Đối tượng huy động vốn của ngân hàng

Vốn huy động là gì? Vai trò của vốn huy động và có những phương pháp huy động vốn nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.

Vốn huy động là gì?

Vốn huy động là giá trị tiền tệ do một cá nhân, một tổ chức hay một doanh nghiệp huy động được thông qua các hình thức khác nhau. Mục đích huy động vốn là để doanh nghiệp tăng cường vốn cho những hoạt động đầu tư, kinh doanh của họ.

“Vốn huy động doanh nghiệp là vốn lưu động không có tính cố định.”

Vốn huy động có thể tăng, có thể giảm thông qua các hình thức huy động và giá trị tài sản tương ứng vào thời điểm nhất định và là nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.

Ngày nay khi kinh doanh và các hoạt động đầu tư mở rộng, vốn huy động là khái niệm phổ biến và khá gần gũi với các tổ chức, cá nhân. Ai cũng có thể huy động được vốn và sử dụng vốn huy động để đầu tư kinh doanh. Tất nhiên huy động nhiều hay ít, sử dụng hiệu quả hay không thì còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực huy động và quản lý vốn của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đó.

Vai trò của vốn huy động 
 

Bên cạnh vốn doanh nghiệp tự có thì vốn huy động chính là một trong những điều kiện quyết định sự tồn tại, phát triển và mở rộng của doanh nghiệp. Dưới bất kỳ hình thức là doanh nghiệp hay cá nhân tổ chức nào muốn tiến hành các hoạt động mở rộng kinh doanh, sản xuất, đầu tư thì cần phải có vốn và vốn huy động. Vậy cụ thể, ưu điểm của vốn huy động là gì?

Thứ nhất, vốn huy động ảnh hưởng tới sự phát triển và nâng cao năng lực, mở rộng quy mô phát triển của doanh nghiệp

Hầu hết các doanh nghiệp ngày nay đều sử dụng vốn huy động để đầu tư, kinh doanh, sau thời gian khẳng định năng lực và uy tín. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ vốn và sẵn vốn cố định cho những hoạt động kinh doanh. Vì thế vốn huy động là vô cùng cần thiết và nó quyết định nhiều đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp nào có chiến lược đúng đắn, có uy tín và huy động được nguồn vốn lớn thì khả năng cạnh tranh cũng như mở rộng quy mô phát triển sẽ rất nhanh và ngược lại.

Thứ hai, vốn huy động vừa để doanh nghiệp tăng thêm năng lực cạnh tranh nhưng cũng qua đó thể hiện tiềm lực kinh tế, uy tín của doanh nghiệp. Rõ ràng để huy động được vốn từ bên ngoài, doanh nghiệp phải có uy tín, có đủ niềm tin với đối tượng doanh nghiệp muốn huy động vốn.

Do đó, vốn huy động nhanh, nhiều và kịp thời phản ánh đúng tiềm lực và uy tín của doanh nghiệp. Và khi có vốn huy động thì ngược lại nó lại giúp doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường và nâng cao được uy tín.

Thứ ba, vốn huy động cũng quyết định tới năng lực thanh toán của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tài chính như ngân hàng thương mại. Năng lực này thể hiện ở khả năng chi trả, khả năng giải ngân và khả năng thanh toán của ngân hàng.

Hay nói cách khác, ngân hàng cần một nguồn vốn huy động dồi dào. Khả năng thanh khoản cao giúp đảm bảo uy tín cho ngân hàng, góp phần giúp ngân hàng mở rộng kinh doanh, tiến hành các hoạt động cạnh tranh và nâng cao thanh thế trên thương trường.

Kinh doanh trên nguồn vốn nên ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình bằng cách huy động vốn.

Một số cách huy động vốn của doanh nghiệp

Như đã nói, với bất kể doanh nghiệp nào thì nhu cầu về vốn luôn luôn cấp bách. Vì thế huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm của doanh nghiệp.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều cách để cách có thể huy động vốn. Nhưng có doanh nghiệp huy động vốn nhanh chóng và cũng có doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Vì thế, tùy tình hình cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp hiệu quả nhất.

Vậy các cách để nhanh chón có vốn huy động là gì? Một số cách phổ biến dưới đây được các doanh nghiệp hay áp dụng:

Huy động vốn từ cổ đông

Ban đầu doanh nghiệp sẽ luôn có vốn điều lệ nhất định từ cổ đông. Nhưng khi cần thêm vốn thì chủ doanh nghiệp hay người điều hành hoàn toàn có thể huy động thêm vốn từ chính các cổ đông này trong từng dự án cụ thể. Đây là nguồn vốn không cố định, có thể được hoàn trả sau khi hoàn thành dự án và chia lợi tức.

Huy động vốn từ lợi nhuận không chia

Có rất nhiều công ty giữ lại lợi nhuận chia cho cổ đông và sử dụng phần lợi nhuận đó như một nguồn vốn huy động để tái đầu tư. Đây là một hình thức huy động vốn phổ biến giúp doanh nghiệp luôn có khoản vốn dự trữ để sẵn sàng cho hoạt động kinh doanh và đầu tư mới.

Huy động vốn từ phát hành cổ phiếu
 

Niêm yết trên thị trường chứng khoán là một trong những cách huy động vốn phổ biến hiện nay. Nó giúp doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhờ phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng làm được điều này nhất là khi doanh nghiệp chưa có uy tín hay năng lực cạnh tranh.

Huy động vốn từ tín dụng ngân hàng

Vay ngân hàng bằng cách thế chấp một tài sản nào đó là cách huy động vốn phổ biến với doanh nghiệp hiện nay. Tất nhiên vốn huy động nhiều hay ít phụ thuộc vào năng lực doanh nghiệp và khả năng chi trả của doanh nghiệp. Ngày nay thì các ngân hàng cũng có nhiều chính sách hợp lý giúp doanh nghiệp huy động vốn nhanh nhất từ nguồn vốn này.

Huy động vốn từ tín dụng thương mại
 

Một trong hình thức huy động vốn khác là từ các doanh nghiệp khác như việc mua bán chịu hoặc trả chậm, trả góp… Đây cũng là cách huy động vốn hiệu quả mà bạn hoàn toàn có thể áp dụng.

Một trong doanh nghiệp đặc biệt nhất khi sử dụng vốn huy động và huy động vốn chính là ngân hàng. Ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay vốn huy động nhưng chính ngân hàng cũng là doanh nghiệp luôn phải tìm mọi cách để huy động vốn được nhiều nhất và hiệu quả nhất.

Đầu tiên ngân hàng huy động vốn từ nguồn tiền gửi của khách hàng. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng cho ngân hàng thương mại. Để cạnh tranh với các ngân hàng khác thì ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy động vốn như lãi suất, quyền lợi khác... Bằng cách huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của người dân, tổ chức, doanh nghiệp, ngân hàng luôn có nguồn vốn dồi dào. …

Ngân hàng cũng huy động vốn từ ngân hàng nhà nước hay từ chính ngân hàng khác. Về cơ bản đây là hình thức vay mượn liên ngân hàng. Ngoài ra thì ngân hàng có thể huy động vốn thông qua cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, các nguồn ủy thác hay nguồn khác. Những hình thức này nhằm đảm bảo ngân hàng luôn có nguồn vốn huy động dồi dào, đảm bảo khả năng thanh khoản, giải ngân và tăng uy tín, sự canh tranh với ngân hàng khác.

Hi vọng với những chia sẻ trên, cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp đang cần huy động vốn sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm vốn huy động là gì, vai trò của vốn huy động cũng như các hình thức huy động vốn, từ đó sẽ có kế hoạch quản lý, sử dụng và đầu tư phù hợp với nguồn vốn huy động được.

Nguyễn Lý

Mục lục bài viết

  • 1. Khái quát chung về huy động vốn của ngân hàng
  • 2. Quy mô nguồn vốn
  • 3. Cơ cấu nguồn vốn huy động
  • 4. Chi phí huy động vốn
  • 5. Cân đối giữa huy động và sử dụng vốn

1. Khái quát chung về huy động vốn của ngân hàng

Ngân hàng huy động vốn, dù là dưới bất kỳ hình thức nào hay thực hiện các nghiệp vụ khác đều hướng vào mục tiêu là đem lại hiệu quả cao nhất. Tính hiệu quả của một hoạt động thể hiện ở việc nó mang lại những lợi ích nhất định cho chủ thể thực hiện hoạt động ấy cũng như đối tượng khác có liên quan. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng là hoạt động có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như các vấn đề khác của một quốc gia. Chính vì thế hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng không chỉ được đánh giá trên những kết quả mang lại cho Ngân hàng mà nó còn là một vấn đề xã hội ảnh hưởng đến kinh tế quốc gia. Hoạt động huy động vốn của một ngân hàng thương mại [NHTM] được đánh giá là có hiệu quả khi đảm bảo được:

>>Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến, gọi:1900.6162

Tính quy mô thể hiện ở khối lượng huy động vốn và tốc độ tăng trưởng. Quy mô đó phải phù hợp với khả năng của Ngân hàng, sự tăng trưởng của Ngân hàng và nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế.

Có tính ổn định cao, có thể sử dụng vào các mục đích với các kỳ hạn khác nhau mà không sợ rủi ro thanh toán.

Có chi phí hợp lý, được sử dụng vào các mục đích sinh lời nhằm mang lại lợi nhuận tối đa cho Ngân hàng.

Có tính an toàn cao, thể hiện ở việc huy động vốn và sử dụng vốn hạn chế rủi ro cho Ngân hàng ở mức thấp nhất.

Không chỉ thế, hiệu quả của hoạt động huy động vốn được đánh giá cao còn thông qua tác động của nó đến hoạt động kinh tế trong nước và đối ngoại.

Từ những yêu cầu trên, hiệu quả công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại được đánh giá qua các chỉ tiêu.

2. Quy mô nguồn vốn

Đây là chỉ tiêu đầu tiên khi đánh giá hiệu quả quy mô nguồn vốn bởi quy mô vốn đóng vai trò quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Quy mô của nguồn vốn được đánh giá là hiệu quả và phù hợp phải đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động của Ngân hàng và bảo đảm được lợi nhuận cho Ngân hàng.

Quy mô nguồn vốn quyết định quy mô hoạt động của Ngân hàng, quyết định khả năng thanh toán cũng như năng lực cạnh tranh và uy tín của Ngân hàng. Do đó khi đánh hiệu quả nguồn vốn về mặt quy mô, trước tiên Ngân hàng phải đáp ứng đủ vốn để phục cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của mình, đó là nhu Tín dụng, thanh toán, đầu tư,...Tuy vậy, khi đánh giá hiệu quả nguồn vốn huy động bằng chỉ tiêu quy mô, ngân hàng cần phải quan tâm đến các vấn đề sau:

- Quy mô nguồn vốn phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng.

- Quy mô nguồn vốn phải phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế.

- Quy mô nguồn vốn phải tương ứng với chi phí nguồn vốn huy động.

Để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình Ngân hàng phải bỏ ra rất nhiều chi phí. Càng huy động nhiều, chi phí mà Ngân hàng bỏ ra càng tăng lên, do đó Ngân hàng cần đánh giá khả năng chi trả của mình trước khi quyết định quy mô nguồn vốn sẽ huy động từ tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Từ những tính toán cụ thể Ngân hàng có những quyết định đầu tư phù hợp cho mục đích huy động của mình.

Quy mô nguồn vốn không chỉ cần đáp ứng nhu cầu nguồn vốn hiện tại của Ngân hàng mà còn phải phù hợp với mục tiêu tăng trưởng hoạt động của Ngân hàng trong tương lai. Một tốc độ tăng trưởng hiệu quả không phải là chạy theo số lượng mà phải tương ứng với nhu cầu vón thực tế của nền kinh tế cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu ấy của Ngân hàng.

3. Cơ cấu nguồn vốn huy động

Khi đánh giá về tính hiệu quả của nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại ta cần phải xem xét đến cơ cấu nguồn vốn. Những nội dung cần xem xét là:

* Cơ cấu vốn theo đối tượng huy động

*TGTK của dân cư là hình thức huy động truyền thống của các Ngân hàng, là nguồn lớn nhất trên thị trường tiền tệ nhàn rỗi [thường từ 65-70%] đặc biệt là nguồn tiền gửi trên 12 tháng chiếm tỷ trọng cao bởi chính dân cư mới là chủ thể tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế sản xuất đa dạng, ngoài “của ăn” dân còn tích lũy được “của để” do đó sự biến động của nguồn vốn này có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ hoạt động của Ngân hàng.

*Đối với tiền gửi của các TCKT thì đối tượng chủ yếu là doanh nghiệp kinh doanh thuộc mọi lĩnh vực. Quan hệ giữa Ngân hàng và các TCKT chủ yếu là quan hệ thanh toán qua Ngân hàng và quan hệ vay vốn, như ta đã biết bài toán cơ bản của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng việc gửi tiền vào Ngân hàng không hoàn toàn vì mục đích hưởng lãi bởi cái họ quan tâm là “dịch vụ thanh toán” đồng thời nguồn vốn bao giờ cũng là tiền đề khởi sự, mở rộng kinh doanh nên thiết lập quan hệ giao dịch, quan hệ tiền tệ tín dụng và thanh toán với Ngân hàng là mang tính tất yếu phù hợp với sự phát triển kinh tế của xã hội.

* Cơ cấu kì hạn.

Ngân hàng có thể huy động và cho vay theo các kì hạn khác nhau, mỗi kì hạn có ưu, nhược điểm riêng. Chính vì thế nhiệm vụ của Ngân hàng là tính toán sao cho huy động và sử dụng vốn với kì hạn hợp lý nhằm mục đích lợi nhuận và an toàn. Đặc trưng của các kì hạn được tóm tắt trong bảng sau:

Trong đó huy động ngắn hạn, Ngân hàng chỉ có được nguồn vốn ổn định trong ngắn hạn nhưng chi phí cho khoản huy động ngắn hạn này thấp. Chính vì vậy để đảm bảo an toàn, Ngân hàng dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay ngắn hạn và chỉ sử dụng một tỷ lệ nhất định nguồn vốn này để cho vay dài hạn. Như vậy Ngân hàng sẽ giảm được rủi ro thanh toán và rủi ro lãi suất.

Ngân hàng cần tính toán sự phù hợp giữa kì hạn huy động vốn và kì hạn cho vay nhằm đảm bảo → Tính ổn định của nguồn vốn.

Nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu được huy động từ tiền gửi, đối với TGTK và TGCKH mang tính ổn định cao hơn so với TGKKH, do đó khi nhìn vào cân đối vốn kì hạn của Ngân hàng ta có thể đánh giá được tính ổn định của nguồn vốn. Nếu nguồn vốn có kì hạn trung bình càng dài thì tính ổn định càng cao, khả năng sử dụng vốn vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được mở rộng, không sợ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán.

Tuy nhiên thực tế khi xét đến tính ổn định của nguồn vốn cần chú ý đến vấn đề rút vốn trước hạn, đặc biệt khi khách hàng rút vốn trước hạn với quy mô lớn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sử dụng vốn của Ngân hàng khiến cho Ngân hàng rơi vào thế bị động, đối mặt với những rủi ro trong thanh toán. Việc khách hàng rút vố trước hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời vụ, tâm lý người gửi tiền, nhu cầu sử dụng vốn cấp thiết,…

* Cơ cấu vốn nội, ngoại tệ trên tổng nguồn vốn.

Chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng huy động vốn bằng những đồng tiền khác nhau của Ngân hàng. Đối với những Ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh đối ngoại thì tỷ lệ vốn ngoại tệ/tổng vốn thường cao hơn tỷ lệ vốn nội tệ/ tổng vốn và ngược lại. Tỷ lệ này cao hay thấp tuy thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn cho các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Khi đánh giá chỉ tiêu này cần kết hợp chỉ tiêu cho vay nội, ngoại tệ/tổng cho vay. Đặc biệt Ngân hàng cần quan tâm hơn đến tỷ lệ vốn ngoại tệ/tổng vốn vì nó liên quan đến hiện tượng đôla hóa tiền gửi hay đôla hóa tài sản nợ, một hiện tượng có tác động rất lớn đến NKT cả về mặt tích cực và tiêu cực.

Trong nền kinh tế mở thì mỗi Ngân hàng cần phải duy trì cho mình một tài sản nợ đa tiền tệ vì có lợi thế về:

Khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng hơn so các đối thủ cạnh tranh, từ đó có điều kiện gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho Ngân hàng.

Khả năng phân tán rủi ro theo loại tiền cao. Do tỷ giá có xu hướng biến động theo thời gian, thêm vào đó, tại cùng một thời điểm tỷ giá hay lãi suất của các loại ngoại tệ khác nhau có thể diễn biến trái chiều so với nội tệ. Việc huy động vốn bằng nhiều loại tiền tệ giúp Ngân hàng giảm được rủi ro ngoại hối và rủi ro lãi suất.

4. Chi phí huy động vốn

Chi phí cho huy động vốn bao gồm chi phí lãi và chi phí phi lãi như: chi phí tiền lương cho cán bộ quản lý, nhân viên, chi phí khấu hao nhà cửa, chi phí quảng cáo, thiết lập kênh phân phối, chi phí cho dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán. Trong đó chi phí lãi chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng chi phí vốn. Chi phí lãi được coi là hợp lý khi vừa đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường, vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của Ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, lãi suất huy động được thả nổi cho các ngân hàng thương mại tự quyết định.

Một Ngân hàng được coi là thành công trong huy động vốn với hiệu quả chi phí cao khi nguồn vốn đạt được những yêu cầu cơ bản:

Nguồn vốn của Ngân hàng là nguồn vốn có chi phí thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu sử dụng vốn của NKT về các phương diện quy mô, cơ cấu, thời hạn.

Tăng được lợi nhuận Ngân hàng mà không phải chấp nhận những rủi ro và sức ép về tăng chi phí vốn.

Việc kiểm soát chi phí lãi là rất phức tạp, đôi khi Ngân hàng không thể làm theo ý mình. Trong khi đó Ngân hàng có thể dễ dàng tiết kiệm các chi phí ngoài lãi. Tuy nhiên việc tiết kiệm này cũng phải dựa trên cắt giảm các chi phí bất hợp lý chư không phải là tùy tiện gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ của Ngân hàng. Mức giảm các chi phí này phải phù hợp với quy mô hoạt động của Ngân hàng.

5. Cân đối giữa huy động và sử dụng vốn

Đây là yêu cầu hết sức quan trọng khi xác định quy mô và cơ cấu vốn hợp lý cho Ngân hàng. Song song với việc tìm nguồn huy động vốn Ngân hàng cần tìm nơi đầu tư vốn sao cho có hiệu quả vì nếu huy động vốn về mà không sử dụng sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn, chi phí bỏ ra nhiều mà không không mang lại lợi nhuận, gây lãng phí vốn cho NKT. Ngược lại, khi nhu cầu sử dụng vốn tăng cao mà Ngân hàng không có khả năng thu hút vốn thì sẽ mất đi cơ hội kinh doanh và khả năng tạo lợi nhuận sẽ bị giảm sút, đồng thời uy tín đối với khách hàng cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Sự không cân xứng giữa huy động và sử dụng vốn có thể dẫn đến những rủi ro sau:

* Rủi ro lãi suất.

Đây là thiệt hại mà Ngân hàng phải ghánh chịu khi lãi suất thị trường biến động. Đây là rủi ro mang tính đặc trưng cho bất kì một TGTC nào khi có sự chênh lệch về kì hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Sự không cân xứng về thời hạn giữa tài sản có và tài sản nợ xảy ra thường xuyên trong quá trình hoạt động của các TGTC cùng với sự biến động thường xuyên của lãi suất thị trường làm cho các tổ chức này rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất.

* Rủi ro hối đoái [đối với nguồn vốn ngoại tệ].

Khi ngân hàng thương mại có các hoạt động liên quan đến ngoại tệ sẽ phải chịu loại rủi ro này. Do tỷ giá biến động thường xuyên không dự báo trước được nên rủi ro hối đoái được xem là rủi ro thường trực gắn liền và trở thành rủi ro đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng.

* Rủi ro thanh khoản.

Khi giữa nguồn vốn và sử dụng vốn không có sự phù hợp về kì hạn hay có sự mất cân xứng trong cơ cấu vốn, thì Ngân hàng có nguy cơ phải gánh chịu rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là tình trạng Ngân hàng không có được vốn khả dụng với chi phí thấp vào đúng thời điểm cần. Rủi ro thanh khoản thường phát sinh khi khách hàng có nhu cầu rút tiền ngay lập tức.

Công ty luật Minh Khuê [tổng hợp]

Video liên quan

Chủ Đề