Bảo vệ văn hóa tư tưởng là gì Trắc nghiệm

     I. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU THỂ HIỆN BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

     Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học củaC.Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển
những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin được hình thành từ ba bộ phận: Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện trên bốn nội dung chủ yếu sau:

    1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận khoa học thể hiện trong toàn bộ các nguyên lý, học thuyết, trước hết là các nguyên lý cơ bản

     Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn liền với nhau. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.

     Chủ nghĩa duy vật lịch sử, cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, là một thành tựu vĩ đại của triết học mácxít. Nó đã chỉ rõ sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác không phải diễn ra một cách tự động mà phải trải qua quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt.

     Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện sự vận động của phương thức sản xuất. Đó là cơ sở để khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.

     Học thuyết Mác về giá trị thặng dư đã vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của xã hội tư bản - quy luật giá trị thặng dư, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

     Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong của mình là đảng cộng sản, là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình và đồng thời giải phóng xã hội.

     2. Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận khoa học

     Bản thân các quy luật, nguyên lý trong chủ nghĩa Mác-Lênin vừa có ý nghĩa thế giới quan, vừa có ý nghĩa phương pháp luận. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hiểu rõ bản chất của thế giới là vật chất. Thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức, giải thích, cải tạo thế giới.

     Phương pháp luận đúng đắn giúp xem xét sự vật, hiện tượng một cách khách quan, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng. Sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một hệ thống lý luận mang tính khoa học sâu sắc và cách mạng triệt để.

     3. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người

     Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, quần chúng nhân dân là chủ nhân của xã hội, là người sáng tạo ra lịch sử, điều đó đem lại cho loài người, đặc biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động, những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.

    Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội và giải phóng con người.

    Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới. Ra đời trong thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.

     4. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết mở, không ngừng được đổi mới, phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại

     Với bản chất khoa học, cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là một hệ thống các nguyên lý giáo điều, bất biến mà gắn với quá trình phát triển của tri thức nhân loại và phong trào cách mạng trên thế giới. Chính C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định, học thuyết của các ông chưa phải đã thực sự hoàn chỉnh, còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Hơn nữa, thực tiễn luôn luôn phát triển. Tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều chỉnh một số luận điểm của mình.

     Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mở, vì vậy các thế hệ nối tiếp nhau tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.

     II. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT MÁC-LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỐ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG

     1. Những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về đảng và xây dựng đảng

     Học thuyết Mác-Lênin về đảng và xây dựng đảng cộng sản là một trong những cống hiến to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin vào kho tàng lý luận chính trị của chủ nghĩa xã hội khoa học.

     C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, đảng cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập vào phong trào công nhân, làm cho giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, có ý thức về cuộc đấu tranh chính trị nhằm giải phóng giai cấp và do đó nhận thấy tính tất yếu phải lập ra chính đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chuyên chính vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ là những người đầu tiên nêu tư tưởng về tính tất yếu, quy luật ra đời của đảng cộng sản, về tổ chức và hoạt động của đảng, mà còn trực tiếp tham gia phong trào công nhân, lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân thế giới Liên đoàn những người cộng sản [năm 1847]. Lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản, ngay từ khi ra đời đã gắn chặt với thực tiễn cách mạng và được đúc kết từ thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thế kỷ XIX. Thực tiễn hoạt động của một số tổ chức cộng sản và những văn kiện do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo cho thấy các tổ chức này đã thể hiện quan điểm, tư tưởng của hai ông về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản, những nguyên tắc ấy có thể tóm gọn lại như sau:

     Một là, đảng là đội tiên phong của giai cấp, có lý luận cách mạng, giác ngộ và kiên quyết trong hoạt động thực tiễn. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen viết: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Tính tiền phong của đảng cộng sản không phải là ý muốn chủ quan của những người sáng lập đảng, mà là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

     Hai là, đảng cộng sản là một chính đảng độc lập, mang bản chất giai cấp công nhân rõ rệt. Đảng cộng sản phải là một chính đảng độc lập của giai cấp công nhân về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Đảng độc lập nhưng không cô độc, biệt lập với toàn thể giai cấp và quần chúng, trái lại, đảng phải gắn bó chặt chẽ với giai cấp và quần chúng nhân dân. Đảng có tính giai cấp và đại diện cho lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân.[1]Từ việc xác định vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đi đến kết luận về sự cần thiết phải thành lập một chính đảng độc lập của giai cấp.

     Ba là, đảng được xây dựng trên tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản, do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi thảo năm 1847 chưa xác định Liên đoàn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, song nội dung của bản Điều lệ đã thể hiện Liên đoàn được tổ chức trên tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều lệ quy định: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội”[2]. Trong đó: “Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn Liên đoàn”[3]; “Ban chấp hành trung ương là cơ quan chấp hành quyền lực của toàn Liên đoàn và với tư cách đó, phải báo cáo công tác với Đại hội”[4]; “Tổng khu bộ là cơ quan chấp hành quyền lực đối với tất cả các khu bộ của một tỉnh”[5]; “Ban chấp hành khu bộ là cơ quan chấp hành quyền lực đối với tất cả các chi bộ thuộc khu bộ”[6].

     Bốn là, người vào đảng phải thừa nhận thế giới quan cộng sản chủ nghĩa; hành động phù hợp mục tiêu, nhiệm vụ của đảng; tự giác phục tùng nghị quyết và giữ gìn bí mật của đảng. C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: do mục đích hàng đầu của những người cộng sản là “Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”[7]; đồng thời đề ra tiêu chuẩn để trở thành hội viên của Liên đoàn những người cộng sản. Tiêu chuẩn và điều kiện trở thành hội viên của Liên đoàn những người cộng sản trở thành cơ sở lý luận cho các đảng cộng sản sau này nghiên cứu xây dựng Điều lệ của đảng mình cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện từng nước.

     Năm là, đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc, thống nhất về tư tưởng và tổ chức. C.Mác, Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản. Những tổ chức cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: “Đồng minh những người cộng sản” [1847-1852] và “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” [Quốc tế I, 1864-1876], dưới sự lãnh đạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học. Về mặt tổ chức, hai ông đòi hỏi đảng cộng sản phải được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và bắt buộc đối với mọi đảng viên.

     Sáu  là, đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt động của đảng, với nhiệm vụ của đảng phải giải quyết. Để đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong phạm vi toàn đảng, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: đảng cộng sản phải được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ, từ dưới lên và từ trên xuống. Điều 5 của Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản quy định: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội”[8].

     Bảy là, đảng được xây dựng trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản, "vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đoàn kết quốc tế trong phong trào cộng sản là tất yếu. Đoàn kết thống nhất trong đảng và đoàn kết quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác xây dựng đảng. Từ nghiên cứu lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh được rằng: nếu thiếu sự đoàn kết, thống nhất các đảng sẽ không xây dựng được tổ chức của mình thật sự vững mạnh.

     Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen về đảng cộng sản, V.I.Lênin đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga [1898] theo hướng xây dựng một chính đảng cách mạng thật sự của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản, đề xuất những nguyên tắc về chính đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân Nga như sau:

    Thứ nhất, đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Theo quan điểm của V.I.Lênin, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội là đội tiên phong của giai cấp công nhân Nga. Là đội tiên phong của giai cấp, đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp công nhân, có lý luận tiên phong và tổ chức chặt chẽ. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản để giành chính quyền giai cấp công nhân không có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức; đối với giai cấp công nhân thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp.

    Thứ hai, Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. V.I.Lê nin chỉ rõ: Học thuyết xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân có chung một nguồn gốc trong những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong cuộc đấu tranh chống sự nghèo khổ và lầm than của quần chúng do chủ nghĩa tư bản gây nên. Nhưng học thuyết xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân lại ra đời từ những tiền đề khác nhau, cái nọ không sinh ra cái kia được. Học thuyết xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ những tiền đề khoa học tự nhiên, xã hội và tư duy đã chín muồi; trên cơ sở hiểu biết sâu sắc triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội khoa học làm vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản cách mạng.

     Thứ ba, đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung  dân chủ

     Theo V.I.Lênin, để có thể làm tròn vai trò đội tiên phong của giai cấp cách mạng, thì về mặt tổ chức, đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc này sẽ tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, làm cho đảng vững chắc và phát huy được sức mạnh của toàn đảng. V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Việc bảo vệ tính vững chắc của đường lối và sự trong sạch của những nguyên tắc của đảng, ngày nay lại càng trở thành một công việc cấp thiết hơn, vì sau khi đã phục hồi lại sự thống nhất của mình, đảng sẽ thu nạp vào hàng ngũ của mình rất nhiều phần tử không vững vàng mà số lượng đó sẽ lớn lên theo sự phát triển của đảng”[9]

     Thứ tư, đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng không bao gồm toàn bộ giai cấp. Nhưng đội tiên phong muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì đảng phải liên hệ chặt chẽ với toàn thể quần chúng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng không thể lãnh đạo được giai cấp nếu như đảng không có sự liên hệ với quần chúng công nhân ngoài đảng và các tầng lớp lao động khác; đồng thời nếu đảng không được quần chúng tin cậy về mặt chính trị, tư tưởng thì cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ của họ, V.I.Lênin viết: “Muốn trở thành một đảng dân chủ - xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp”[10]. Trong mối liên hệ với quần chúng, đảng phải khắc phục khuynh hướng lệch lạc xa rời quần chúng, đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng theo đuôi quần chúng, hạ thấp trình độ đảng xuống ngang trình độ quần chúng.

     Thứ năm, đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh của đảng cộng sản, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến sự đoàn kết, thống nhất của đảng trong điều kiện đảng cầm quyền: “Chuyên chính vô sản không thể thực hiện được nếu không có sự đoàn kết nhất trí của những người lao động”[11]. Theo V.I.Lênin, khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chuyên chính vô sản, đảng phải khắc phục mọi sự bất đồng mâu thuẫn, nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng với quần chúng vô sản. Đoàn kết thống nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết giai cấp; sự đoàn kết toàn giai cấp không thể có được nếu không có sự đoàn kết trong đảng.

     Thứ sáu, khi có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên chính vô sản và là một bộ phận của hệ thống đó. Đảng lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mới chỉ là thành công bước đầu. Nhiệm vụ khó khăn và phức tạp hơn nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Đảng là một bộ phận của hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Chính vì vậy, không một lúc nào được phép buông lỏng sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước, vì điều này sẽ thủ tiêu sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa và mở đường cho những phần tử phản động cướp chính quyền, đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.

     Thứ bảy, đảng mạnh lên do thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong Đảng. Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, V.I.Lênin không ngừng đấu tranh để bảo vệ và phát triển những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác, Người chỉ rõ: đối với Chủ nghĩa Mác, nghĩa vụ thiêng liêng của những người mác xít là phải bảo vệ lý luận đó, chống lại những mưu toan xuyên tạc và hạ thấp lý luận cách mạng.

     Thứ tám, đảng tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp có tính quốc tế, đảng của giai cấp công nhân phải tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi: đảng phải kết hợp đúng đắn lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới; giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả; phải cảnh giác với chủ nghĩa sô - vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đối lập lợi ích dân tộc với lợi ích của giai cấp công nhân. V.I.Lênin chỉ ra rằng, nếu giai cấp vô sản không có sự liên minh với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động thế giới thì sẽ không thể tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công. Việc liên minh giữa các đảng với phong trào công nhân của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chính sách đối ngoại của Đảng. Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản nắm chính quyền và tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì giai cấp vô sản sẽ tập hợp, lôi cuốn vào cuộc cách mạng đó những người vô sản ở tất cả các nước tiên tiến, do đó mà giai cấp vô sản sẽ đánh bại chủ nghĩa tư bản.

      2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng và xây dựng đảng

     2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng

     Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Đây không chỉ là đặc thù của Việt Nam mà còn là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến; quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn gắn bó với dân tộc, được toàn dân gọi là Đảng ta.

     Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: Cách mệnh truớc hết “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[12] và “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”[[13]]. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

     Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng dựa trên cơ sở Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy số lượng ít so với dân số nhưng giai cấp công nhân có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất nước thực hiện những mục tiêu của cách mạng. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc thừa nhận và đi theo. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

     Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền, nhưng là quyền do nhân dân ủy nhiệm, nhân dân mới thực sự là chủ. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đồng thời là tác giả soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, được Hội nghị thành lập Đảng [tháng 2/1930] thông qua: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt.

     2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng

     Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Người chỉ rõ Đảng phải thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng. Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn, theo Người quyền lực có tính chất hai mặt, một mặt quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá nhân.

     [1] Theo tư tưởng Hồ Chí Minh nội dung công tác xây dựng Đảng gồm:

     Một là, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng

     Phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, lý luận. Hồ Chí Minh lưu ý việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng; việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ. Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo. Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị,... Trong các nội dung trên, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng, Người cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lốì chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đốì với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên và nhân dân lao động. Đảng cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.

     Hai là, xây dựng Đảng về tổ chức

     Về hệ thống tổ chức đảng, Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao; Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Về công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, theo Người: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[14]. “Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên”[15]. Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê bình mạnh mẽ việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ theo hướng cục bộ, địa phương, “một người làm quan cả họ được nhờ”.

     Ba là, xây dựng Đảng về đạo đức

     Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”. Không như vậy, Đảng sẽ rơi vào thoái hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Người cho rằng: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài, trong đó đạo đức là gốc.

     [2] Theo tư tưởng Hồ Chí Minh các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng gồm:

     Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên quyền và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có nội dung cụ thể. “Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng, từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiêu người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Còn dân chủ theo Hồ Chí Minh, là của quý báu nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”, hơn nữa dân chủ trong Đảng mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ thật sự.

     Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc này gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Người viết: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”[16]. Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, kế hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành, để xác định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của mỗi cá nhân. Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”[17].

     Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đây là nguyên tắc sinh hoạt và là quy luật phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[18]. Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ, để chữa các bệnh trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và củng cố uy tín của Đảng. Hồ Chí Minh thường dặn phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê bình và tự phê bình phải thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyêt điểm. Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình, phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong tự phê bình và phê bình như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.

     Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Sức mạnh của một tổ chức đảng và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.

     Năm là, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; cương lĩnh, Điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp. Muốn đoàn kết thống nhất phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[19]. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người[20].

     III. NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2020 - 2025

     1. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

     Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng tổ chức từ ngày 25/01 đến ngày 01/02/2021 tại Thủ đô Hà Nội; dự đại hội có 1.587 đại biểu [tăng 77 đại biểu so với Đại hội XII] đại diện cho gần 5,2 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội được tiến hành theo phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển, với chủ đề: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 07 ngày làm việc, Đại hội XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, Đại hội đã thảo luận và quyết nghị thông qua: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp Trung ương khóa XII; báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội XIII. Đại hội XIII của Đảng đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII gồm 200 đồng chí, trong đó 180 uỷ viên chính thức, 20 uỷ viên dự khuyết.

     Trong bối cảnh những năm tới tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đã thống nhất quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ trọng tâm sau:

     1.1. Quan điểm chỉ đạo

     - Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

     - Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

     - Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững.

     - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

     - Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

     1.2. Mục tiêu tổng quátNâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

      1.3. Mục tiêu cụ thể

     - Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

     - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

     - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

     1.4. Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025

     - Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế [GDP] bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5-7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5.000 USD; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp [TFP] vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.

     - Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5% hằng năm; có 10 bác sỹ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỷ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

     - Về môi trường: Đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100%, nông thôn là 93-95%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%.

     1.5. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030

     [1] Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.

     [2] Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế.

     [3] Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

     [4] Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.

     [5] Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

     [6] Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.

     [7] Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

     [8] Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

     [9] Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội.

     [10] Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.

     [11] Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng.

     [12] Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

     Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

     1.6. Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII

     [1] Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

     Trên cơ sở tổng kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII và căn cứ tình hình thực tiễn, nhất là về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng và chỉ rõ: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đồng thời, xác định nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng gồm 6 nội dung quan trọng là: [1] Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh; [2] Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. [3] Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; [4] Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; [5] Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; [6] Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, Đại hội XIII đã đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm, 3 giải pháp đột phá về công tác xây dựng Đảng để thực hiện.

     [2] Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.

    [3] Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.

     [4] Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.

     [5] Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.

     [6] Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.

     1.7. Các đột phá chiến lược

     [1] Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công-tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.

     [2] Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

     [3] Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.

     2. Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn, nhiệm kỳ 2020 - 2025

     Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tổ chức từ ngày 25/9 đến ngày 27/9/2020 tại thành phố Lạng Sơn; dự Đại hội có 350 đại biểu, trong đó có 45 đại biểu đương nhiên và có 305 đại biểu được bầu tại đại hội các đảng bộ trực thuộc. Đại hội được tiến hành theo phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới - Phát triển, với chủ đề: Tập trung xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; đổi mới, sáng tạo, huy động và khai thác hiệu quả mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền biên giới; xây dựng tỉnh Lạng Sơn phát triển nhanh, bền vững. Đại hội đã thảo luận và quyết nghị thông qua: Những nội dung cơ bản nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình đại hội; báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI; các báo cáo tổng hợp ý kiến của tổ chức đảng các cấp, các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh và ý kiến của các đại biểu Đại hội đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

     Đại hội khẳng định, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, với sự đoàn kết thống nhất, quyết tâm của tập thể lãnh đạo, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận và tham gia tích cực của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh Lạng Sơn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thực hiện đạt và vượt 18/20 chỉ tiêu chủ yếu đã đề ra. Về quan điểm, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm và các chỉ tiêu chủ yếu nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội nhất trí thông qua:

     2.1. Quan điểm chỉ đạo

     - Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đảng viên; xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

     - Đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ là yếu tố quan trọng, đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển của tỉnh.

     - Huy động mọi nguồn lực trong xã hội để tập trung phát triển; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh đồng bộ, hiện đại, tạo động lực phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

     2.2. Mục tiêu tổng quát: Tăng cường xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; đổi mới, sáng tạo; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước; huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại, du lịch, dịch vụ, hạ tầng khu, cụm công nghiệp và tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị; đẩy mạnh phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo đảm biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, xây dựng tỉnh Lạng Sơn phát triển nhanh và bền vững.

     2.3. Các nhiệm vụ trọng tâm

     Một là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; phát huy tốt vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, năng lực điều hành, tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc.

     Hai là: Khai thác và sử dụng hiệu quả các lợi thế, tiềm năng, thế mạnh của tỉnh: Tập trung phát triển kinh tế cửa khẩu, công nghiệp, thương mại, dịch vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế du lịch, đưa du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; phát triển nông nghiệp hiện đại gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị, nông thôn và công nghệ thông tin. Tạo điều kiện thuận lợi thu hút doanh nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn. Đẩy mạnh liên kết vùng để khai thác có hiệu quả thế mạnh về vị trí địa lý của tỉnh.

     Ba là: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và hợp tác xã. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Có cơ chế, chính sách thu hút các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

     Bốn là: Phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp, nâng cao đạo đức xã hội, ý thức pháp luật, xây dựng văn hóa và con người Lạng Sơn phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, có khát vọng vươn lên. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là các khu vực nông thôn, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.

Năm là: Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác; chủ động thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

     2.4. Một số chỉ tiêu chủ yếu:

     [1] Tốc độ tăng trưởng kinh tế [GRDP] bình quân từ 7 - 7,5%.

     [2] Cơ cấu kinh tế [GRDP] đến năm 2025 là: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản 17 - 18%; khu vực Công nghiệp - Xây dựng 25 - 26%; khu vực Dịch vụ 52 - 53%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4 - 5%.

     [3] GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 2.900 - 3.000 USD.

     [4] Lượng khách du lịch đến năm 2025 đạt 4.400.000 lượt người; doanh thu du lịch đạt 5.200 tỷ đồng.

     [5] Kim ngạch xuất khẩu hàng địa phương tăng bình quân 8 - 9%.

     [6] Thu nội địa tăng bình quân 8 - 9%.

     [7] Tổng vốn đầu tư xã hội cả giai đoạn là 166 - 168 nghìn tỷ đồng.

     [8] Số xã đạt chuẩn nông thôn mới đến năm 2025 là 115 xã.

     [9] Đến năm 2025 tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông đạt 100%; tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn được cứng hóa đạt 80%.

     [10] Số trường học đạt chuẩn quốc gia đến 2025 là 300 trường.

     [11] Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa đạt chuẩn đến năm 2025 là 60%.

     [12] Đến năm 2025 số xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 200 xã; có 11,5 bác sỹ và 32,3 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 98%.

     [13] Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2025 đạt 65%.

     [14] Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2025 [theo tiêu chí giai đoạn 2016 - 2020] là < 3%.

     [15] Giảm tai nạn giao thông hằng năm cả 3 tiêu chí ≥ 5%; giảm phạm pháp hình sự hằng năm ≥ 3%.

     [16] Trồng rừng mới hằng năm đạt 9.000 ha; tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2025 đạt 65%.

     [17] Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đến năm 2025 đạt 99%.

     [18] Đến năm 2025 tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom và xử lý đạt 97%; tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%.

    [19] Kết nạp đảng viên mới hằng năm là 2.000 đảng viên.

    [20] Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 90%; Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 90%; tỷ lệ đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 95%.

     Đại hội đã tiến hành bầu và thông qua kết quả bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII gồm 53 đồng chí; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gồm 18 đại biểu chính thức và 02 đại biểu dự khuyết.

     3. Nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Lạng Sơn, nhiệm kỳ 2020 - 2025

     Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Lạng Sơn lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tổ chức từ ngày 15/7 đến ngày 16/7/2020 tại thành phố Lạng Sơn; dự Đại hội có 256 đại biểu, trong đó có 22 đại biểu đương nhiên và 234 đại biểu được bầu tại đại hội các chi bộ, đảng bộ cơ sở. Đại hội được tiến hành theo phương châm: Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết - Sáng tạo - Phát triển, với chủ đề: Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng; phát huy dân chủ, đoàn kết, kỷ cương, xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh trong sạch, vững mạnh và phát triển. Đại hội đã thảo luận và quyết nghị thông qua: Những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm 2015 – 2020 và mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2020 - 2025 nêu trong Báo cáo chính trị trình Đại hội; báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh khóa XIII; các báo cáo tổng hợp ý kiến của tổ chức đảng cơ sở và ý kiến của các đại biểu Đại hội đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh.

     Về đánh giá tình hình 5 năm 2015 - 2020, Đại hội khẳng định Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh đã tập trung lãnh đạo cấp uỷ cơ sở phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua, thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ hằng năm, hoàn thành 8/8 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh, trong đó vượt 05 chỉ tiêu. Về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội nhất trí thông qua:

     3.1. Mục tiêu tổng quát: Tiếp tục đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, trí tuệ, ý thức trách nhiệm và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các phong trào thi đua yêu nước, tăng cường cải cách hành chính, giữ vững kỷ luật, kỷ cương; phát huy dân chủ, truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng tỉnh Lạng Sơn phát triển, giàu mạnh.

     3.2. Chỉ tiêu chủ yếu

    [1] Hằng năm, có ít nhất 90% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp lãnh đạo thực hiện tốt công tác tham mưu cho Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.

     [2] 100% chi, đảng bộ cơ sở tổ chức quán triệt, xây dựng và triển khai thực hiện tốt chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp. 100% đảng viên và trên 90% quần chúng được nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

     [3] 100% chi, đảng bộ cơ sở thực hiện hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và 100% cán bộ, đảng viên xây dựng cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm theo quy định.

     [4] Hằng năm, tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 90%, không có cơ sở không hoàn thành nhiệm vụ; đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 90%, hạn chế thấp nhất đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 95%.

     [5] 100% cơ sở đảng có nguồn đều thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới. Trong nhiệm kỳ, hằng năm kết nạp được được ít nhất 120 đảng viên mới.

     [6] Trong nhiệm kỳ, mỗi cơ sở đảng được kiểm tra hoặc giám sát ít nhất 01 lần. Hằng năm, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối trực tiếp kiểm tra 03 tổ chức, giám sát chuyên đề 06 tổ chức.

     [7] Hằng năm, 3/3 đoàn thể chính trị - xã hội khối các cơ quan tỉnh và 85% các đoàn thể cơ sở được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, không có cơ sở yếu, kém; 90% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá, an toàn về an ninh trât tự.

     [8] Hằng năm, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.

     3.3. Nội dung đột phá

     [1] Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng; trong nhiệm kỳ, đảm bảo khoảng 50% tổ chức cơ sở đảng xây dựng được 01 công trình hoặc 01 mô hình tập thể điển hình tiêu biểu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.

     [2] Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương; nâng cao chất lượng, tạo chuyển biến mạnh mẽ về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.

     [3] Củng cố, kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách các ban tham mưu, giúp việc Đảng uỷ Khối đảm bảo chất lượng; sắp xếp, phân công nhiệm vụ đúng năng lực, sở trường để thực hiện tốt công tác tham mưu cho Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối.

     Đại hội đã tiến hành bầu và thống nhất thông qua kết quả bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh khóa XIV gồm 24 đồng chí và bầu Đoàn đại biểu dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII gồm 26 đại biểu chính thức, 02 đại biểu dự khuyết.

     IV. NHỮNG NGHỊ QUYẾT, QUY ĐỊNH VỀ LĨNH VỰC CÔNG TÁC TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐẢNG

     1. Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về thi hành Điều lệ Đảng

     Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30/7/2021 về thi hành Điều lệ Đảng, thay thế Quy định số 29-QĐ/TW, ngày 25/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. 

     1.1. Về giới thiệu và kết nạp người vào Đảng theo Điều 4, Điều lệ Đảng được quy định tại mục 3, Quy định số 24-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, cụ thể như sau:

     - Theo Khoản 1, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cơ sở hoặc tập thể chi đoàn cơ sở; Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở xem xét, ra nghị quyết giới thiệu đoàn viên vào Đảng.

     - Theo Khoản 2, đảng viên giới thiệu người vào Đảng: Là đảng viên chính thức, cùng công tác, lao động, học tập hoặc cùng sinh hoạt nơi cư trú ít nhất 12 tháng với người được giới thiệu vào Đảng trong cùng một đơn vị thuộc phạm vi lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Nếu đảng viên giới thiệu người vào Đảng chuyển đến đảng bộ, chi bộ cơ sở khác, bị kỷ luật hoặc vì lý do khác không thể tiếp tục theo dõi, giúp đỡ người vào Đảng thì chi bộ phân công đảng viên chính thức khác theo dõi, giúp đỡ người vào Đảng [không nhất thiết đảng viên đó cùng công tác, lao động, học tập hoặc cùng sinh hoạt nơi cư trú với người vào Đảng ít nhất 12 tháng].

     - Theo Khoản 3, vấn đề lịch sử chính trị, chính trị hiện nay và tiêu chuẩn chính trị của người vào Đảng thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.

     - Theo Khoản 4, việc kết nạp người vào Đảng ở nơi chưa có đảng viên, chưa có chi bộ: Cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng [nơi người vào Đảng công tác, lao động, học tập, cư trú] giao cho chi bộ có điều kiện thuận lợi nhất để phân công đảng viên chính thức giúp đỡ người vào Đảng. Khi có đủ điều kiện và tiêu chuẩn thì chi bộ nơi có đảng viên giúp đỡ người vào Đảng đang sinh hoạt làm thủ tục đề nghị kết nạp theo quy định. Việc kết nạp đảng viên trong một số trường hợp đặc biệt thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.

     - Về kết nạp lại người vào Đảng, người được xét kết nạp lại phải có đủ các điều kiện sau:

     + Có đủ điều kiện và tiêu chuẩn của người vào Đảng theo quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng;

     + Ít nhất là 36 tháng kể từ khi ra khỏi Đảng [riêng người bị án hình sự về tội ít nghiêm trọng thì phải sau 60 tháng kể từ khi được xoá án tích; đảng viên đã bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình thì thực hiện theo quy định của Ban Bí thư], làm đơn xin kết nạp lại vào Đảng; phải được ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ [hoặc tương đương] đồng ý bằng văn bản, cấp uỷ có thẩm quyền [huyện uỷ và tương đương] xem xét, quyết định.

     + Thực hiện đúng các thủ tục nêu ở các Khoản 1, 2, 3, Điều 4, Điều lệ Đảng.

     - Không xem xét, kết nạp lại những người trước đây ra khỏi Đảng vì lý do: Tự bỏ sinh hoạt đảng; làm đơn xin ra Đảng [trừ trường hợp vì lý do gia đình đặc biệt khó khăn]; gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng; bị kết án vì tội tham nhũng; bị kết án về tội nghiêm trọng trở lên.

     - Chỉ kết nạp lại một lần. Những đảng viên được kết nạp lại phải trải qua thời gian dự bị.

     1.2. Về tiêu chuẩn, đối tượng tặng Huy hiệu Đảng theo Điều 34, Điều lệ Đảng được quy định tại mục 27, Quy định số 24-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, cụ thể đó là:

    - Những đảng viên hoạt động cách mạng lâu năm, giữ gìn được tư cách đảng viên, có đủ 30 năm, 40 năm, 45 năm, 50 năm, 55 năm, 60 năm, 65 năm, 70 năm, 75 năm, 80 năm, 85 năm, 90 năm tuổi đảng trở lên thì được tặng Huy hiệu Đảng. Đảng viên bị bệnh nặng hoặc từ trần có thể được xét tặng, truy tặng Huy hiệu Đảng sớm, nhưng không được quá một năm; đảng viên 70 năm, 75 năm, 80 năm, 85 năm, 90 năm tuổi đảng trở lên nếu bị bệnh nặng có thể được xét tặng Huy hiệu Đảng sớm, nhưng không được quá hai năm theo quy định. Tại thời điểm xét tặng Huy hiệu Đảng, đảng viên bị kỷ luật về Đảng thì chưa được xét tặng; sau 6 tháng [đối với kỷ luật khiển trách], 9 tháng [đối với kỷ luật cảnh cáo], 1 năm [đối với kỷ luật cách chức], nếu sửa chữa tốt khuyết điểm, được chi bộ công nhận sẽ được xét tặng Huy hiệu Đảng.

     1.3. Một số nội dung cụ thể về Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội quy định tại mục 28 của Quy định số 24-QĐ/TW thi hành Điều 41 như sau:

     1.3.1. Khoản 2, Điều 41, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ

     - Nguyên tắc quản lý cán bộ:

     a] Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện các quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.

     b] Tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Khi ý kiến người đứng đầu khác ý kiến của tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

    c] Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

     d] Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, quyết định về cán bộ phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.

     đ] Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của cấp uỷ, tổ chức đảng; cấp uỷ cấp dưới phải chấp hành quyết định của cấp uỷ cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.

     e] Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trực tiếp quản lý cán bộ [kể cả các đồng chí Uỷ viên Trung ương] đang công tác, sinh hoạt trong tổ chức mình và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ, thủ trưởng cấp trên về cán bộ thuộc quyền quản lý của mình.

     - Quản lý cán bộ bao gồm các nội dung chính sau đây:

     a] Tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động và luân chuyển cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ.

     b] Đánh giá cán bộ.

     c] Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

     d] Bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, miễn nhiệm cán bộ.

     đ] Khen thưởng, kỷ luật cán bộ.

     e] Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.

     g] Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ.

     1.3.2. Khoản 3, Điều 41, Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội

     - Tiêu chuẩn chung của cán bộ:

     a] Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

     b] Cần kiệm, liên chính, chí công, vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

     c] Có trình độ hiểu biết về chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

     - Phân cấp việc giới thiệu cán bộ để bầu hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội

     a] Ở Trung ương:

     Ban Chấp hành Trung ương giới thiệu 3 chức danh: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ để Quốc hội bầu; tham gia ý kiến về nhân sự Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm các uỷ ban của Quốc hội, Tổng Kiểm toán Nhà nước và các thành viên Chính phủ.

Bộ Chính trị giới thiệu các chức danh thuộc diện Bộ Chính trị quản lý để Chính phủ trình Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bầu.

Ban Bí thư giới thiệu các chức danh thuộc diện Ban Bí thư quản lý để Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bầu.

     b] Ở địa phương:

     Ban chấp hành đảng bộ các cấp giới thiệu chức danh chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Uỷ ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu [hoặc cấp có thẩm quyền quyết định]; tham gia ý kiến về nhân sự phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân trước khi ban thường vụ cấp uỷ quyết định giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu [hoặc cấp có thẩm quyền quyết định].

     Ban thường vụ cấp uỷ các cấp giới thiệu các chức danh thuộc diện ban thường vụ quản lý để Uỷ ban nhân dân các cấp xem xét, bổ nhiệm; Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bầu.

     2. Những điểm mới và nội dung cơ bản Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá”

     2.1. Những điểm mới trong Kết luận 21-KL/TW

     - Mở rộng phạm vi, không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

     - Cùng với ngăn chặn, đẩy lùi, phải chủ động tiến công mạnh mẽ, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, là bước đột phá mới, cấp độ cao hơn, cường độ và mức độ quyết liệt hơn, thái độ xử lý nghiêm khắc hơn.

     - Kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”.

     - Yêu cầu cao về đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, “lợi ích nhóm”, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân.

     2.2. Kết luận 21-KL/TW đề ra mục tiêu đó là: Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa "xây" và "chống", xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

     2.3. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được nêu trong Kết luận 21 đồng bộ và sắc bén hơn

     Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đề ra 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Kết luận Trung ương 4 khóa XIII đề ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:

     Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình. So với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận 21 nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể:

     [1] Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập lý luận chính trị, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân; xây dựng chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị định kỳ, thường xuyên đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.

      [2] Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Tiến hành đồng thời việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

     [3] Tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp thực tiễn Việt Nam. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế xây dựng cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định, thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

     [4] Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. 

     [5] Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu.

     Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là giải pháp mới, trong đó nhấn mạnh:

     [1] Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, quán triệt sâu sắc vai trò của công tác cán bộ là "then chốt của then chốt", có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta cả trước mắt và lâu dài. Công tác cán bộ gắn với việc thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền và bảo đảm vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. 

     [2] Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn với tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu trong công tác cán bộ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả; bảo đảm đúng quy định, quy trình, công tâm, khách quan, chặt chẽ, thận trọng trong từng khâu của công tác cán bộ; không để lọt người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; kịp thời thẩm tra, xác minh, kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ.

     [3] Thực hiện thí điểm một số chủ trương như:

     - Người đứng đầu được lựa chọn, giới thiệu và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình;

     - Bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình;

     - Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

     - Tổng kết việc thí điểm thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng,...

     [4] Nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ theo hướng thật sự công tâm, khách quan, có tiêu chí rõ ràng và thông qua sản phẩm cụ thể; gắn việc đánh giá cá nhân với đánh giá tập thể, với kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm; mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Tuyệt đối chống tư tưởng cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", tiêu cực [Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 41 về miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ].

     [5] Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ. Chủ động phát hiện nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2025 - 2030 và chuẩn bị cho các nhiệm kỳ tiếp theo, bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm số lượng và cơ cấu hợp lý. Công tác luân chuyển cán bộ phải phù hợp với chức danh quy hoạch; bảo đảm cân đối, hài hoà giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ; luân chuyển ngang và dọc, luân chuyển cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội sang các lĩnh vực khác, và ngược lại; tăng cường cán bộ có bản lĩnh, trình độ, năng lực cho địa bàn trọng điểm, lĩnh vực khó khăn, phức tạp; khắc phục tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí chức danh lãnh đạo chủ chốt không phải là người địa phương.

     Ba là, tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách. So với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh:

     [1] Tập trung rà soát, thể chế hoá kịp thời chủ trương của Đảng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế hiện có, bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.         

     [2] Kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; xây dựng cơ chế phát hiện, lựa chọn, trọng dụng nhân tài, cán bộ có năng lực nổi trội, cán bộ trẻ để đào tạo, bổ sung cán bộ cho Đảng; thu hút và khuyến khích cán bộ làm việc trong các cơ quan, lĩnh vực, địa bàn đặc thù, phức tạp, trọng yếu.

     [3] Nghiên cứu, ban hành các cơ chế về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; cơ chế bảo vệ, khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực. 

    [4] Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch. Đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật, không để bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật.

    [5] Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như: Công tác cán bộ, tài chính, ngân sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, hải quan, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,...

     Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm. So với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã bổ sung nội dung “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm”. Đây là một trong những điểm mới nổi bật, trong đó nhấn mạnh:

     [1] Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và có nhiều khiếu kiện, khiếu kiện kéo dài; đồng thời, quan tâm giải quyết dứt điểm những vụ việc gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

     [2] Tập trung vào phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực tại địa phương, cơ sở. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát người đứng đầu thực hiện trách nhiệm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

     [3] Uỷ ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý, kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" ngay tại cơ sở, chi bộ, không để kéo dài hoặc "đùn đẩy" lên cấp trên. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tự phê bình và phê bình, thực hiện trách nhiệm nêu gương vàkhắc phục khuyết điểm của tập thể, cá nhân. Triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Chủ động phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc liên quan đến tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, nhất là những vụ án, vụ việc do Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Tăng cường phối hợp đồng bộ, tạo sự chuyển biến rõ nét trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến cơ sở.

     [4] Tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trước hết là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực, có dũng khí đấu tranh, có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực và tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan phòng, chống, tham nhũng, tiêu cực.

     Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

     [1] Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp uỷ đảng về công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; của báo chí.

     [2] Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tiếp, đối thoại với công dân; tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện, nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

     3. Những điểm mới của Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về những điều đảng viên không được làm

     Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII giữ nguyên 19 điều như Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về những điều đảng viên không được làm, có điều chỉnh, sắp xếp vị trí, biên tập lại một số điều, chuyển nội dung của 02 điều vào những điều khác và thêm 02 điều mới; kế thừa cơ bản những nội dung còn phù hợp, bổ sung một số nội dung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, XIII. Cụ thể như sau:

     3.1. Bổ sung 02 điều mới

     Bổ sung Điều 3 quy định về những hành vi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đó là “Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; “tư duy nhiệm kỳ”, đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”.

     Bổ sung Điều 13, đảng viên không được “Can thiệp, tác động vào hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tác động, ép buộc, mua chuộc tổ chức, cá nhân để giảm trách nhiệm, hình phạt cho người khác”.

     3.2. Đưa nội dung của 2 điều vào các điều khác

     Đưa nội dung của điều 7, Quy định số 47-QĐ/TW “Đảng viên [kể cả cấp ủy viên và đảng viên là cán bộ diện cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy quản lý] tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội [theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu] khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép” vào Điều 2, Quy định số 37-QĐ/TW, đồng thời biên tập, bổ sung thêm một số nội dung: “Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép”.

     Đưa nội dung điều 10, Quy định số 47-QĐ/TW “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định. Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định. Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác” vào nội dung Điều 12 và Điều 13, Quy định số 37-QĐ/TW.

     3.3. Sửa đổi, bổ sung một số điều

     - Điều 6: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý”.

     - Điều 9: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả, không hợp pháp; nhập quốc tịch, chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài, mở tài khoản và mua bán tài sản ở nước ngoài trái quy định”.

     - Điều 11: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.

     - Điều 12: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Có hành vi chạy chức, chạy quyền”.

     - Điều 14: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Tham ô”.

     - Điều 18: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Thờ ơ, vô cảm với các hành vi sai trái trong xã hội”.

     3.4. Thay đổi thứ tự một số điều không được làm

     Điều 2, Quy định số 47-QĐ/TW là đảng viên không được “Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước” được đặt ở Điều 4, Quy định số 37-QĐ/TW và bổ sung thêm một số cụm từ, cụ thể là: “Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những thông tin, quan điểm trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

     3.5. Chính xác hóa thể thức văn bản và diễn đạt một số điều cho chặt chẽ hơn

     - Hình thức văn bản: Quy định số 37-QĐ/TW, mục 1 về Những điều đảng viên không được làm được biên tập thành các điều từ Điều 1 đến Điều 19 [Quy định số 47-QĐ/TW trước đó mục 1 về những điều đảng viên không được làm được đánh theo số thứ tự, không biên tập theo các điều khoản].

     - Biên tập, diễn đạt một số điều chặt chẽ hơn: Tại điều 1, Quy định số 47-QĐ/TW chỉ quy định đảng viên không được nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,... Quy định số 37-QĐ/TW không chỉ cấm đảng viên nói và làm trái, mà đảng viên không được viết trái [nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép].

     4. Hướng dẫn số 09-HD/TU, ngày 29/5/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ

     4.1. Đối với sinh hoạt chi bộ thường kỳ

     [1] Công tác chuẩn bị

     - Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, đồng chí bí thư hoặc phó bí thư chi bộ chuẩn bị nội dung sinh hoạt, dự thảo nghị quyết [nếu có] hoặc dự kiến nội dung kết luận của buổi sinh hoạt.

     - Họp chi ủy [bí thư, phó bí thư ở những nơi không có chi ủy] để thống nhất nội dung sinh hoạt, đánh giá kết quả công tác lãnh đạo của chi bộ trong tháng, dự kiến nhiệm vụ của tháng tiếp theo [nếu chi bộ chỉ có bí thư thì bí thư dự kiến]; xác định những nội dung trọng tâm cần trao đổi, thảo luận, biểu quyết tại chi bộ; cho ý kiến về dự thảo nghị quyết; phân công các đồng chí chi ủy viên thực hiện các nội dung, chương trình tại buổi sinh hoạt chi bộ.

     - Thông báo thời gian, địa điểm, nội dung sinh hoạt chi bộ đến đảng viên và cấp ủy viên cấp trên được phân công theo dõi chi bộ. Chi bộ có điều kiện gửi trước tài liệu sinh hoạt cho đảng viên để nghiên cứu, chuẩn bị nội dung phát biểu ý kiến.

     [2] Các bước sinh hoạt

     * Mở đầu

     - Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu [nếu có].

     - Cử thư ký ghi biên bản sinh hoạt chi bộ.

     - Thông báo tình hình đảng viên: Số đảng viên chính thức, dự bị, số đảng viên được miễn sinh hoạt. Số đảng viên có mặt, vắng mặt [có lý do, không có lý do].

     - Thông qua nội dung, chương trình sinh hoạt chi bộ.

     * Tiến hành sinh hoạt

     - Bí thư [hoặc người chủ trì] chi bộ báo cáo nội dung sinh hoạt đã được chi ủy [hoặc bí thư] chuẩn bị.

     - Bí thư [hoặc người chủ trì] gợi ý thảo luận những nội dung trọng tâm, thiết thực thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ.

     - Đảng viên phát biểu ý kiến, tập trung trao đổi, thảo luận nội dung trọng tâm liên quan trực tiếp đến hoạt động của chi bộ và những nội dung theo gợi ý của người chủ trì; tự phê bình kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; góp ý, phê bình đối với đảng viên trong chi bộ; nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của tập thể, cá nhân.

    - Bí thư [hoặc người chủ trì] chi bộ cung cấp thông tin và định hướng để làm rõ những vấn đề đảng viên quan tâm, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, khuyến khích đảng viên tham gia đóng góp ý kiến để buổi sinh hoạt đạt hiệu quả.

     * Kết thúc: Bí thư [hoặc người chủ trì] thực hiện các nội dung chủ yếu sau

     - Tổng hợp các ý kiến phát biểu tại buổi sinh hoạt; những ý kiến tiếp thu để bổ sung, hoàn thiện nội dung sinh hoạt chi bộ; phân công nhiệm vụ cho đảng viên và quy định thời gian hoàn thành.

     - Định hướng tư tưởng đối với đảng viên; giải quyết hoặc phản ánh với cấp có thẩm quyền về tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất, kiến nghị của đảng viên.

     - Thông qua nghị quyết hoặc kết luận.

     - Đánh giá chất lượng buổi sinh hoạt.

     - Thư ký trình bày biên bản sinh hoạt chi bộ.

     [3]. Nội dung sinh hoạt chi bộ

     * Về công tác chính trị, tư tưởng

     - Lựa chọn những nội dung thời sự trong nước, quốc tế, các vấn đề của địa phương, cơ quan, đơn vị sát với tình hình và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của chi bộ để phổ biến, trao đổi.

     - Thông báo kịp thời chủ trương, các văn bản của Đảng, Nhà nước, của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần phổ biến đến chi bộ.

     - Đánh giá tình hình tư tưởng của đảng viên, quần chúng thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ; những vấn đề chi bộ cần quan tâm. Kịp thời định hướng nhận thức, tư tưởng cho đảng viên.

     * Về thực hiện nhiệm vụ chính trị

     - Đánh giá kết quả công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tháng của chi bộ và việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân để đề ra biện pháp khắc phục.

     - Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

     - Đảng viên, nhất là người đứng đầu liên hệ, đánh giá việc thực hiện nội dung đã cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương theo quy định của Trung ương; về chống chạy chức, chạy quyền và chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, xa rời quần chúng.

     - Kết quả lãnh đạo chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội.

     - Xác định nhiệm vụ của chi bộ tháng tiếp theo và biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo; phân công nhiệm vụ cho đảng viên.

     4.2. Đối với sinh hoạt chuyên đề

     [1]. Công tác chuẩn bị

     - Hằng năm, chi bộ xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề để tổ chức thực hiện và báo cáo cấp ủy cấp trên trực tiếp theo dõi, chỉ đạo.

     - Chi bộ phân công đảng viên có khả năng biên tập, am hiểu nội dung liên quan đến chuyên đề để chuẩn bị bằng văn bản. Đối với chi bộ do điều kiện khó khăn không thể chuẩn bị chuyên đề sinh hoạt bằng văn bản, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn cách thức sinh hoạt nhưng phải bảo đảm chất lượng.

      - Bí thư chi bộ trao đổi về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp thực hiện chuyên đề với đảng viên được phân công. Dự thảo chuyên đề phải được chi ủy hoặc bí thư chi bộ [nơi không có chi ủy] thông qua và gửi cho đảng viên trước khi tổ chức sinh hoạt.

     [2] Tiến hành sinh hoạt

     - Bí thư chi bộ [hoặc người chủ trì] nêu mục đích, yêu cầu buổi sinh hoạt chuyên đề.

     - Đảng viên được phân công chuẩn bị, trình bày dự thảo chuyên đề.

     - Các đảng viên phát biểu, nêu nhận thức của cá nhân đối với chuyên đề và tác dụng của chuyên đề đối với bản thân; liên hệ với chi bộ, cơ quan, đơn vị, địa phương; trao đổi, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự thảo chuyên đề.

     - Đảng viên được phân công chuẩn bị chuyên đề tiếp thu ý kiến tham gia để hoàn thiện. Chuyên đề sau khi hoàn thiện phải gửi đảng viên trong chi bộ [chi bộ đông đảng viên có thể gửi tới tổ đảng] để nghiên cứu, học tập; đồng thời, gửi cấp ủy cấp trên trực tiếp.

     [3] Kết thúc: Bí thư [hoặc người chủ trì] đánh giá việc chuẩn bị, chất lượng của chuyên đề; ý nghĩa, tác dụng của chuyên đề đối với chi bộ, đảng viên. Kết luận các nội dung cần tiếp thu để bổ sung, hoàn thiện dự thảo chuyên đề.

     * Nội dung sinh hoạt: căn cứ nghị quyết, chỉ thị và định hướng của cấp trên, tình hình, đặc điểm của chi bộ, mỗi quý ít nhất một lần chi bộ tổ chức sinh hoạt theo các nhóm vấn đề sau:

     - Về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo hướng dẫn của Trung ương và cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên.

     - Về các giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên.  

     - Về triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ.

     - Về các giải pháp phòng, chống, khắc phục, sửa chữa các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong chi bộ.

     - Về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa ở địa phương, cơ quan, đơn vị.

     - Về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn của cơ quan, đơn vị, chi bộ.

     - Về giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống của địa phương, cơ quan, đơn vị cho cán bộ, đảng viên.

     - Những nội dung khác theo đặc điểm của từng loại hình chi bộ.

     4.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ hằng tháng

     Tiêu chí đánh giá chất lượng một buổi sinh hoạt chi bộ thường kỳ và số điểm tối đa cho từng tiêu chí; thang điểm điểm tối đa là 100 điểm, gồm các tiêu chí và số điểm cụ thể như sau:

     - Tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt chi bộ: 10 điểm.

     - Công tác chuẩn bị sinh hoạt chi bộ: 10 điểm.

     - Tổ chức sinh hoạt chi bộ: 60 điểm.

     - Thực hiện nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng: 10 điểm.

     - Kết quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết hoặc Kết luận của chi bộ: 10 điểm.

     4.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ hằng năm

     [1] Chi bộ đạt chất lượng sinh hoạt tốt: Là chi bộ duy trì sinh hoạt được 12 kỳ trong năm, trong đó có 10 kỳ trở lên trong năm được đánh giá xếp loại chất lượng tốt, các kỳ còn lại được xếp loại khá và thực hiện được 06 lần sinh hoạt chuyên đề trở lên.

     [2] Chi bộ đạt chất lượng sinh hoạt khá: Là chi bộ duy trì sinh hoạt được 12 kỳ trong năm, trong đó có 10 kỳ trong năm được đánh giá xếp loại chất lượng khá trở lên, các kỳ còn lại được xếp loại trung bình và thực hiện được 05 lần sinh hoạt chuyên đề trở lên.

     [3] Chi bộ đạt chất lượng sinh hoạt trung bình: Là chi bộ duy trì sinh hoạt được 12 kỳ trong năm, trong đó có 10 kỳ trong năm được đánh giá xếp loại chất lượng trung bình trở lên và thực hiện được 04 lần sinh hoạt chuyên đề trở lên.

     [4]. Chi bộ đạt chất lượng sinh hoạt kém: Là chi bộ tổ chức sinh hoạt trong năm không đạt được các tiêu chí chi bộ đạt chất lượng trung bình trở lên.

     5. Quy định số 16-QĐ/ĐUK, ngày 21/6/2021 của Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối về quản lý sinh hoạt Đảng và dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở trong toàn Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Lạng Sơn

     Quy định số 16-QĐ/ĐUK của Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối gồm 03 chương, 10 điều, quy định về thời gian sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ thường kỳ, sinh hoạt chuyên đề; về trách nhiệm của các đồng chí Thường trực, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, lãnh đạo, chuyên viên các ban tham mưu giúp việc Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng nơi có cấp ủy dự sinh hoạt chi bộ.

     5.1. Về thời gian sinh hoạt cấp ủy, chi bộ được quy định tại Điều 3 của  Quy định số 16-QĐ/ĐUK, cụ thể như sau:

     [1] Thời gian đăng ký sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt thường kỳ và sinh hoạt chuyên đề trước ngày mùng 05 hằng tháng trên phần mềm quản lý sinh hoạt đảng.

     [2] Thời gian tổ chức sinh hoạt chi bộ: Trong khoảng từ ngày mùng 01 đến ngày mùng 10 hằng tháng [ngoài thời gian quy định này phần mềm sẽ báo số ngày chậm hoặc không cho đăng nhập].

     [3] Thời gian chấm điểm buổi sinh hoạt, báo cáo việc tổ chức sinh hoạt, báo cáo kết quả chấm điểm sau sinh hoạt được thực hiện tự động từ chi bộ đến đảng bộ trên hệ thống phần mềm quản lý sinh hoạt đảng.

     [4] Thời gian báo cáo việc tổ chức sinh hoạt đảng đã được mặc định và hướng dẫn trong phần mềm quản lý sinh hoạt đảng.

     5.2. Về định kỳ dự sinh hoạt chi bộ ở cơ sở được quy định tại Điều 4 của  Quy định số 16-QĐ/ĐUK, cụ thể là:

     [1] Đối với Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh

     - Các đồng chí Thường trực, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối mỗi năm dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở ít nhất 04 lần [trong đó ít nhất có 01 lần dự sinh hoạt chuyên đề] nơi được phân công phụ trách và chi bộ khác [nếu thấy cần thiết], trừ các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành kiêm chức thực hiện theo Quy định số 1764-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Khoản 2, Điều 4 của Quy định số 16.

     - Các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên các ban tham mưu giúp việc của Đảng uỷ Khối mỗi năm dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở ít nhất 05 lần [trong đó ít nhất có 01 lần dự sinh hoạt chuyên đề] nơi được phân công phụ trách và một số loại hình chi bộ đang được tập trung chỉ đạo.

     [2] Đối với cấp cơ sở

     - Đảng bộ cơ sở: Các đồng chí đảng ủy viên, mỗi năm dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở ít nhất 04 lần [trong đó ít nhất có 01 lần dự sinh hoạt chuyên đề] nơi được phân công phụ trách và một số chi bộ đang được tập trung chỉ đạo [trường hợp nếu được phân công phụ trách chi bộ mình đang sinh hoạt thì dự các kỳ sinh hoạt của chi bộ mình theo kế hoạch hằng năm của chi bộ đồng thời bố trí dự sinh hoạt tại chi bộ khác nếu thấy cần thiết].

     - Chi bộ cơ sở: Đồng chí bí thư, phó bí thư chi bộ chủ động chỉ đạo, tổ chức sinh hoạt chi bộ thường kỳ và sinh hoạt chuyên đề của chi bộ mình; chịu trách nhiệm về nội dung, phương pháp và kết quả chấm điểm chất lượng buổi sinh hoạt.

     5.3. Về trách nhiệm, quyền hạn của các đồng chí dự sinh hoạt chi bộ [Điều 5]

     [1] Dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở và chỉ đạo việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh.

     [2] Định hướng nội dung sinh hoạt chi bộ thường kỳ, sinh hoạt chuyên đề phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình chi bộ và nhiệm vụ chính trị của chi bộ, cơ quan, đơn vị, bảo đảm tính toàn diện, thiết thực, hiệu quả.

     [3] Thông tin các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan; chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và những vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở để hỗ trợ, tháo gỡ; trả lời, tiếp thu những nội dung mà cán bộ, đảng viên quan tâm, có ý kiến, báo cáo kịp thời và đề xuất giải pháp với tập thể, cá nhân có thẩm quyền để xem xét, giải quyết.

     [4] Chấm điểm, đánh giá chất lượng tại buổi sinh hoạt chi bộ theo quy định.

     [5] Hằng năm, trong bản kiểm điểm tự phê bình và phê bình của cá nhân các đồng chí được phân công dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở, bổ sung nội dung kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở, báo cáo tại Hội nghị kiểm điểm cuối năm.

     [6] Các đồng chí cấp Đảng ủy Khối được chủ động lựa chọn chi bộ thích hợp để dự sinh hoạt dựa trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ được giao và kết quả đăng ký lịch sinh hoạt chi bộ trên phần mềm đang được Ban Tổ chức Đảng ủy Khối theo dõi, quản lý.

     [7] Được các cấp ủy, tổ chức đảng tại nơi dự sinh hoạt thông báo về thời gian, địa điểm, dự kiến nội dung sinh hoạt chi bộ [theo hình thức linh hoạt]; được đề nghị chi bộ cung cấp những thông tin liên quan trực tiếp thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ.

     5.4. Trách nhiệm của Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh và đảng ủy cơ sở [Điều 6]

     [1] Lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ thực hiện tốt nền nếp sinh hoạt chi bộ.

     [2] Giao Ban Tổ chức thông báo lịch sinh hoạt trên phần mềm để các đồng chí Thường trực, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy,  Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối, lãnh đạo và chuyên viên các ban tham mưu giúp việc Đảng uỷ Khối biết để chủ động bố trí đi dự sinh hoạt chi bộ; chủ động trao đổi với đồng chí đi dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở về những vấn đề phát sinh của chi bộ, cơ quan, đơn vị nơi dự kiến đến dự sinh hoạt chi bộ.

     [3] Đảng ủy cơ sở thông báo cho chi bộ biết việc có đồng chí ở Đảng ủy Khối đến dự sinh hoạt. Nếu thấy cần thiết có thể phân công cấp uỷ cơ sở cùng dự sinh hoạt chi bộ với các đồng chí đại biểu Đảng uỷ Khối.

     5.5. Về trách nhiệm của chi bộ nơi có các đồng chí cấp trên dự sinh hoạt [Điều 7]

     [1] Chuẩn bị địa điểm, các điều kiện để tổ chức sinh hoạt chi bộ; chuẩn bị nội dung và tổ chức sinh hoạt theo Hướng dẫn số 09-HD/TU, ngày 29/5/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ” và phù hợp tình hình thực tế của chi bộ. 

     [2] Thông báo thời gian, địa điểm, dự kiến nội dung sinh hoạt với đồng chí cấp ủy viên cấp trên trực tiếp phụ trách trước 03 ngày làm việc [theo hình thức linh hoạt] để được hướng dẫn, định hướng nội dung sinh hoạt, bố trí, sắp xếp thời gian dự sinh hoạt.

     [3] Chuẩn bị các nội dung, kiến nghị, đề xuất của chi bộ [nếu có] để báo cáo, trao đổi với các đồng chí cấp ủy cấp trên về dự buổi sinh hoạt chi bộ.

     V. NHỮNG NGHỊ QUYẾT, CHỈ THỊ, QUY ĐỊNH VỀ LĨNH VỰC CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT, KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG

     1. Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng

     Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định 22-QĐ/TW áp dụng đối với tổ chức đảng và đảng viên, bao gồm cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể hoặc thay đổi do chia tách, sáp nhập về mặt tổ chức; đảng viên đã chuyển công tác, nghỉ việc, nghỉ hưu. Nguyên tắc trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảngnguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng được quy định cụ thể trong  Quy định số 22-QĐ/TW như sau:

     1.1. Nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng được quy định tại Điều 2, cụ thể như sau:

     [1] Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra.

     [2] Tổ chức đảng cấp trên kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng, đảng viên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.

     [3] Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe và giáo dục.

     [4] Tuân thủ đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thẩm quyền, phương pháp công tác theo quy định của Đảng; chủ động, kịp thời, công khai, dân chủ, khách quan, công tâm, thận trọng, chặt chẽ, chính xác, nghiêm minh.

     [5] Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, không có ngoại lệ.

     [6] Nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng được quy định tại Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ nhằm bảo đảm việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên được thống nhất, chặt chẽ, công minh, chính xác, kịp thời.

     1.2. Nguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng được quy định tại Điều 9, cụ thể như sau:

     [1] Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải được xử lý công minh, chính xác, kịp thời; tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng, nếu vi phạm đến mức phải kỷ luật đều phải xử lý kỷ luật nghiêm minh.

     [2] Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết, không được xử lý nội bộ. Nếu làm thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, của tổ chức, cá nhân thì phải xem xét trách nhiệm và bồi hoàn.

     [3] Đảng viên sau khi chuyển sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng mới, nếu phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng cấp trên của các đảng bộ nơi quản lý đảng viên trước đây và hiện nay xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý theo thẩm quyền.

     [4] Việc thi hành kỷ luật phải căn cứ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, ảnh hưởng, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh cụ thể và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ để xem xét, quyết định cho phù hợp và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nếu hết thời hiệu thì không xem xét, xử lý kỷ luật.

     [5] Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể hoặc việc xử lý bằng pháp luật và ngược lại [trừ trường hợp có quy định khác]. Tổ chức đảng sau khi xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng, phải chỉ đạo hoặc đề nghị ngay với các tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể hoặc xử lý hình sự cho đồng bộ, kịp thời. Khi các tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội đình chỉ công tác hoặc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì phải chủ động thông báo ngay cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó để xem xét, xử lý kỷ luật đảng. Sau khi giải quyết khiếu nại kỷ luật về Đảng, nếu có thay đổi hình thức kỷ luật thì tổ chức đảng có thẩm quyền chỉ đạo việc xem xét lại hình thức kỷ luật về hành chính, đoàn thể.

     [6] Đối với đảng viên là cấp ủy viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu phát hiện có vi phạm khi đang công tác thì thẩm quyền thi hành kỷ luật của các tổ chức đảng được thực hiện như đang đương chức; nếu có vi phạm khi đã nghỉ hưu thì do tổ chức đảng quản lý đảng viên đó xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.

     [7] Đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, bị bệnh nặng thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đã qua đời tổ chức đảng xem xét, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.

     [8] Tổ chức đảng quyết định kỷ luật oan, sai đối với đảng viên phải thay đổi hoặc hủy bỏ quyết định đó, đồng thời tự phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm; nếu vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định.

     [9] Đảng viên chính thức vi phạm nghiêm trọng đến mức phải khai trừ thì phải kỷ luật khai trừ, không áp dụng biện pháp xoá tên, không chấp nhận việc xin ra khỏi Đảng.

     [10] Đảng viên dự bị vi phạm đến mức phải kỷ luật thì kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo, khi hết thời hạn dự bị, chi bộ vẫn tiến hành xét công nhận đảng viên chính thức. Nếu vi phạm đến mức không còn đủ tư cách đảng viên thì xoá tên trong danh sách đảng viên.

     [11] Khi kỷ luật một tổ chức đảng phải xem xét trách nhiệm, xử lý kỷ luật đối với những đảng viên vi phạm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu tổ chức đảng.

     [12] Đảng viên bị kỷ luật oan, sai phải được xin lỗi và phục hồi quyền lợi. Việc xin lỗi và phục hồi quyền lợi thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị.

     2. Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm

     Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm [thay thế Quy định số 07-QĐi/TW, ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm và Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm]. Quy định có 04 chương với 58 điều, quy định nội dung vi phạm và hình thức kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật; áp dụng đối với tổ chức đảng [gồm cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể, thay đổi do chuyển giao, chia tách, sáp nhập] và đảng viên [gồm cả đảng viên bị tuyên bố mất tích, đảng viên đã qua đời nhưng có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng]. Trường hợp tổ chức đng, đảng viên vi phạm nội dung chưa nêu trong quy định thì căn cứ vào Điều lệ và các quy định của Đng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ và quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để xử lý kỷ luật cho phù hợp với quy định 69 này.

     2.1. Về nguyên tắc xử lý kỷ luật được quy định tại Điều 2, cụ thể là

     [1] Tất cả tổ chức đảng và đảng viên bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải xem xét thi hành kỷ luật công minh, chính xác, kịp thời.

     [2] Thi hành kỷ luật phải đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Đảng.

     [3] Khi xem xét kỷ luật phải căn cứ vào nội dung, động cơ, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh cụ thể, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, ý thức, thái độ tự phê bình, tiếp thu phê bình và kết quả sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả đã gây ra.

     [4] Một hành vi vi phạm chỉ bị kỷ luật một lần bằng một hình thức kỷ luật. Khi cùng một thời điểm xem xét kỷ luật nếu có từ hai hành vi vi phạm trở lên thì xem xét, kết luận từng hành vi vi phạm và quyết định chung bằng một hình thức kỷ luật cao nhất; không tách riêng từng hành vi vi phạm để thi hành các hình thức kỷ luật khác nhau và kỷ luật nhiều lần.

     [5] Sau 12 tháng, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật [trừ quyết định kỷ luật khai trừ đối với đảng viên hoặc quyết định kỷ luật giải tán đối với tổ chức đảng], nếu tổ chức đảng, đảng viên không khiếu nại, không tái phạm hoặc không có vi phạm mới đến mức phải kỷ luật thì quyết định kỷ luật đương nhiên chấm dứt hiệu lực.

     [6] Tổ chức đảng, đảng viên bị kỷ luật oan, sai, thì tổ chức đảng ra quyết định kỷ luật phải hủy bỏ hoặc thay đổi quyết định kỷ luật cho phù hợp; nếu tổ chức đảng không thực hiện thì tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền quyết định, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đã ra quyết định kỷ luật oan, sai, nếu có vi phạm đến mức phải kỷ luật thì xử lý theo quy định.

     [7] Tổ chức đảng bị kỷ luật đã chuyển giao, chia tách, sáp nhập hoặc kết thúc hoạt động thì việc công bố quyết định kỷ luật thực hiện ở tổ chức đảng đã tiếp nhận việc chuyển giao, chia tách, sáp nhập hoặc tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đó.

     [8] Kỷ luật tổ chức đảng phải xem xét rõ trách nhiệm của tổ chức, đồng thời xem xét trách nhiệm của từng cá nhân liên quan để kỷ luật đối với đảng viên vi phạm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Đảng viên trong tổ chức đảng bị kỷ luật phải chịu trách nhiệm về nội dung vi phạm, hình thức kỷ luật của tổ chức đảng đó và phải ghi vào lý lịch đảng viên; đảng viên không bị kỷ luật về cá nhân vẫn được tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, thực hiện công tác cán bộ theo quy định. Đảng viên không tán thành hoặc không liên quan trực tiếp đến vi phạm của tổ chức đảng cũng phải ghi rõ vào lý lịch đảng viên.

     [9] Đảng viên vi phạm pháp luật phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, bị truy nã, bị toà án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì khai trừ ra khỏi Đảng; nếu hình phạt nhẹ hơn cải tạo không giam giữ thì tùy nội dung, tính chất, mức độ hậu quả, nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ để thi hành kỷ luật đảng tương xứng. Nếu làm thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, của tổ chức, cá nhân thì phải xem xét trách nhiệm và bồi thường.

     [10] Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử phạt của pháp luật. Đảng viên bị kỷ luật về đảng thì cấp ủy quản lý đảng viên đó phải kịp thời chỉ đạo hoặc đề nghị cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật về Đảng, phải kỷ luật về hành chính, đoàn thể [nếu có] theo quy định của cơ quan nhà nước, đoàn thể. Khi các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan bảo vệ pháp luật thi hành kỷ luật, khởi tố bị can hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cán bộ, công chức, viên chức, hội viên, đoàn viên, người lao động là đảng viên thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho tổ chức đảng quản lý đảng viên đó biết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, tổ chức đảng quản lý đảng viên phải quyết định thi hành kỷ luật về Đảng.

     [11] Trong cùng một vụ việc có nhiều đảng viên vi phạm thi mỗi đảng viên phải bị kỷ luật về hành vi vi phạm của mình.

     [12] Đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện có vi phạm ở cơ quan, đơn vị cũ đến mức phải kỷ luật thì xem xét kỷ luật theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

     [13] Không điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, phong, thăng quân hàm; phong, tặng, công nhận các danh hiệu của Đảng, Nhà nước đối với đảng viên đang bị tổ chức đảng xem xét xử lý kỷ luật.

     [14] Trường hợp chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật:

     a] Đảng viên là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc đảng viên là nam giới [trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác] đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chưa xem xét kỷ luật.

     b] Đảng viên bị bệnh nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện thì chưa xem xét kỷ luật, khi sức khỏe ổn định [được ra viện] mới xem xét kỷ luật.

     c] Đảng viên vi phạm đã qua đời thì tổ chức đảng xem xét, kết luận nhưng không quyết định kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.

     d] Đảng viên bị tuyên bố mất tích nếu phát hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận nhưng chưa xử lý kỷ luật, khi phát hiện đảng viên đó còn sống thì thi hành kỷ luật theo quy định.

     đ] Đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo theo Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị, được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhưng xảy ra thiệt hại thì cơ quan có thẩm quyền xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá khách quan, toàn diện; nếu đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì miễn kỷ luật hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.

     e] Vi phạm do chấp hành chủ trương, quyết định, mệnh lệnh sai trái của tổ chức, cấp trên hoặc do bị ép buộc nhưng đã chủ động, kịp thời báo cáo bằng văn bản với tổ chức, cơ quan có thẩm quyền biết ý kiến, đề xuất của mình trước khi thực hiện thì miễn kỷ luật.

     2.2. Về thời hiệu kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm được quy định tại Khoản 2, Điều 4 như sau:

     [1]. Thời hiệu kỷ luật tổ chức đảng vi phạm: 5 năm [60 tháng] đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức khiển trách; 10 năm [120 tháng] đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức cảnh cáo. Không áp dụng thời hiệu kỷ luật đối với những vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức kỷ luật giải tán; vi phạm về chính trị nội bộ; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

     [2]. Thời hiệu kỷ luật đảng viên vi phạm: 5 năm [60 tháng] đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức khiển trách; 10 năm [120 tháng] đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức. Không áp dụng thời hiệu kỷ luật đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức khai trừ; vi phạm chính trị nội bộ; vi phạm quốc phòng, an ninh, đối ngoại có xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc; việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận không hợp pháp.

     2.3. Về hình thức kỷ luật được quy định tại Điều 7, cụ thể là

     [1] Đối với tổ chức đảng: Khiển trách, cảnh cáo, giải tán.

     [2] Đối với đảng viên chính thức: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức [nếu có chức vụ], khai trừ.

     [3] Đốvới đảng viên dự bị: Khiển trách, cảnh cáo.

     3. Chỉ thị số 16-CT/TU, ngày 03/8/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng giai đoạn 2017 - 2020 và những năm tiếp theo

     3.1. Chỉ thị số 16 đã chỉ ra 03 nhóm hạn chế về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Đảng bộ tỉnh đó là:

     [1] Các cấp uỷ đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát chưa toàn diện và đồng bộ, nhất là cấp ủy cơ sở.

     [2] Công tác tham mưu, đề xuất của ủy ban kiểm tra với cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng chưa toàn diện, kịp thời.

     [3] Uỷ ban kiểm tra xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa sát thực tế; chưa tập trung kiểm tra, giám sát những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, được dư luận quan tâm. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý khi có dấu hiệu vi phạm còn hạn chế; chưa chú trọng kiểm tra, đôn đốc việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm tra, giám sát; chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

     3.2. Để tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ đối với công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác chấp hành kỷ luật đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Chỉ thị 16 đề ra 05 nhóm nhiệm vụ:

     [1] Quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020; các nghị quyết, quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

     [2] Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành một cách thường xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ, với phương châm “kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng cấp bách”.

     [3] Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả theo phương châm “giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”.

     [4] Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; thực hiện tốt công tác tham mưu cho cấp ủy; tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp mình quản lý.

     [5] Các huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ và đảng uỷ cơ sở thường xuyên kiện toàn bộ máy, tổ chức cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp, bảo đảm về số lượng và chất lượng; quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có tính chiến đấu cao, tâm huyết với nghề, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong tình hình mới.

     4. Nghị quyết số 41-NQ/TU, ngày 05/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giai đoạn 2021-2025

     4.1. Nghị quyết số 41-NQ/TU nêu rõ 03 quan điểm:

     [1] Công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm phải được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên, toàn diện của các cấp ủy đảng; phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác của Đảng; kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm để chủ động phòng ngừa vi phạm, phát hiện những nhân tố mới để phát huy, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những thiếu sót, hạn chế, khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên từ khi mới phát sinh.

     [2] Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm phải tiến tới đi trước trong công tác phòng, chống các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm.

     [3] Kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng cấp bách; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm để giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và giáo dục, phòng ngừa chung.

     4.2. Nghị quyết số 41-NQ/TU đề ra 03 mục tiêu tổng quát và 03 mục tiêu cụ thể như sau:

     * Mục tiêu tổng quát:

     [1] Tạo sự chuyển biến về nhận thức, hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

     [2] Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn có nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm, dễ xảy ra khuyết điểm, vi phạm.

     [3] Nâng cao năng lực hoạt động của ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra các cấp để thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; chủ động ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên khi mới manh nha; kịp thời, kiên quyết xử lý những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

     * Mục tiêu cụ thể

     [1] Kiểm tra tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm từ 5% trở lên/tổng số tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh.

     [2] Kiểm tra đảng viên là cấp ủy viên các cấp khi có dấu hiệu vi phạm từ 4% trở lên/tổng số cấp ủy viên các cấp.

     [3] 100% cán bộ, đảng viên làm công tác kiểm tra được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra.

     4.3. Nghị quyết số 41-NQ/TU nêu 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

     [1] Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng và hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.

     [2] Ủy ban kiểm tra các cấp xây dựng và thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát, trong đó xác định kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm và tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ xảy ra vi phạm, những vấn đề được dư luận xã hội, cán bộ, đảng viên quan tâm.

     [3] Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả Quy định số 195-QĐ/TW, ngày 18/6/2019 của Ban Bí thư về chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với ủy ban kiểm tra cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

     [4] Các cấp ủy đảng, uỷ ban kiểm tra thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện làm việc cho ủy ban kiểm tra các  đổi mới phương pháp bồi dưỡng tập huấn để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

     [5]Tổ chức thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Đẩy mạnh công tác truyền thông, phát hiện, biểu dương những nhân tố mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự năng động, sáng tạo của tổ chức đảng, đảng viên. Công khai kết quả kiểm tra và xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng theo Thông báo kết luận số 156-TB/TW, ngày 01/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

     [6] Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân nhân, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp, các cơ quan thông tin đại chúng và các tầng lớp Nhân dân, nhằm kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề xuất kiểm tra theo quy định.

BAN TỔ CHỨC CUỘC THI TRẮC NGHIỆM

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr.614.

[2] C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2004, tr.649.

[3] C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr.652.

[4] C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr 651.

[7] C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr.615.  

[8] C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr.733.

[9] V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1979,  t.7, tr.351-352.

[10] V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ,Matxcơva, 1979, t.8, tr.293.

[11] V.I.Lênin Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1977, t.40, tr.260

[12] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

[13] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

[14] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.309.

[15] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.322.

[16] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.619.

[17] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.620.

[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.301.

[19] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.15, tr.622.

[20] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.6, tr.17.

Video liên quan

Chủ Đề