc vào uy tín và khả năng trả nợ của bên mua. Phụ thuộc vào uy tín và khả năng tín dụng của người bán . Tráchnhiệm thu nợ Phụ thuộc vào loại hình factoring áp dụng, thường là factor thu nợ từ người mua hàng. Người bán hàng chịu trách nhiệm cuối cùng về việc thu nợ từ người mua hàng. Đối với nghiệp vụ tài trợ các khoản phải thu, khoản phải thu chỉ là tài sản đảm bảo, chứ không thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tài chính. Do đó mà người bán sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm thu hồi nợ, cũng như chịu mọi rủi ro nếu người mua không thanh toán. Factoring đã khắc phục được những điểm yếu của hình thức tài trợ thương mại này.
  • 15. factoring. Từ các công ước quốc tế, các quy định chung về nghiệp vụ bao thanh toán, ta có thể thấy được bao thanh toán có bốn chức năng cơ bản : [i] Bảo hiểm tín dụng. Với chức năng này, người bán sẽ được đảm bảo về khoản tín dụng mà khách hàng nợ mình. Một khoản phải thu được bảo hiện là khi đơn vị bao thanh toán cấp cho người mua hàng một hạn mức tín dụng [mục đích để thanh toán tiền hàng], lúc người mua ký hợp đồng mua bán hàng hóa với người bán, thì giá trị khoản phải thu phải nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức còn lại của người mua. Khi đó, nếu như không có tranh chấp giữa người mua và người bán thì khoản phải thu ấy được gọi là khoản phải thu được bảo hiểm. Cần lưu ý một điều rằng, nếu khoản phải thu có giá trị lớn hơn hạn mức còn lại của người mua, thì giao dịch mua bán vẫn được thực hiện, nhưng giá trị khoản phải thu sẽ tăng thêm sẽ không được đơn vị bao thanh toán bảo hiểm, tức là không thanh toán, nếu người mua mất khả năng thanh toán, hoặc không thanh toán trong vòng 90 ngày. [ii] Tài trợ / ứng trước. Với chức năng này. đơn vị bao thanh toán cam kết sẽ ứng trước cho người bán một số tiền với tỉ lệ khoảng 70 – 90% giá trị các khoản phải thu đạt tiêu chuẩn. Khi khoản phải thu được thanh toán, thì người bán sẽ nhận tiếp số tiền còn lại sau khi đã trừ đi phí và lãi. [iii] Quản trị sổ sách các khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý hóa đơn, các giấy nhận nợ và các khoản thanh toán liên quan đến người mua. Khi thích hợp thì đơn vị bao thanh toán sẽ gửi thông báo cho người mua về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán. Và người mua phải thanh toán tiền cho đơn vị bao thanh toán. Người bán sẽ nhận các báo cáo hàng kỳ về tình trạng của sổ quản lý các khoản phải thu. Điều này sẽ giúp cho người bán biết được khả năng thanh toán của người mua. [iv] Thu nợ các khoản phải thu. Một trong những vấn đề trong việc sử dụng phương thức thanh toán mở sổ là người mua không thanh toán cho người bán khi chưa nhận được hàng hóa. Đơn vị
  • 16. sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách thay doanh nghiệp đòi nợ nếu người mua không thanh toán. Ứng với mỗi chức năng, bao thanh toán mang lại những lợi ích nhất định riêng biệt, nhưng không phải lúc nào bao thanh toán cũng thực hiện đủ các chức năng ấy, mà còn tùy thuộc vào loại sản phẩm bao thanh toán mà đơn vị bao thanh toán cung cấp. 1.2.5.Phân loại Factoring. 1.2.5.1.Phân loại theo phạm vi hoạt động địa lý. Factoring nội địa [domestic Factoring] : là hình thức cấp tín dụng của một ngân hàng thương mại hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó, bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc gia. Theo khoản 2, điều 4, chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có giải thích “ Bao thanh toán trong nước là việc bao thanh toán dứa trên hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối”. Factoring quốc tế [international Factoring]: là Factoring trong đó các bên tham gia có ít nhất hai bên thuộc hai quốc gia khác nhau, dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu. Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có quy định : “Bao thanh toán xuất nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu . Đơn vị bao thanh toán xuất nhập khẩu là đơn vị thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng là bên xuất khẩu trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu là đơn vị được phép hoạt động bao thanh toán, tham gia vào quy trình bao thanh toán xuất nhập khẩu”.
  • 17. ý nghĩa bảo hiểm rủi ro thanh toán. Factoring có truy đòi [with recourse/ recourse Factoring] : là hình thức bao thanh toán trong đó đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Factoring miễn truy đòi [without recourse/ non-recourse Factoring] : là hình thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao thanh toán chịu mọi rủi ro đối với số tiền đã ứng trước cho bên bán khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Trong loại hình bao thanh toán này, đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên mua hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán các khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác không liên quan tới khả năng thanh toán của bên mua hàng. 1.2.5.3.Phân loại theo phạm vi áp dụng nghiệp vụ Factoring đối với số lượng các hóa đơn của một người bán hàng cụ thể. Factoring toàn bộ [whole Factoring] : là việc thực hiện bao thanh toán cho toàn bộ các hóa đơn thương mại phát hành ra của một người bán hàng. Factoring một phần [partial Factoring]: là việc thực hiện bao thanh toán cho một số các hóa đơn phát hàng của người bán hàng đòi tiền một số người mua hàng cụ thể. 1.2.5.4.Phân loại theo phương thức thực hiện Factoring. Factoring từng lần : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và kí kết hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu của khách hàng. Factoring hạn mức : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng bao thanh toán : là hình thức hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua bán hàng hóa và cung
  • 18. trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán. 1.2.5.5.Phân loại theo phạm vi giao dịch của factor với người mua. Factoring công khai [disclosed Factoring] : là hình thức bao thanh toán trong đó bên mua hàng hóa có biết về hoạt động này. Theo đó, người bán hàng giao hàng cho người mua và nhận tiền ứng trước từ factor. Sau đó, người mua trả tiền hàng cho factor này. Fatoring kín [confidential/ undisclosed Factoring] : là hình thức bao thanh toán trong đó người mua hàng không biết về dịch vụ Factoring được thực hiện. Theo đóm người bán giao hàng cho người mua, nhận tiền ứng trước từ factor, người mua trả tiền mua hàng cho người bán như thường lệ. Sau đó, người bán chuyển số tiền này cho factor. 1.2.5.6.Căn cứ vào cách thức thực hiện. Factoring theo phương thức thực hiện truyền thống: là hình thức bên bán và bên mua sẽ liên hệ với đơn vị bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị bao thanh toán có mua lại các khoản phải thu cho bên bán hàng hay không trước khi thực hiện mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Factoring theo phương thức thực hiện phi truyền thống : là hình thức đơn vị bao thanh toán sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán đủ điều kiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả hai bên. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và bên bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiến hành thực hiện bao thanh toán, miễn là số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán được cấp cho bên bán. 1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế. 1.2.6.1.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán. Nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán được thực hiện với sự tham gia của ba bên bao gồm : người bán [khách hàng của factor], người mua [con nợ của factor], đơn vị bao thanh toán [fator]. Quy trình thực hiện nghiệp vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau:
  • 19. : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán [1] Người bán [khách hàng] [ 6] Người mua [con nợ] [2] [4] [5] [7] [8] [11] [3] [9] [10] Đơn vị bao thanh toán [1] Người bán và người mua tiến hành thương lượng và ký kết hợp đồng. [2] Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa. [3] Đơn vị bao thanh toán thẩm định khả năng thanh toán tiền của người mua. [4] Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng mua bán, đơn vị bao thanh toán sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán. [5] Đơn vị bao thanh toán và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. [6] Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. [7] Người bán chuyển nhượng hóa đơn, chứng từ bán hàng, và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán. [8] Đơn vị bao thanh toán ứng trước một phần tiền cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán. [9] Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán tiến hành thu hồi nợ từ người mua. [10] Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán. [11] Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị bao thanh toán thanh toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán. Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán chủ yếu được áp dụng cho bao thanh toán nội địa, tức có nghĩa là các bên tham gia đều nằm trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tuy nhiên, ngày nay, khi thương mại quốc tế phát triển, nhu cầu quốc tế hóa, giao lưu kinh tế giữa các quốc gia ngày càng được nâng cao. Theo đó mà phương thức bao thanh toán theo hệ thống hai đơn vị bao thanh toán phổ biến hơn và đang là một giải pháp hữu hiệu trong tài trợ thương mại quốc tế.
  • 20. hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống hai đơn vị bao thanh toán. Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán thường được sử dụng trong bao thanh toán quốc tế [xuất nhập khẩu hàng hóa]. Trong đó xuất hiện hai đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là factor nhập khẩu và factor xuất khẩu. Factor nhập khẩu chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính của bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, thực hiện việc thu nợ theo ủy quyền của factor xuất khẩu và xam kết thanh toán thay cho bên nhập khẩu trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu. Quy trình thực hiện nghiệp vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau đây: Sơ đồ 1.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị bao thanh toán [1] [7] [2] [5] [6] [8] [9] [13] [4] [10] [11] [3] [5] [8] [12] [1] Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa dịch vụ. [2] Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. [3] Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán. [4] Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng. Người mua [người nhập khẩu] Người bán [người xuất khẩu] Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu
  • 21. bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp nhận tài trợ cho người bán. [6] Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng. [7] Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. [8] Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng và các chứng từ liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. [9] Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán. [10]Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ người mua. [11]Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. [12]Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi [nếu có] rồi chuyển số tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. [13]Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho người bán. 1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế. 1.2.7.1.Lợi thế của factoring so với các loại hình thanh toán khác: [i] Lợi thế về thanh toán: Sau khi đã được đơn vị bao thanh toán chấp thuận, người bán hàng thông qua việc bán lại các khoản phải thu cho đơn vị bao thnh toán đã làm giảm đi rất nhiều công việc cần thực hiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ thực hiện tất cả những nhiệm vụ đó cho người bán. Khi thực hiện bao thanh toán quốc tê, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu phải tạo mối quan hệ với đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Điều này đảm bảo cho các khoản phải thu được thanh toán đúng hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Đây chính là tính ưu việt của bao thanh toán so với các loại hình thanh toán khác, nó làm giảm nhẹ gánh nặng về khả năng thu hồi tiền cho người bán. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin về thị trường và bên mua, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại rất lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước ngoài. Đồng thời, hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua
  • 22. hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với những phương thức truyền thống. Do vậy, bao thanh toán trở thành một công cụ rất hiệu quả đối với những nhà xuất khẩu muốn bán hàng theo phương thức trả chậm, mà lại tránh được rủi ro. [ii] Lợi thế về tài chính : Bao thanh toán giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn được nhận vốn từ ngân hàng dù không có tài sản thế chấp, đồng thời, giúp họ tăng hạn mức tín dụng. Còn về phía đơn vị bao thanh toán, có thể yên tâm khi biết được vốn của mình được sử dụng nhằm mục đích gì. Khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp được ứng trước một số tiền của khoản phải thu để quay vòng vốn kinh doanh. Điều này giúp giải quyết được vấn đề vốn lưu động hạn chế đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. 1.2.7.2.Lợi ích của các bên khi sử dụng Factoring. [i] Đối với người bán [người xuất khẩu]: Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn. Lượng tiền mặt có sẵn tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Có thể coi factoring như là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt. Đối với bất kỳ người bán nào, tiền mặt có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở một số đơn vị cung cấp dịch vụ factoring chuyên nghiệp, người bán thậm chí còn có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị được bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring giúp người bán lấp được lỗ hổng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi người mua thanh toán. Một lợi ích nữa đó là người bán có thể giải quyết được nhu cầu về vốn, mà không cần tài sản đảm bảo. Đặc biệt đối với các quốc gia chưa phát triển, hay vẫn đang phát triển, công nghệ ngân hàng chưa đạt tới trình độ cao, việc cấp tin dụng hay không phụ thuộc phần lớn vào tài sản đảm bảo. Bao thanh toán phần nào giải quyết được những hạn chế đó. Các đơn vị bao thanh toán sẽ thẩm định các mối quan hệ mua bán, và quyết định có cấp tín dụng cho bên bán hàng hay không một
  • 23. Nguyên nhân là mối quan tâm của các đơn vị bao thanh toán thường là tập trung vào khả năng trả nợ của bên mua hàng hơn là bên bán hàng. Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, làm cho người bán có thể quay vòng vốn nhanh,tập trung phát triển, và giảm thiểu rủi ro. Nhiều chủ thể kinh tế khi phát triển kinh doanh lại rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng với giá thấp nhất, có nguồn hàng dồi dào nhất và thời gian thanh toán tiền hàng kéo dài. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó khăn với những khoản nợ có thể mang tới rủi ro, và không phải người bán nào cũng có thể xoay sở được với tất cả những khoản nợ này. Khi đó, factoring sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp người bán vượt qua khó khăn. Những rủi ro thuộc về vấn đề này sẽ được giảm thiểu bằng cách chuyển các hóa đơn thành tiền mặt nhờ vào dịch vụ factoring. Nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cung cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần lo tới rủi ro thanh khoản nữa. Theo đó, người bán có thể nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ sẵn sàng chấp nhận kéo dài khoảng thời hạn thanh toán cho các hóa đơn thương mại. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất. Khi chấp nhận bán chịu cho người mua, người bán còn phải dành thời gian vào việc quản lý khoản phải thu từ người mua. Nếu như người bán sử dụng dịch vụ factoring, công việc này sẽ được chuyển sang cho đơn vị cung cấp dịch vụ factoring. Người bán tiết kiệm được thời gian, chi phí để duy trì và điều hành bộ phận chuyên trách việc quản lý khoản phải thu của khách hàng. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của mình, các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring sẽ giải quyết công việc này một cách nhanh chóng, chuyên nghiệp, hiệu quả. Ngoài ra, các đơn vị bao thanh toán còn có thể lập các báo cáo quản lý thu nợ và bán hàng mà không phải khách hàng được bao thanh toán nào cũng có thể thực hiện được. Người bán tiếp cận được với những cơ hội giao thương quốc tế mới khi bao thanh toán được áp dụng rộng rãi, và hạn chế được những rủi ro trong quan hệ mua bán với các nước khác nhờ vào sự tư vấn của đơn vị bao thanh toán. [ii] Đối với người mua [người nhập khẩu]:
  • 24. mua có thể giảm gánh nặng về tài chính.Nếu như người bán ở nước ngoài, L/C vẫn là phương thức thanh toán được áp dụng rộng rãi nhất. Nếu người bán yêu cầu sử dụng dịch vụ factoring, người mua không phải mở thư tín dụng, không phải trả phí mở thư tín dụng hay không phải ký quỹ... Thứ hai, người mua được chủ động với hàng hóa. Người mua có thể mua hàng, nhận hàng, sử dụng hàng mà chưa cần phải thanh toán tiền ngay và chỉ phải thanh toán tiền hàng khi hàng hóa đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng mua bán. Thứ ba, người mua có thể đơn giản thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh toán về một đầu mối là ngân hàng. Thứ tư, người mua giảm được công sức và chi phí trong việc quản lý sổ sách kế toán, quản lý khoản nợ vì khi ngân hàng đã ký hợp đồng bao thanh toán với nhà xuất khẩu thì ngân hàng có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát khoản phải thu từ phía người mua. Khi đó, người mua có thể thỏa thuận với ngân hàng trong việc quản lý sổ sách cũng như khoản nợ của mình. [iii] Đối với đơn vị bao thanh toán. Thứ nhất, doanh thu hoạt động kinh doanh của đơn vị cung cấp dịch vụ factoring tăng lên nhanh chóng. Thực hiện nghiệp vụ factoring giúp những đơn vị này thu được các khoản tiền như lãi suất, phí, ...là một phần quan trọng giúp doanh thu hoạt động hàng năm tăng lên nhanh chóng. Việc gia tăng doanh thu, đồng nghĩa với việc gia tăng lời nhuận. Nhờ đó, nguồn vốn hoạt động của những đơn vị này được gia tăng. Đây là một điều rất quan trọng với các định chế tài chính trung gian bởi nó sẽ thúc đẩy khả năng đầu tư vào kinh doanh, nâng cao tính thanh khoản của luồng tiền mặt của các đơn vị bao thanh toán. Thứ hai, nâng cao được sự cạnh tranh khi triển khai đa dạng dịch vụ. Đơn vị cung cấp dịch vụ factoring hiện nay chủ yếu là ngân hàng thương mại, các công ty tài chính... Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị này sẽ nâng cao được thương hiệu, tăng sức cạnh tranh nhờ vào sự đa dạng hóa trong các loại hình sản phẩm dịch vụ của mình.
  • 25. vụ bao thanh toán, đồng nghĩa với việc đơn vị bao thanh toán cung cấp tài chính, để đổi lấy các khoản phải thu, lưu giữ sổ cái bán hàng và tiến hành thu nợ các hóa đơn bán hàng chưa thanh toán. Nếu thực hiện hoạt động bao thanh toán thường xuyên, đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các khách hàng hiện có, mở rộng quy mô hoạt động và có thể tiếp cận được những khách hàng tiềm năng trong tương lai. [iv] Đối với những quốc gia áp dụng bao thanh toán. Đối với những quốc gia có hành lang pháp lý vững chắc, cùng trình độ kinh nghiệm quản lý là trở ngại lớn cho hoạt động giao thương trong và ngoài nước. Đặc biệt là với hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế, các bên bán rất hạn chế giao dịch với bên mua tại các quốc gia có luật thương mại yếu kém vì cơ sở giao dịch không được đảm bảo, dễ gặp phải những rủi ro. Thông qua việc áp dụng bao thanh toán, vấn đề này được cải thiện rất nhiều. Cùng với vai trò, trách nhiệm tư vấn, kiểm tra,giám sát các khoản phải thu, các khoản nợ xấu được loại trừ, rủi ro cho người xuất khẩu cũng vì thế mà giảm đi. Điều này góp phần cải thiện hình ảnh bên mua tại những quốc gia có luật thương mại kém, giúp các quốc gia này có cơ hội giao lưu buôn bán quốc tế nhờ vào sự đảm bảo về mặt tài chính và uy tín của các đơn vị bao thanh toán. Đặc biệt , trong xu thế toàn cầu hóa, thông qua bao thanh toán, những quốc gia bên bán có thể tăng cường tài trợ trực tiếp cho bên mua để phát triển kinh tế, mà vẫn đảm bảo được nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. 1.3.Rủi ro trong nghiệp vụ factoring. 1.3.1. Rủi ro từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ factoring. Thứ nhất, rủi ro trong nghiệp vụ bao thanh toán xuất hiện là do người bán cố tình gây ra, có thể vì một lý do không trung thực dẫn tới những rủi ro ấy. Thứ hai, rủi ro xảy ra do năng lực yếu kém của bên bán về mặt quản lý, sản xuất, hay chiến lược phát triển... Từ đó, kéo theo sản phẩm của bên bán không đạt được yêu cầu như trong hợp đồng đối với bên mua đã đề ra. Bởi thế mà giá trị các khoản phải thu theo hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ đã ký lại nhỏ hơn giá trị
  • 26. đơn vị bao thanh toán đã cấp cho bên bán. Đây chính là vấn đề căn bản, làm ảnh hưởng tới lợi ích của đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. 1.3.2. Rủi ro từ phía người mua. Năng lực tài chính và đạo đức của người mua là yếu tố quan trọng trong việc có xảy ra rủi ro từ phía người mua hay không trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Nó quyết định đơn vị bao thanh toán có thể thu được các khoản phải thu một cách dễ dàng hay không. Do bên mua là bên thứ ba đối với các đơn vị bao thanh toán, do vậy ,quá trình tiếp cận với bên mua sẽ có những điểm không thuận lợi. Nếu như bên mua có ý định xấu trong việc thực hiện hợp đồng với bên bán, thì việc các đơn vị bao thanh toán thực hiện nghiệp vụ này, cũng đồng nghĩa với việc mua lại rủi ro. Trong hoạt động tín dụng nói chung, rủi ro đao dức là rủi ro khó lường và thường gây ra những hậu quả xấu, làm mất nhiều thời gian, và chi phí cho bên thiệt hại. 1.3.3.Rủi ro từ phía ngân hàng, hay đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring. Dưới góc độ là tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các tổ chức tín dụng phải thực sự có trình độ hiểu biết nhất định về nghiệp vụ, và có sự giám sát chặt chẽ với các khoản phải thu. Tuy nhiên, việc xem xét đánh giá khách hàng bên mua cũng là một quá trình. Rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thẩm định này, nguyên nhân dẫn tới rủi ro này rất nhiều, có thể do trình độ của cán bộ thẩm định yếu, hoặc thẩm định không kỹ dẫn tới những kết luận sai lầm, hoặc có thể do thiếu thông tin về bên mua dẫn tới việc thẩm định không được chính xác... 1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nghiệp vụ factoring. 1.4.1. Các nhân tố khách quan. [i] Sự phát triển của thương mại quốc tế dẫn tới sự gia tăng các hoạt động xuất nhập khẩu. Chính nhờ sự gia tăng của các hoạt động xuất nhập khẩu, mà nhu cầu thanh toán, cũng như luân chuyển luồng tiền mặt nhanh hơn ngày càng trở nên cấp thiết. Điều này đã tác động trực tiếp tới sự phát triển của bao thanh toán. Những nhà xuất khẩu, nhập khẩu đã tìm tới bao thanh toán như một công cụ hữu ích để đảm bảo quyền lợi, cũng như mang lại nhiều lợi ích cho mình. [ii] Môi trường pháp lý là một nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của dịch vụ bao thanh toán. Mỗi quốc gia cần tạo ra một môi trường pháp lý hoàn
  • 27. đảm được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hoạt động bao thanh toán, đồng thời tránh được những rủi ro khi thực hiện hoạt động này. [iii] Công nghệ thông tin phát triển là một nhân tố thúc đẩy nghiệp vụ này trở nên chuyên nghiệp và hoàn thiện hơn. Khi công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống thì nó đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính. Bởi thế,công nghệ thông tin có một tầm ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của hoạt động bao thanh toán. Để có thể giao thương với các quốc gia phát triển – những quốc gia có ứng dụng công nghệ thông tin cao, thì các quốc gia đang phát triển, hoặc các nước nghèo cần phải hoàn thiện hơn cơ sở hạ tầng công nghệ. 1.4.2. Các nhân tố chủ quan. [i] Hệ thống đơn vị bao thanh toán và mạng lưới đại lý bao thanh toán ở nước ngoài có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của hoạt động bao thanh toán. Muốn thực hiện được nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế, các đơn vị bao thanh toán cần phải có một mạng lưới đại lý rộng lớn, từ đó có thể thu thập thông tin cũng như làm giảm rủi ro cho đơn vị khi thực hiện nghiệp vụ này. [ii] Doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ bao thanh toán [người bán] và người mua cũng đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ bao thanh toán. Sự quan tâm của khách hàng với dịch vụ là rất cần thiết đối với sự phát triển của nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, những thông tin do người bán cũng cấp cung ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động. 1.5.Kinh nghiệm về hoạt động factoring trên thế giới. 1.5.1. Tình hình hoạt động factoring trên thế giới. Theo báo cáo thường niên của Hiệp hội bao thanh toán thế giới [FCI], doanh số bao thanh toán trên toàn thế giới trong năm 2011tăng hơn 22% so với năm 2010, tương ứng với doanh số năm 2010 là 1.648.229 triệu EUR và tới năm 2011, con số này đạt tới 2.015.413 triệu EUR. Qua con số đó, ta có thể thấy lĩnh vực bao thanh toán tiếp tục gia tăng mạng mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đầy ấn tượng của bao thanh toán quốc tế. Điều này cho thấy rằng những nhà xuất khẩu và nhập khẩu trên thế giới ngày càng trở nên quen thuộc với những tiện ích mà sản phẩm mà bao thanh toán đem lại như : tài trợ
  • 28. phòng ngừa rủi ro tín dụng, và các dịch vụ nhờ thu cho người xuất khẩu. Về phía người nhập khẩu, bao thanh toán mang lại những lợi ích được mua hàng bằng hình thức ghi sổ mà không cần phải mở L/C hay sử dụng những hình thức thanh toán với những điều khoản ràng buộc khắt khe. Trên thế giới hiện nay có 2.503 đơn vị bao thanh toán hoạt động, đạt doanh số hơn 1.741.137 triệu EUR bao thanh toán nội địa và 274.276 triệu EUR bao thanh toán quốc tế. Bảng 1.1 : Doanh số factoring trên thế giới giai đoạn 2007-2011 [ĐVT : Triệu EUR] Năm 2007 2008 2009 2010 2011 Factoring quốc tế 145.996 176.168 165.459 245.898 274.276 Factoring nội địa 1.153.131 1.148.943 1.118.100 1.402.331 1.741.137 Tổng số 1.299.127 1.325.111 1.283.559 1.648.229 2.015.413 [Nguồn : www.factors-chain.com] Doanh số bao thanh toán tăng trưởng qua các năm, trong tổng doanh số bao thanh toán năm 2011 thì bao thanh toán nội địa chiếm tỷ trọng tới 86%. Con số này chứng tỏ rằng bao thanh toán nội địa được sử dụng nhiều hơn cả do trong phạm vi một quốc gia, người mua, người bán, và đơn vị bao thanh toán trực tiếp quan hệ với nhau, việc thẩm định uy tín,khả năng tài chính dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn so với bao thanh toán quốc tế. Có thể nói, doanh số bao thanh toán quốc tế chiếm tỷ trọng nhỏ do giao thương quốc tế đã quen thuộc với những phương thức thanh toán cổ điển như nhờ thu, L/C, D/A, D/P... Tuy vậy, ta vẫn có thể thấy được bao thanh toán quốc tế có sự tăng trưởng qua các năm đặc biệt năm 2010 tăng tới gần 49% so với năm trước, nhưng tới năm 2011, tốc độ tăng trưởng của bao thanh toán quốc tế lại giảm đi, chỉ tăng 11,5% so với năm 2010. Bảng 1.2 : Doanh số bao thanh toán của các châu lục trên thế giới giai đoạn 2007-2011. [ĐVT: Triệu EUR] 2007 2008 2009 2010 2011
  • 29. 888.528 876.649 1.045.069 1.217.811 Châu Mỹ 149.673 154.195 142.013 185.357 207.172 Châu Phi 10.705 13.263 14.796 16.686 23.451 Châu Á 174.244 235.418 209.991 355.602 508.888 Châu Úc 33.780 33.246 40.110 45.515 58.091 Tổng số 1.300.666 1.324.650 1.283.559 1.648.229 2.015.413 [Nguồn : www.factors-chain.com] Biểu đồ 1.3. Thị phần doanh số factoring các châu lục trên thế giới năm 2011. [Nguồn : www.factors-chain.com] Đứng đầu về doanh số bao thanh toán hàng năm hiện nay vẫn là châu Âu, với nhiều số lượng đơn vị tham gia bao thanh toán nhất trên thế giới. Tuy có sự tăng giảm không đồng đều qua các năm, nhưng trong năm 2010, doanh số bao thanh toán ở châu Âu tăng trưởng vượt bậc, chiếm 63,5% doanh số bao thanh toán toàn thế giới. Cho tới năm 2011, tốc độ tăng trưởng của thị trường châu Âu có phần chậm lại [tăng hơn 16,5% so với năm 2010], nhưng vẫn là châu lục đứng đầu trên toàn thế giới về tổng doanh số bao thanh toán.Trong 5 thị trường bao thanh toán hàng đầu trên thế giới gồm Anh [266.243 triệu EUR], Trung Quốc [154,556 Triệu EUR],Pháp [153.252 Triệu EUR], Ý [143, 745 Triệu EUR], Đức [129,536 Triệu EUR] thì đã có tới 3 đại diện thuộc châu Âu với nước đứng đầu về doanh số là Anh. Bảng 1.3 : Doanh số Factoring của các quốc gia hàng đầu châu Á giai đoạn 2006-2010. [ĐVT: Triệu EUR] 2007 2008 2009 2010 2011
  • 30. 55.000 67.300 154.550 274.870 Nhật Bản 77.721 106.500 83.700 98.500 111.245 Hồng Kong 7.700 8.500 8.079 14.400 17.388 Đài Loan 42.500 48.750 33.800 67.000 79.800 [Nguồn : www.factors-chain.com] Châu Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng bao thanh toán rất mạnh mẽ, với doanh số bao thanh toán đứng thứ 2 trong các châu lục. Biểu đồ 1.4 : Tình hình doanh số factoring của một số nước Asean. [ĐVT: Triệu EUR] [Nguồn : www.factors-chain.com] Tại các nước Asean, dịch vụ bao thanh toán còn phát triển chậm. Singapore là nước có doanh số bao thanh toán lớn nhất trong khu vực Asean. Các quốc gia Thái Lan, Malaysia cũng có doanh số cao trong khu vực Asean. Việt Nam là nước có doanh số bao thanh toán thấp nhất trong bốn nước trên. Trong vòng bốn năm 2006 -2009., doanh số bao thanh toán của Việt Nam tăng trưởng nhanh, là một thị trường đầy hứa hẹn. Tuy nhiên cho tới năm 2010, doanh số bao thanh toán lại giảm tới 31% so với năm 2009. Nhưng tới năm 2011, ta lại có thể thấy được dấu hiệu phục hồi của thị trường bao thanh toán Việt Nam. 1.5.2. Kinh nghiệm về hoạt động factoring của một số quốc gia trên thế giới. • Kinh nghiệm hoạt động facoring của Anh. Trong nhiều năm gần đây, Anh Quốc luôn là nước đứng đầu trên thế giới về doanh số bao thanh toán theo tổng kết hàng năm của FCI. Ở Anh đã thành lập Hiệp
  • 31. bao thanh toán Anh Quốc [ABF - Association Bristish Factors] ngay từ những năm 1976. Đến nay, Hiệp hội này đã sáp nhập cùng CFA European Chapter, và đổi tên thành Hiệp hội tài chính trên cơ sở giá trị tài sản – ABFA [Asset Based Finance Association], đánh dấu sự phát triển vượt bậc về khả năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tài chính của các đơn vị bao thanh toán Anh Quốc. Trở thành thành viên của ABFA, các đơn vị hoạt động bao thanh toán Anh Quốc có được một mạng lưới thông tin rộng lớn và chính xác về các khách hàng. các thông tin mới nhất về chính sách, pháp luật của các quốc gia trên thế giới cho các đơn vị bao thanh toán để hỗ trợ tối đa cho các đơn vị này. Biểu đồ 1.5 : Doanh số factoring của Anh trong năm 2011. [ĐVT: Triệu EUR] [Nguồn : www.abfa.org.uk. ABFA Quarterly statistic 2011] Bảng 1. 4: Số lượng khách hàng của dịch vụ factoring tại Anh năm 2011. [ĐVT: Triệu EUR] Factoring nội địa Factoring quốc tế Quý I 19.434 4.977 Quý II 18.457 5.070 Quý III 18.378 5.077 Quý IV 18.204 5.152 [Nguồn : abfa.org.uk. ABFA Quarterly statistic 2011] • Kinh nghiệm về hoạt động factoring của Ý. Sự thành công của hoạt động factoring ở Ý là nhờ vào sự nỗ lực của các đơn vị bao thanh toán trong việc làm hài lòng khách hàng bằng các nâng cao chất lượng
  • 32. mình như : giảm thủ tục thực hiện hoạt động, thực hiện nghiệp vụ chủ yếu qua mạng Internet...Bên cạnh đó, các đơn vị bao thanh toán ở Ý cũng rất chú ý đầu tư vào công nghệ thông tin hiện đại. Bởi thế mà, quy mô của hoạt động factoring trên toàn quốc có tốc độ tăng đáng kể. Biểu đồ 1.6 : Doanh số factoring của Ý trong giai đoạn 2007 - 2011. [ĐVT: Triệu EUR] [Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011] Có ba nhóm công ty bao thanh toán trên thị trường Ý : nhóm ngân hàng [banking], nhóm công nghiệp [captive] và nhóm độc lập [independent]. Nhóm công nghiệp được hình thành bởi những tập đoàn công nghiệp lớn, hoạt động bao thanh toán với các nhà cung cấp và chính các tập đoàn đã hình thành nên nó. Luật pháp của Ý rất ủng hộ cho nhóm công ty bao thanh toán này, cho phép người mua ngăn cản các nhà cung cấp ký hợp đồng bao thanh toán với các đơn vị bao thanh toán không thuộc tập đoàn của mình. Tuy nhiên, hoạt động bao thanh toán của ngành ngân hàng vẫn hiệu quả hơn do có vốn dồi dào, mạng lưới phân phối , sản phẩm dịch vụ đa dạng, công nghệ cao hơn... • Kinh nghiệm hoạt động factoringcủa Trung Quốc. Theo thống kê năm 2011 của FCI, Trung Quốc là một trong những nước có số lượng các đơn vị bao thanh toán lớn nhất trên thế giới. Điều này đã phần nào
  • 33. sự phát triển của hoạt động bao thanh toán tại Trung Quốc.Ngoài ra, doanh số bao thanh toán của Trung Quốc cũng nằm trong top 5 thế giới. Biểu đồ 1.7 : Doanh số factoring của Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2011. [ĐVT: Triệu EUR] [Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011] Thành công của các đơn vị hoạt động factoring tại Trung Quốc là kết quả của chiến lược marketing và quy trình thanh toán hiệu quả. Không chỉ dừng lại ở bao thanh toán trong nước, các công ty bao thanh toán hàng đầu ở Trung Quốc còn mở rộng thị trường sang Mỹ, Anh, và Hồng Kong. 1.5.3.Các bài học kinh nghiệm cho hoạt động factoring tại Việt Nam. Trong điều kiện kinh tế phát triển mạnh mẽthời gian gần đây của nhiều quốc gia trên thế giới, bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính có tiềm năng phát triển, mang lại nhiều lợi ích. Đã có rất nhiều các quốc gia trên thế giới thành công trong việc đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ phổ biến. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những đặc điểm riêng về lãnh thổ, con người, điều kiện kinh tế... do đó, bao thanh toán ở mỗi quốc gia cũng có những đặc điểm riêng biệt. Bởi vậy mà ta cần học hỏi các quốc gia đã có kinh nghiệm phát triển dịch vụ bao thanh toán thành công một cách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
  • 34. cầu ổn định và đáng kể với nghiệp vụ factoring. Nhu cầu về tín dụng trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu luôn là vấn đề cấp thiết với doanh nghiệp , nhất là các doanh nghiệp muốn cạnh tranh bằng phương thức bán hàng trả chậm. Thực tế ấy đã mở ra cơ hội phát triển cho các hình thức tài trợ thương mại mới như factoring, góp phần thỏa mãn được nhu cầu hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh. Để đẩy mạnh được nhu cầu sử dụng dịch vụ factoring cũng như duy trì nhu cầu đó ở mức ổn định thì trước hết cần phải tạo ra được một môi trường kinh tế- xã hội với mức tăng trưởng kinh tế hợp lý. Anh Quốc là một ví dụ cho bài học kinh nghiệm này. Kinh tế Anh là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, phát triển sớm trên thế gới với nhiều thành tựu khoa học công nghệ. Quốc gia này luôn giữ được mức độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao so với các nước EU. Điều này kéo theo nhu cầu lớn về vốn, và cũng đồng nghĩa với việc là tiền đề cho dịch vụ factoring phát triển. 1.5.3.2.Phát triển và mở rộng các đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring. Đây là bài học rất quan trọng, có ý nghĩa đối với giai đoạn hình thành và triển khai dịch vụ này. Nhiều quốc gia đã đẩy mạng việc triển khai dịch vụ factoring tại các ngân hàng hoặc các công ty con thuộc ngân hàng để huy động lợi thế sẵn có như trường hợp của Anh và Trung Quốc và Ý. Hiện nay những đơn vị thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam chủ yếu là các ngân hàng thương mại, chỉ có một số ít các công ty của các tâp đoàn lớn như Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam hay Tập đoàn Điện lực cung cấp dịch vụ này. Tại Anh Quốc đặc biệt là tại Ý, thành phần tham gia cung cấp dịch vụ factoring rất đa dạng, có thể là các ngân hàng, các công ty con của các ngân hàng, các công ty tài chính, và một số các công ty tư nhân. Điều này phần nào đã giúp cho Anh Quốc có thế tận dụng tối đa được uy tín những ngân hàng sẵn có, hệ thống đại lý đã thiết lập, các nghiệp vụ liên quan tới tín dụng chuyên nghiệp, thanh toán quốc tế...Đó là cơ sở về nguồn nhân lực, hạ tầng, thông tin cần thiết để triển khai một cách chuyên nghiệp và thành công loại dịch vụ này. 1.5.3.3.Mở rộng nguồn vốn tài trợ. Nguồn vốn tài trợ cho các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring tại Anh Quốc, Trung Quốc hay Ý chủ yếu là từ các ngân hàng. Vì vậy nguồn vốn này rất dồi dào,
  • 35. lực về tài chính mà họ có thể tài trợ không chỉ trong ngắn hạn mà còn trong trung và dài hạn. Đặc biệt, ở Anh Quốc, nền công nghiệp ngân hàng phát triển từ rất sớm đã tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của thị trường factoring. 1.5.3.4.Xây dựng hiệp hội liên kết mang tầm cỡ quốc gia. Các đơn vị thực hiện factoring ở Anh Quốc đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc thành lập hiệp hội liên kết. Sự ra đời của hiệp hội không chỉ hỗ trợ về mặt thông tin mà còn bổ trợ về mặt kiến thức, cập nhật những đổi thay của thị trường kịp thời, đồng thời tư vấn về pháp luật cho các đơn vị cung cấp dịch vụ này. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN [FACTORING] TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. 2.1. Cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. 2.1.1. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động factoring tại Việt Nam. • Luật các tổ chức tín dụng. Hiện nay, các đơn vị thực hiện hoạt động bao thanh toán trên thế giới nói chung, và Việt Nam nói riêng hầu hết là các hệ thống ngân hàng thương mại, hay các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tài chính này hoạt động tuân thủ theo luật các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, các tổ chức tài chính này tuân theo Luật các tổ chức tín dụng 2010. • Các văn bản dưới luật.
  • 36. bao thanh toán, quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 6 tháng 9 năm 2004 là cơ sở pháp lý rõ ràng, và riêng biệt. Tất cả các đơn vị khi tham gia hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam đều phải tuân theo quy định này. Quy chế này được chia thành 6 chương, 28 điều, đã đề cập tới những vấn đề cơ bản trong hoạt động factoring tại Việt Nam, bước đầu tạo được cơ sở pháp lý , giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện bao thanh toán theo một quy định chung. Tuy nhiên, văn bản pháp luật này vẫn còn nhiều hạn chế. Văn bản này đã được bổ sung bằng Công văn số 676/NHNN-CSTT ban hành ngày 28/6/2005 về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán của ngân hàng thương mại. Công văn nhằm hướng dẫn các ngân hàng thương mại, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các công ty tài chính thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn thanh toán, chuyển nợ quá hạn với các hợp đồng bao thanh toán. Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 được ban hành nhằm sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng. Quyết định này đã phần nào khắc phục được những hạn chế của Quyết định số 1096/2004/QĐ – NHNN. 2.1.2. Các quy định cơ bản về factoring trong các văn bản luật và dưới luật. • Điều kiện để các ngân hàng được phép thực hiện factoring. Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động bao thanh toán trong nước khi tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau : - Có nhu cầu hoạt động bao thanh toán. - Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối từng tháng của ba tháng gần nhất dưới 5%, không vi phạm các quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. - Không thuộc đối tượng đang bị xem xét xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính ngân hàng hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tàu chính ngân hàng nhưng đã khắc phục được. Đối với hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu : ngoài các điều kiện quy định đối với hoạt động bao thanh toán trong nước, đơn vị xin thực hiện bao thanh toán xuất nhập khẩu còn phải là tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
  • 37. thực hiện hoạt động factoring. Tổ chức thực hiện hoạt động factoring là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng bao gồm: - Ngân hàng thương mại nhà nước. - Ngân hàng thương mại cổ phần. - Ngân hàng liên doanh - Ngân hàng 100% vốn nước ngoài. - Công ty tài chính. - Công ty cho thuê tài chính Bên cạnh đó còn có ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam theo Luật tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam hiện nay, đơn vị chủ yếu thực hiện nghiệp vụ này vẫn là các ngân hàng thương mại . Số lượng các công ty tài chính tham gia còn chưa nhiều, chỉ có một số các công ty tài chính của các tập đoàn lớn như Công ty tài chính dầu khí Việt Nam [PVFC], Công ty tài chính cổ phần Điện lực... • Đối tượng cung cấp dịch vụ factoring. Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam đều chấp nhận cung cấp dịch vụ này cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ : - công ty trách nhiệm hữu hạn. - công ty cổ phần. - doanh nghiệp tư nhân. - doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - doanh nghiệp nhà nước. - hợp tác xã. - công ty hợp danh. - các pháp nhân nước ngoài. • Điều kiện của các khoản phải thu. Theo đúng như Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN, các ngân hàng cung cấp dịch vụ factoring đều đưa ra những điều kiện của các khoản phải thu là các khoản phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ hợp pháp. Hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ đó phải có quy định được phép chuyển nhượng khoản phải thu hoặc không quy định. Bên cạnh đó, các khoản phải thu được phép bao thanh toán không nằm trong các trường hợp dưới đây : - Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bị pháp luật cấm.
  • 38. từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp. - Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp. - Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hình thức ký gửi - Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn thanh toán dài hơn 180 ngày - Các khoản phải thu đã được gán nợ, hoặc cầm cố, hoặc thế chấp. - Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ - Các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực tài chính theo phụ lục của văn bản pháp luật, - Hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ có thỏa thuận không được chuyển giao quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng. Một số ngân hàng cũng có những quy định riêng, ví dụ như ACB thực hiện bao thanh toán trong nước hầu hết với các mặt hàng, tuy nhiên, ưu tiên những mặt hàng tiêu dùng, mặt hàng có chất lượng ổn định, ít xảy ra hư hỏng. • Loại hình, phương thức factoring. Theo Điều 11, quyết định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đơn vị factoring được thực hiện các loại hình factoring như sau :factoring có truy đòi, factoring miễn truy đòi, factoring xuất nhập khẩu, factoring nội địa. Điều 12 của Quyết định 1096 có quy định về phương thức factoring như factoring từng lần, factoring hạn mức, đồng bao thanh toán. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam hầu hết đều thực hiện cung cấp các dịch vụ factoring theo loại hình được quy định trong văn bản của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, một vài năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước chỉ cho phép một số những ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ factoring nội địa như Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt, Ngân hàng xăng dầu Petrolimex... Tùy từng ngân hàng cung cấp dịch vụ factoring có truy đòi hay miễn truy đòi. Có những ngân hàng áp dụng cả hai loại factoring có truy đòi và miễn truy đòi như ngân hàng Vietcombank, Techcombank... Bên cạnh đó cũng có những ngân hàng chỉ cung cấp dịch vụ factoring có truy đòi như Eximbank, Nam Á ... Điều này phần nào phản ánh thái độ còn dè dặt của ngân hàng trước một dịch vụ mang lại rất nhiều tiện ích, nhưng lại có phần mới mẻ tại Việt Nam.
  • 39. hoạt động factoring tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam. 2.2.1. Số lượng các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ factoring. Vào cuối thập kỷ 90, một số chi nhánh những ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đã giới thiệu dịch vụbao thanh toán cho các ngân hàng thương mại trong nước,các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam. Song nghiệp vụ này vẫn còn mới mẻ với các công ty, các ngân hàng nên vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Trên thực tế, Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam [Techcombank] đã thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán vào đầu năm 2001. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Techcombank chỉ cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho một doanh nghiệp duy nhất, đó là nhà sản xuất và xuất khẩu Foocosa và cũng chỉ giới hạn một mặt hàng duy nhất. Dịch vụ mà Techcombank cung cấp cũng rất hạn chế, chỉ áp dụng bao thanh toán trả ngay, thời hạn tài trợ giới hạn trong 30 – 45 ngày, và phí bao thanh toán quá cao 6-10%/năm. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn ngại ngần trước dịch vụ mới này. Dịch vụ bao thanh toán chỉ thực sự được biết đến rộng rãi hơn ở thị trường Việt Nam từ tháng 4/2005. Sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hàng văn bản pháp luật riêng cho dịch vụ bao thanh toán, thực sự dịch vụ bao thanh toán mới được giới thiệu, tiếp thị và triển khai cho các doanh nghiệp Việt Nam một cách rộng rãi hơn.Những ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ bao thanh toán bao gồm Ngân hàng Ngoại thương [Vietcombank-VCB], Ngân hàng Á Châu [ACB], Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam [Techcombank], và Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín [Sacombank]. Bốn ngân hàng này cũng là những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam tham gia Hiệp hội bao thanh toán quốc tế [FCI]. Cho tới cuối năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho thực hiện nghiệp vụ này tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam khác như : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát Triển Nhà TP.HCM, Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam... Tại thời điểm đó, một số ngân hàng nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam đã thực hiện việc cung cấp dịch vụ này là Deutsche Bank của Đức, Far East
  • 40. Mỹ, City Bank của Mỹ, Bank of Tokyo Mitsubishi Ltd của Nhật Bản... Bảng 2.1 : Số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ factoring giai đoạn 2007-2011. 2007 2008 2009 2010 2011 Số lượng 15 - 18 29 33 Nguồn: Báo cáo Ngân hàng nhà nước 2012 Tính cho tới hết năm 2007, đã có 15 ngân hàng thương mại được Ngân hàng nhà nước cấp phép hoạt động dịch vụ bao thanh toán.Tuy nhiên, dịch vụ bao thanh toán tại thời điểm này chỉ hạn chế ở hoạt động bao thanh toán trong nước. Năm 2009, Ngân hàng nhà nước đã cho phép thêm một số ngân hàng nước ngoài chi nhánh tại Việt Nam được phép hoạt động bao thanh toán như Mizuko Corporate Bank, ANZ Hà Nội, Calyon Bank Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2010 được coi như là năm “nở rộ” của việc các ngân hàng thương mại được cấp phép cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước lại chỉ hạn chế những ngân hàng này ở trong một số phạm vi bao thanh toán nhất định. Ví dụ như Ngân hàng MB được phép hoạt động bao thanh toán nhập khẩu, LienVietBank, PGBank được phép hoạt động bao thanh toán trong nước... cùng một số những ngân hàng nước ngoài khác. Năm 2011 là năm chững lại của hoạt động bao thanh toán, với chỉ hai ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động bao thanh toán. Trong đó, có một ngân hàng thương mại Việt Nam MHB[Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long] và một chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Mới đây nhất, 4/4/2012, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép MDB [ngân hàng Phát triển Mê Kong] cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Trong một số năm gần đây, dịch vụ bao thanh toán đã dần dần thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp và những ngân hàng thương mại trong nước.. Qua nhận xét của nhiều ngân hàng tiên phong trong việc cung cấp dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp Việt Nam từ chỗ còn ngại ngần sử dụng dịch vụ này, thì đã dần làm quen, và ký hợp đồng sử dụng dịch vụ với ngân hàng. Mặc dù hiện nay số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán đang tăng lên, nhưng một thực tế là những khách
  • 41. lại được biết rất ít về dịch vụ này. Những hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ bao thanh toán vẫn còn hạn chế. Một số ngân hàng như Techcombank, ACB, Eximbank, Đại Á Bank, ... đã đưa phần giới thiệu tới khách hàng về factoring qua website của mình, nhưng hầu như những thông tin được đưa ra vẫn hạn chế, chỉ là những giới thiệu khái quát. Khách hàng rất khó có thể tìm thấy thông tin về bao thanh toán tại những website này, và khó có cơ hội so sánh những tiện ích của dịch vụ này, so với những loại hình tài trợ thương mại khác.Thậm chí, trên website của Sacombank – một thành viên của FCI, lại không có một phần giới thiệu nào về dịch vụ bao thanh toán. Đối với một dịch vụ, tuy còn mới mẻ, nhưng lại rất nhiều tiện ích như Factoring, mức độ giới thiệu, quảng bá như vậy là rất ít, chưa đủ để thu hút được sự quan tâm của khách hàng. 2.2.2. Quy trình thực hiện factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hầu hết đều được các ngân hàng thương mại Việt Nam xây dựng trên quy trình cơ bản được giới thiệu trong chương I. Sau đây là quy trình bao thanh toán của hai ngân hàng thương mại Việt Nam điển hình dạt đạt được những thành công nhất định khi cung cấp dịch vụ factoring. Ngân hàng TMCP Á Châu [ACB] là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam, và cũng là ngân hàng luôn có doanh số bao thanh toán đứng đầu trong số các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Các sản phẩm bao thanh toán của ACB bao gồm hai nhóm : bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất khẩu. Bảng 2.2: Biểu phí/lãi suất dịch vụ bao thanh toán của ACB. STT Dịch vụ Mức phí/lãi suất 1 Bao thanh toán trong nước 1.1 Phí bao thanh toán 0,2 %, mức phí tối thiểu 400.000VNĐ 1.2 Phí gia hạn 0,2% ,mức phí tối thiểu 400.000VNĐ 2 Bao thanh toán xuất khẩu 2.1 Mức phí = 0,25%*thời hạn thanh toán/45*hệ số k k = 1 : doanh số < 1 triệu USD/năm k = 0,9 : doanh số > 1 triệu tới 2 triệu USD/năm k = 0,8 : doanh số >2 triệu tới 3 triệu USD/năm

Chủ Đề