Con người sống trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải như thế nào

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải là một nội dung quan trọng trong chủ đề của Báo cáo chính trị

[ĐCSVN] - Trên cơ sở nhận thức đầy đủ sâu sắc quan niệm hiện đại, vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ trung tâm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời kỳ phát triển mới của nước ta từ 2020 đến 2045 để đưa nội dung này vào chủ đề của Báo cáo chính trị và trong phần: Tầm nhìn và Định hướng phát triển.

Trong phần: “Quá độlên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độlên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011] viết: Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại hóa, theo định hướng XHCN. Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuê, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:

Ảnh có tính chất minh họa. Nguồn: A.N

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường…Vì sao, trong Cương lĩnh [Bổ sung, phát triển năm 2011], Đảng ta xác định một trong tám phương hướng cơ bản từ 2011 đến 2050, thì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là phương hướng cơ bản quan trọng thứ nhất. Bởi vì, xã hội chủ nghĩa mà dân ta xây dựng có một đặc trưng rất quan trọng là: Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệsản xuất tiến bộphù hợp.

Năm 1996, Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại Đại hội VIII, Đảng ta xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệtổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở đây công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện đại mà Đảng ta xác định là: Quá trình chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghê, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Từ quan niệm trên, Đảng ta xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộphù hợp với trình độphát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội VIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2020 là ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với các tiêu chí chủ yếu sau:

1. Lực lượng sản xuất đạt trình độtương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước. Năng suất lao động xã hội và hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với hiện nay. GDP tăng từ 8-10 lần so với năm 1990. Trong cơ cấu kinh tế tuy nông nghiệp phát triển mạnh song công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội.

2. Khoa học tự nhiên và khoa học công nghệcó khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghê. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển.

3. Về quan hệsản xuất và chế độquản lý và chế độphân phối gắn kết với nhau phát huy được các nguồn lực tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.

4. Về đời sống vật chất và văn hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi để đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệxã hội lành mạnh, có lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc.

Năm nay là năm 2020, theo quyết định của Đại hội VIII, chúng ta phải ra sức phấn đấu để cơ bản trở thành một nước công nghiệp với 4 tiêu chí cơ bản trên. Rất tiếc trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII, trong mục đánh giá chung 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, chưa tập trung tổng kết 30 năm hiện thực hóa đặc trưng cơ bản của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Một phương hướng cơ bản hàng đầu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 4 tiêu chí trên. Tuy nhiên, đánh giá chung về 30 năm thực hiện cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Dự thảo viết: Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độnền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả vật chất và tinh thần được cải thiện rõ.

Bên cạnh những thành tựu trên, Dự thảo báo cáo chính trị nhận định: Chúng ta cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm: Hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng, năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Năng lực trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệmôi trường chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị. Chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững. Môi trường văn hóa xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệnạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng còn lớn. Sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội.

Nhìn tổng thể chúng ta chưa đạt mục tiêu: Đến năm 2020 nước ta chưa cơ bản trở thành nước công nghiệp. Do đó, cần phải tổng kết sâu sắc 25 năm thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ sâu sắc quan niệm hiện đại, vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ trung tâm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời kỳ phát triển mới của nước ta từ 2020 đến 2045 để đưa nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào chủ đề của Báo cáo chính trị và trong phần: Tầm nhìn và Định hướng phát triển.

Trong mục quan điểm chỉ đạo, cần trình bày quan niệm hiện đại của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong mục định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 cần xác định mục tiêu, nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa trong chiến lược kinh tế xã hội 10 năm./.

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó trưởng ban Thường trực, Ban Tư Tưởng –Văn hóa Trung ương

NGUỒN LỰC CON NGƯỜI - YẾU TỐ CƠ BẢN ĐẢM BẢO CHO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG

Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày đăng : 12/05/2021 Xem với cỡ chữ
Bản in

Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Trong các văn kiện các Đại hội của Đảng đã khẳng định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững”. Các quan điểm trên đặt ra cho vấn đề phát triển nguồn lực con người ở nước ta những nhiệm vụ to lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực cơ bản, có tính quyết định đối với việc nâng cao chất lượng con người như: Giáo dục và đào tạo,chăm sóc sức khỏe, dân số và môi trường sống của con người. Phát triển giáo dục và đào tạo - nhiệm vụ chủ yếu để phát triển nguồn lực con người.

Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người.

Nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người. Giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững, vì lợi ích hiện tại và vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Ở nước ta, truyền thống hiếu học, trọng hiền tài, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước. Đến Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về “trồng người” vì “lợi ích trăm năm” của dân tộc đã được Đảng ta nhận thức, quán triệt sâu sắc.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đặc biệt, văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác đinh giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục và đào tạo được coi là con đường cơ bản để phát triển nguồn lực con người, tăng cường năng lực nội sinh để công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công.

Mặt khác, để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc phát triển giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta rất quan tâm đến các vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe, vấn đề dân số và nâng cao chất lượng dân số.... những năm qua đã đem lại những kết quả thiết thực, nâng cao một bước chất lượng dân số nước ta.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực cho người lao động vẫn là vấn đề cấp thiết, vừa cơ bản, vừa lâu dài với hướng ưu tiên và quan tâm hàng đầu là chăm sóc sức khỏe trẻ em. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển toàn diện người lao động, là sự chuẩn bị cần thiết nguồn lực con người cho những bước phát triển tiếp theo. Ngoài ra, cần chú ý các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực khác nhau, đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân, trong đó đầu tư của Nhà nước phải giữ vai trò chính....

Bên cạnh chính sách về y tế, cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số vì đây cũng đang là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của con người. Hiện tỷ lệ tăng dân số ở Việt Nam còn khá cao, có thể dẫn đến làm triệt tiêu những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, làm gay gắt thêm những vấn đề xã hội và là vật cản đối với việc cải thiện chất lượng dân số. Kinh nghiệm cho thấy, những người có mức sống khá và trình độ học vấn cao trong xã hội thường không có nhu cầu sinh nhiều con mà quan tâm nhiều hơn đến chất lượng sống. Vì vậy, trong chính sách dân số cần chú ý kết hợp việc hạn chế số dân với việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số. Mặt khác, cần chú trọng đưa nội dung giáo dục, bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục quốc dân.Cùng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng nhiều mặt đến sự phát triển của con người về thể lực, chiều cao, trí tuệ, tâm sinh lý... Do đó, cần quan tâm xây dựng một cơ chế mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt để phát huy tối đa sức mạnh của trí tuệ, tài năng, phẩm giá con người. Cũng cần nhận thức rõ rằng, sức khỏe của con người không chỉ là thể lực mà còn là sức khỏe tinh thần, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng được một chiến lược tổng thể đảm bảo sự trong sạch của các loại môi trường để con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Từ đó cho thấy, để phát triển nguồn lực con người, toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành cần đặc biệt coi trọng các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống của con người.

Trong điều kiện ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố nội sinh quan trọng nhất quyết định sự phát triển của một đất nước. Hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm chăm lo hơn nữa vấn đề phát triển toàn diện con người, đồng thời phải có những chính sách thể hiện sự quan tâm đặc biệt và khai thác tốt nhất tiềm năng trí tuệ của đội ngũ lao động chất xám để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hải Đăng

Lê Thùy Trang
Lần xem: 49771
Go top

Giá trị văn hóa và giá trị con người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Ngày phát hành: 11/08/2018 Lượt xem 22836

[HĐLL] Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách để định hướng, đánh giá và điều chỉnh hành vi của xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII [2016] của Đảng đã xác định: "Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật" . Việc nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam hiện nay cần phải được đặt trong bối cảnh của tình hình quốc tế và trong nước ở thời kỷ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.


1. Một số nhân tố bên ngoài tác động đến việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam


1.1. Tác động của xu thế công nghiệp hóa và Hậu hiện đại hóa


Nghiên cứu về giá trị văn hóa và giá trị con người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặt vào trong một bối cảnh quốc tế rộng lớn hơn phản ánh quá trình biến đổi của xã hội từ tiền công nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ mở cửa về một phía các nước xã hội chủ nghĩa sang đa phương hóa, đa dạng hóa cá mối quan hệ quốc tế. Ở đây, chúng tôi chỉ nhấn mạnh tới một số nội dung liên quan đến tác động của xu thế hiện đại hóa, của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới định hướng xã hội hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam hiện nay.


Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng về "Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa" do Ronald Inglehart [Giáo sư xã hội học trường Đại học Michigan Mỹ, Giám đốc Dự án điều tra giá trị thế giới, Chủ tịch Hiệp hội điều tra giá trị thế giới] công bố và được GS Phạm Minh Hạc tổ chức dịch và giới thiệu năm 2008 ở Việt Nam] đã để lại nhiều gợi ý hữu ích để chúng ta suy nghĩ về xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.


Nội dung chính của cuốn sách là tập trung bàn về hai giai đoạn phát triển của thế giới gần đây chủ yếu từ góc độ phát triển văn hóa. Theo tác giả cuốn sách này, Hiện đại hóa có nội dung chủ yếu là công nghiệp hóa, là con đường làm giàu, trong đó có đô thị hóa, áp dụng khoa học - công nghệ, phát triển mạnh giáo dục, đẩy mạnh công nghiệp hóa… Nội dung chính của Hiện đại hóa là công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển tất yếu của những quốc gia chậm phát triển và đang phát triển. Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa là thời kỳ tính từ lúc khởi dầu vào đầu thế kỷ XVII, khi chủ nghĩa duy lý bắt đầu thống trị và thực sự đi vào công nghiệp hóa từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Nghiên cứu của ông được tập trung phân tích quá trình vận động từ xã hội Hiện đại sang Hậu hiện đại chủ yếu từ sự phân tích văn hóa. Hậu hiện đại được hiểu là thời kỳ cuối thế kỷ XX, manh nha từ những năm 1960-1970 và rõ rệt là từ 1990, khi cách mạng thông tin điện tử chuyển sang giai đoạn toàn cầu. Theo ông, sự chuyển biến này thể hiện từ những giá trị truyền thống sang những giá trị thế tục - hợp lý, mặt khác từ những giá trị sống còn sang các giá trị hạnh phúc [chất lượng sống, sự tự khẳng định bản thân, bao gồm động cơ thành đạt, an sinh xã hội, tự do, hạnh phúc v.v…]. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng giá trị dân chủ là một xu hướng tất yếu của quá trình Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa.


Nhìn một cách khái quát, Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, nhỏ lẻ dựa trên lao động phổ thông và lao động thủ công là chính sang phát triển nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, dịch vụ tiên tiến, dựa trên nguồn nhân lực được đào tạo và trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Tuy nhiên quá trình Hiện đại hóa này diễn ra trong cùng một lúc với quá trình Hậu hiện đại do tác động của quá trình hội nhập quốc tế đưa lại. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trước hết ở lĩnh vực kinh tế đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam không chỉ chú ý đến tăng trưởng mà còn phải đảm bảo sự phát triển bền vững và bao trùm, tương thích với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thế giới thông qua hàng loạt cá tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, về kỹ thuật công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý sản xuất, phân phối, tiêu dùng v.v… Những giá trị về sự thành đạt, an sinh xã hội, tự do, dân chủ, hạnh phúc không phải chờ chuyển sang mô hình Hậu hiện đại mới xuất hiện mà ngày nay, nó trở thành nhu cầu tất yếu của người dân Việt Nam.


Xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở đây cần được xác định như một hệ giá trị đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của xã hội Việt Nam trong một bước chuyển "kép", vừa đạt được các giá trị của xã hội Hiện đại hóa, vừa bước vào giá trị của xã hội Hậu hiện đại với những bản sắc riêng biệt của dân tộc.


Ronald Lyglehart nhận xét rất đúng rằng: "Có một hội chứng rộng lớn các biến đổi đã gắn liền với quá trình phát triển kinh tế hiện đại. Các biến đổi này bao gồm đô thị hóa, công nghiệp hóa, chuyên môn hóa nghề nghiệp, giáo dục chính quy phổ cập, phát triển truyền thông đại chúng, thế tục hóa, cá nhân hóa, sự xuất hiện các doanh nghiệp và động cơ kinh doanh, quan liêu hóa, dây chuyền lắp ráp sản xuất hàng loạt và sự ra đời nhà nước hiện đại. Cốt lõi vật chất của quá trình này là công nghiệp hóa và mặc dù cách mạng công nghiệp khởi nguồn từ phương Tây, nhưng quá trình này không phải là cái riêng có của phương Tây và không được lẫn lộn với quá trình phương Tây hóa'' .
Sự phát triển văn hóa không phải đi theo con đường đơn tuyến, thẳng tắp theo một công thức nhất định hoạc bị tùy thuộc vào nhân tố tăng trưởng kinh tế mà nó đi theo con đường đa dạng hóa, vừa chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội, vừa chịu sự tác động bửoi quy luật vận động bên trong của chính nó.


1.2. Tác động của toàn cầu hóa


Trong công trình "Thế giới phẳng", thomas L. Friedman đã đưa ra nhận xét khái quát về quá trình toàn cầu hóa các giai đoạn khác nhau từ 1.0 đến 2.0 và 3.0. Kỷ nguyên thứ nhất kéo dài từ năm 1492. Khi Columbus giương buồm, mở ra sự giao thương giữa Thế giới Cũ và Thế giới Mới - cho đến khoảng năm 1800. Toàn cầu hóa thời kỳ [1.0] đã làm thế giới co lại từ kích thước lớn thành kích thước trung bình. "Tác nhân then chốt của sự thay đổi, động lực thúc đẩy quá trình hội nhập toàn cầu là việc quốc gia của bạn sở hữu sức mạnh cơ bắp như thế nào - bao nhiêu sức cơ bắp, bao nhiêu sức ngựa, sức gió hay sức hơi nước và bạn sử dụng sức mạnh trên như thế nào" . Kỷ nguyên thứ hai, Toàn cầu hóa 2.0, kéo dài từ 1800 đến năm 2000. Thời kỳ này làm cho thế giới co lại từ cỡ trung bình xuống cỡ nhỏ. Trong toàn cầu hóa 2.0, tác nhân then chốt của sự thay đổi, động lực thúc đẩy hội nhập toàn cầu là cá công ty đa quốc gia. Kỷ nguyên Toàn cầu hóa 3.0 diễn ra từ khoảng năm 2000 trở lại đây. Toàn cầu hóa làm cho thế giới co lại từ cỡ nhỏ xuống cỡ siêu nhỏ và đồng thời san phẳng sân chơi toàn cầu. Trong khi động lực của Toàn cầu hóa 1.0 là các quốc gia, của Toàn cầu hóa 2.0 là các công ty thì động lực của Toàn cầu hóa 3.0 có tính độc nhất: đó là động lực mới cho phép các cá nhân cộng tác và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. "Hiện tượng các cá nhân và nhóm nhỏ được tạo điều kiện, được tạo quyền và vươn ra toàn cầu một cách dễ dàng và suôn sẻ là hệ thống thế giới phẳng" .


Friedman nhận xét rất đúng rằng: "Trong quá trình làm phẳng và làm thế giới co lại, Toàn cầu hóa 3.0 không chỉ do các cá nhân của các nước phương Tây thúc đẩy mà từ nhiều nước - không phải phương Tây, không phải người da trắng. Các cá nhân từ mọi ngõ ngách của thế giới phẳng đều được trao quyền. Toàn cầu hóa 3.0 tạo điều kiện cho rất nhiều người tham gia và cạnh tranh; và bạn sẽ thấy con người của mọi màu da đều có thể tham gia" .


1.3. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0


Và gần đây, những cuộc hội thảo, những nghiên cứu về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế, các nhà quản lý xã hội và văn hóa. Theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện "Không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tiến triển theo hàm số mũ chứ không phải theo tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết các ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Sự thay đổi cả về chiều rộng và chiều sâu này báo trước sự chuyển đổi toàn bộ hệ thống sản xuất quản lý và quản trị. Đồng thời nó đặt ra cho con người những cơ hội và những thách thức mới trong bối cảnh sôi động của cuộc cách mạng công nghiệp này. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm công nghệ sinh học, kỹ thuật số và vật lý. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, vật liệu v.v… Những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 là: Trí tuệ nhân tạo [AI], Vạn vật kết nối - Internet Of Things [IOT] và dữ liệu lớn [Big data]. Lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và công nghệ nano.


Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra thời cơ và thách thức với quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình xây dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong bói cảnh hội nhập quốc tế . Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số đã nêu sự kết nối ngày càng rộng lớn và nhanh chóng về thông tin trên phạm vi toàn cầu. Các phương tiện truyền thông mới xuất hiện ngày càng mạnh mẽ với nhiều tính năng mới đã mở ra một không gian sống mở đối với một cá nhân, mọi nhóm xã hội, ở bất kể vùng miền nào trên phạm vi toàn cầu.


2. Một số nhân tố bên trong cần chú ý trong việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam


2.1. Đặc điểm dân cư Việt Nam hiện nay


Theo số liệu mới nhất từ Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam là 95.541.936 người vào ngày 1/04/2018, chiếm 1,27% dân số thế giới đứng thứ 14 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Mật độ dân số là 308 người/km2 với tổng diện tích là 310.060km2. Trong đó, 34,70% dân số sống ở thành thị [33.287.512 người vào năm 2016]. Độ tuổi trung bình ở Việt Nam là 31 tuổi.


Tính đến đầu năm 2017, Việt Nam có sự phân bổ các độ tuổi như sau:


- Độ tuổi dưới 15 tuổi: chiếm 25,2%.
- Từ 15 tuổi đến 64 tuổi: chiếm 69,3%.
- Trên 64 tuổi: chiếm 5,5%.


Tỷ lệ dân số phụ thuộc theo độ tuổi ở Việt Nam là 44,0%, trong đó tỷ lệ trẻ em phụ thuộc là 33,1%, tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc là 10,9%.


Tổng tuổi thọ [của hai giới tính] ở Việt Nam là 76,6 tuổi. Theo đánh giá chung, Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với khoảng 63 triệu người trong độ tuổi lao động, tạo nền tảng cơ hội vàng về nguòn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời tỷ lệ nhóm dân số dưới 15 tuổi cũng mang đến cơ hội lớn cho việc tăng nguồn lực đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, nâng cao chất lượng dân số.


Tuy nhiên, theo các chuyên gia về dân số, mặc dù dân số nước ta có độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn nhưng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động mới chiếm khoảng 78,8% dân số [theo điều tra 2015]. Khoảng 70% dân số sống và khoảng 48% lao động đang làm việc ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp. bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15 tuổi đến 24 tuổi chậm được cải thiện, có tới 71,21% thanh niên chưa có việc làm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt 20,2% trên tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế.


Cư dân Việt Nam bao gồm cư dân của 54 dân tộc anh em với sự phân bố không đồng đều giữa các khu vực đô thị, đồng bằng, miền núi và hải đảo, tham gia các tôn giáo khác nhau, có điều kiện kinh tế khác nhau.


Chất lượng dân số nhìn chung còn thấp. Chỉ số phát triển con người [HDI] của Việt Nam tuy có tăng dần trong những năm gần đây nhưng còn thấp… Chỉ số HDI được chấm dựa trên ba tiêu chí: thu nhập bình quân đầu người [tính theo sức mua tương đương] đại diện cho kinh tế, số năm đi học trung bình của người dân, đại diện cho giáo dục và tuổi thọ trung bình, đại diện cho y tế.


Theo công bố của Liên Hiệp Quốc về chỉ số phát triển con người của các nước trong năm 2015.
Xếp hạng chỉ số phát triển con người của các nước ASEAN năm 2015 như sau:

Xếp hạng

Nước

HDI năm 2015

GDP 2015 [USD]

1

Singapore

0,925

52.889

2

Brunei

0,865

30.555

3

Malaysia

0,789

9.768

4

Thái Lan

0,740

5.815

5

Indonesia

0,689

3.347

6

Việt Nam

0,683

2.111

7

Philippin

0,682

2.904

8

Lào

0,586

1.818

9

Campuchia

0,563

1.159

10

Myanmar

0,556

1.162

Mặc dù Việt Nam đã vươn lên vượt Philippin nhưng chỉ số này còn thấp xa so với thái Lan và Malaysia. Điều này cũng đặt ra thách thức lớn đối với việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người ở Việt Nam hiện nay.


2.2. Tác động của quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế


Quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự rập khuôn, sao chép mô hình kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ, kinh tế thị trường xã hội kiểu các nước Bắc Âu, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, phát triển đồng bộ và toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Mô hình công nghiệp hóa ở Việt Nam cũng không phải là công nghiệp hóa kiểu cũ dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên và khai thác sức lao động và dựa trên lao động phổ thông cùng với kỹ thuật công nghệ "thấp và bẩn" là chủ yếu mà phải hướng tới công nghiệp hóa kiểu mới theo hướng sinh thái và nhân văn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người và bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế và sự phát triển kinh tế phải hướng tới phục vụ con người. Đây chính là nền kinh tế nhân văn, kinh tế vì con người. Nền kinh tế này phải được xây dựng trong môi trường xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân dựa trên cơ sở một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa "của dân, do dân, vì dân", một nhà nước kiến tạo, liêm chính, năng động, hiệu quả, đảm bảo vững chắc độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.


Như vậy, định hướng giá trị trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước mắt là tập trung vào tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho xây dựng đất nước. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế ở đây không chỉ vì số lượng mà quan trọng nhất là chất lượng tăng trưởng, sự bền vững của tăng trưởng. Chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng này phải được thể hiện ở chỉ số phát triển con người, lấy sự phát triển con người làm thước đo cho sự phát triển bền vững. như vậy, việc chấp nhận thang đo chung của cộng đồng quốc tế về phát triển bền vững là yêu cầu khách quan đặt ra đối với sự phát triển của Việt Nam.


3. Những yêu cầu của việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước


3.1. Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu xây dựng đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh


Văn hóa Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc, phải tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay phải tham gia vào góp phần định hướng, đánh giá và điều chỉnh hành vi của xã hội trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, là biểu tượng cho sự đoàn kết và gắn kết các tầng lớp, các giai cấp, các tôn giáo, các dân tộc, các thành phần kinh tế - xã hội khác nhau, tạo nên sự đồng thuận dân tộc, thống nhất ý chí và tình cảm của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh chính trị của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước là cơ sở pháp lý gốc để xây dựng các giá trị văn hóa và con người Việt Nam, là nền tảng tư tưởng và pháp lý để xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.


3.2. Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam phải đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế


Hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam được xây dựng xuất phát từ tầm nhìn và mong muốn chủ quan của chủ thể lãnh đạo và quản lý đất nước để góp phần định hướng và định hình cho hoạt động thực tiễn của nhân dân. Các giá trị này đồng thời phải đáp ứng được nhu cầu khách quan của xã hội, được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình và thực hiện. Nếu nó xa rời lợi ích và sự quan tâm của nhân dân thì nó không có sức sống trong thực tiễn. Vì vậy, ý chí của lãnh đạo chính trị phải "hợp lòng dân", tạo được sự đồng thuận của nhân dân để nhân dân đồng tình ủng hộ và thực hành. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam hiện nay phải xuất phát từ tiền đề lịch sử - văn hóa, tiền đề kinh tế xã hội, tiền đề dân trí chung của nhân dân, tránh xu hướng chủ quan duy ý chí, tùy tiện và phi thực tế.


3.3. Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam hiện nay phải chú ý tới vấn đề bảo vệ bản sắc dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại


Hệ giá trị văn hóa và con người vừa thể hiện được bản sắc, bản lĩnh của văn hóa và con người Việt Nam, vừa tiếp thu được các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam hiện nay. Cần khai thác và kế thừa các giá trị tích cực và tiến bộ trong văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống nhân đạo trong lịch sử, đồng thời tiếp thu các giá trị mới tiến bộ của thế giới như tinh thần dân chủ, pháp quyền, khoa học v.v… Trong quá trình hiện đại hóa, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ hiện nay, vấn đề giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Giáo dục ý thức dân tộc, đề cao lòng tự hào, tự cường dân tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng để tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngoài. Giá trị văn hóa truyền thống phải đáp ứng vai trò như một bộ kênh sàng lọc và tiếp nhận các giá trị văn hóa ngoại nhập, khắc phục xu hướng thụ động, tiêu cực trong tiếp nhận giá trị văn hóa.


4. Những giá trị văn hóa cốt lõi cần xây dựng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế


4.1. Những giá trị văn hóa truyền thống cần duy trì, kế thừa và phát huy


Hằng số văn hóa truyền thống Việt Nam trong lịch sử là sự gắn kết giữa Nhà - Làng - Nước. Chuyển sang thời kỳ hiện đại hóa, sự cố kết của mô hình này ngày càng lỏng và nhạt dần do quá trình công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế tác động. Việc duy trì và củng cố mối quan hệ giữa Nhà - Làng - Nước cũng đang được thay đổi diện mạo và hình thức mới đẻ khẳng định truyền thống và bản sắc dân tộc. Sự phê phán đầu óc địa phương chủ nghĩa là đúng nhưng không vì thế mà việc củng cố các giá trị của gia đình, dòng tộc, quê hương trong mối quan hệ chặt chẽ với quốc gia dân tộc hết ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Trong chiến tranh chống xâm lược, vì sự sống còn của gia đình, quê hương, Tổ quốc nên lớp lớp thanh niên đã ra đi chiến đấu để bảo vệ gia đình, quê hương và đất nước. Ngày nay, nhiều người vì danh lợi mà quên mất gia đình, quê hương, Tổ quốc, đến khi phạm tội mới tỉnh ngộ và có gia đình là không chối bỏ họ. Nếu như giáo dục về sự thăng tiến của cá nhân gắn liền với xây dựng danh dự của gia đình, quê hương, đất nước thì chắc chắn rằng xã hội sẽ phát triển lành mạnh và bền vững. Công trình: "Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam" do GS.TS Ngô Đức Thịnh [chủ biên] đã khảo sát 586 người dân tại 7 tỉnh thành trong cả nước để tìm hiểu các giá trị truyền thống được coi là nổi bật ở nước ta cho thấy nổi lên là các giá trị: yêu nước, đoàn kết, cần cù, anh hùng và yêu gia đình, làng xóm . Như vậy, các giá trị phản ánh vấn đề cao gia đình, làng xóm với quê hương, đất nước và sự liên kết giữa các giá trị này vẫn được cộng đồng cư dân chấp nhận và bảo lưu, kế thừa nó trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh các giá trị văn hóa truyền thống này, nền văn hóa Việt Nam hiện nay cần phải bổ sung các giá trị mới của thời kỳ công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Hậu hiện đại. Đó là các giá trị hướng tới đề cao cá nhân, đề cao giáo dục, khoa học và công nghệ, đề cao sự sáng tạo và nhân văn hướng tới tự do, dân chủ và hạnh phúc của con người.


Công trình: "Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai'' do Trần Ngọc Thêm công bố gần đây đã lựa chọn "mười giá trị cấp bách để thành lập hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm để thực hiện trong giai đoạn đến năm 2030. Mười giá trị đó chia thành 5 nhóm là: 1] Dân chủ và pháp quyền [hai giá trị phổ biến]; [2] Nhân ái và yêu nước [là hai giá trị con người truyền thống điển hình]; [3] Trung thực và bản lĩnh [là hai giá trị con người thời hội nhập mà người Việt Nam còn thiếu]; [4] Trách nhiệm và Hợp tác [là hai giá trị con người trong quan hệ với đồng loại mà người Việt Nam còn thiếu]; [5] Tính khoa học và sáng tạo [là hai giá trị con người trong thời đại công nghiệp và kinh tế tri thức mà người Việt Nam còn thiếu] .


Chắc rằng những cuộc thảo luận để tìm ra các giá trị cần xây dựng đối với nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay chưa có hồi kết mặc dù xã hội đang rất cần một hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam có tính chính danh, được tuyên bố làm nền tảng cho sự vươn tới của xã hội. Theo chúng tôi, ở dây cần chú ý một số vấn đề có tính nguyên tắc chung để xác lập hệ giá trị này. Đó là các nguyên tắc sau:

1. Đảm bảo định hướng chính trị.
2. Đảm bảo vừa kế thừa, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu được giá trị tiến bộ của thời đại.
3. Đảm bảo dễ hiểu, dễ nhớ, dễ hành động.
4. Đảm bảo dễ kiểm tra, đánh giá.
5. Đảm bảo thu hút được sự tham gia của toàn dân.
6. Đảm bảo có sự đột phá trong hành động thực tiễn, thiết thực, hiệu quả.


Trong khi xây dựng hệ giá trị có tính phổ quát chung trong toàn xã hội, chúng ta cần chú ý bốn trọng tâm cơ bản là lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, lợi ích gia đình, lợi ích cá nhân… Chúng tôi đề xuất định hướng giá trị phổ quát này như sau:

  • Quốc gia: Giàu mạnh
  • Xã hội: Kỷ cương
  • Gia đình: Hạnh phúc
  • Cá nhân: Thành đạt

Như vậy, trong hệ giá trị chung này, chúng ta vẫn giữ gìn và phát huy được giá trị văn hóa truyền thống: NHÀ - LÀNG - NƯỚC. Và bổ sung thêm một nhân tố mới là sự phát triển cá nhân. Đây là nhu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Giá trị lớn nhất của quốc gia là giàu mạnh. Muốn giàu mạnh được thì phải yêu nước, đoàn kết để xây dựng đất nước.
Giá trị lớn nhất của xã hội hiện nay là kỷ cương: Muốn có kỷ cương thì phải xây dựng nhà nước pháp quyền và thực hành dân chủ xã hội.


Giá trị lớn nhất của gia đình là hạnh phúc. Muốn có hạnh phúc thì người dân phải xây dựng tổ ấm của mình nề nếp, lành mạnh. Giá trị lớn nhất của cá nhân là thăng tiến, thành công trong cuộc sống, kể cả trong việc chung và việc riêng. Muốn có thành công thì phải học tập, lao động, sáng tạo để đạt mục tiêu.


Như vậy, các giá trị văn hóa phổ quát này có thể tạo được sự đồng thuận của nhân dân, phù hợp với mục tiêu phấn đấu được ghi trong Cương lĩnh và Hiến pháp của Đảng và nhà nước, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hành động. Đây là những giá trị mang tính khái quát, tổng hợp chung của đất nước. Còn trong hoạt động thực tiễn, các ngành, các cấp, các lĩnh vực cần xây dựng một hệ thống các giá trị để cụ thể hóa giá trị định hướng tổng quát này. Đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, theo chúng toi nên tập trung vào các mối quan hệ sau để xác định giá trị.


Thứ nhất là quan hệ giữa con người với nhà nước, giá trị nổi bật ở đây là con người công dân, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, đối với cộng đồng, đối với nhà nước, đối với bản thân mình thông qua việc tôn trọng và thực hiện luật pháp. Luật pháp hiện nay là chuẩn mực đạo đức "cứng" của con người, có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với đất nước.


Thứ hai là mối quan hệ giữa con người với công việc. Ở đây đòi hỏi con người phải có sức khỏe, có tri thức và kỹ năng lao động, sáng tạo, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Vì vậy định hướng phát triển con người ở đây là con người sáng tạo hay con người khoa học.


Thứ ba là mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Trong mối quan hệ này, chúng ta đề cao sự tôn trọng con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, phải phấn đấu vì sự phát triển bền vững của con người, đảm bảo quyền con người trong phát triển. Đó là các mối quan hệ nhân văn, nhân ái của con người. Vì vậy định hướng xây dựng con người ở đây là con người nhân văn, con người không phải chỉ phát triển lý trí mà còn phát triển phong phú về tình cảm, sống có lý có tình như Hồ Chí Minh căn dặn.


Vì vậy, theo chúng tôi, cần khái quát định hướng xây dựng con người Việt Nam hiện nay là con người công dân, con người khoa học, con người nhân văn. Những định hướng giá trị này sẽ giúp cho các nhà quản lý và xã hội dễ cụ thể hóa thành các chuẩn mực để thực hành trong xã hội.

PGS.TS Phạm Duy Đức

Video liên quan

Chủ Đề