Nguyên nhân cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tống

reffer

1/ - Xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương. - Trong 18 tháng “kết thúc chiến tranh trong danh dự” với một thắng lợi quyết định. 
2/Do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. - Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết dũng cảm trong chiến đấu, lao động, sản xuất.
3/ Ngày 10/10/1954, quân ta tiếp quản Hà Nội.
4/1. Hoàn cảnh lịch sử:

- Giữa lúc cách mạng hai miền Nam – Bắc có những bước tiến quan trọng, miền Bắc thắng lợi trong việc cải tạo và khôi phục kinh tế, cách mạng miền Nam nhảy vọt sau Đồng Khởi.

- Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội.

2. Nội dung:

- Đề ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng cả nước và từng miền:

+ Miền Bắc: cách mạng XHCN có vai trò quyết định nhất.

+ Miền Nam: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có vai trò quyết định trực tiếp.

+ Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó nhau nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

- Thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng.

- Thông qua kế họach 5 năm lần thứ nhất [1961 – 1965] xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

- Bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư. 

3. Ý nghĩa: 

- Đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo.

- Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Là cơ sở để toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà
5/* Giống nhau:

- Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai. 

- Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. 

- Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và cố vấn quân sự Mĩ. 

- Đều bị thất bại.

* Khác nhau:

Đặc điểm

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”

Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”

Âm mưu

 “dùng người Việt đánh người Việt”.

Mĩ giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy ta trở về thế phòng ngự, bị động.

Thủ đoạn và hành động

“Ấp chiến lược” được coi như “xương sống”

Thực hiện chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”

Lực lượng tham gia

Lực lượng chủ lực là quân đội Sài Gòn, có sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mĩ

Quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn. Nhưng chủ yếu là quân đội Mĩ và quân đồng minh.

Địa bàn

[Quy mô]

Miền Nam

Bình định miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Tính chất ác liệt

Không ác liệt bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”

Là hình thức chiến tranh xâm lược cao nhất, là chiến dịch duy nhất mà Mĩ trực tiếp huy động quân viễn chinh sang tham chiến ở chiến trường miền Nam, tăng cường bắn phá miền Bắc

  • Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là cuộc kháng chiến nào?
  • Tìm hiểu diễn biến ba lần kháng chiến chông quân xâm lược Mông Nguyên
  • Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là gì?

Ba lần kháng chiến quân xâm lược Mông Nguyên xâm lược là lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ta dưới thời nhà Trần.

Bài viết ngày hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên qua nội dung dưới đây.

Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là cuộc kháng chiến nào?

Cuộc chiến Mông – Nguyên – Đại – Việt hay cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên [tên gọi ở Việt Nam] là cuộc chiến bảo vệ quê hương đất nước của quân và dân Đại – Việt vào đầu thời Trần dưới thời Trần Thái Tông và các vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên.

Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất [1258] nối với vua Trần Thái Tông. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai [1285], gắn liền với vua Trần Nhân Tông. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba [1288], gắn liền với vua Trần Nhân Tông.

Tìm hiểu diễn biến ba lần kháng chiến chông quân xâm lược Mông Nguyên

Tiếp theo nội dung bài viết nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên, chúng ta cùng xem diễn biến của cuộc kháng chiến này như thế nào nhé.

– Kháng chiến chông quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ nhất

Tháng 1 năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai dẫn 3 vạn quân Mông Cổ tràn sang nước ta. Họ men theo sông Thao tiến về Bạch Hạc [Phú Thọ]. Sau đó đến vùng Bình Lệ Nguyên [Vĩnh Phúc] và bị dừng lại trên đường do vua Trần Thái Tông chỉ huy chặn lại. Trước thế giặc mạnh, vua Trần hạ lệnh rút quân từ kinh thành Thăng Long về Thiên Trường [Hà Nam]. Đồng thời bắt đầu thực hiện kế hoạch đã đề ra là “vườn không nhà trống”.

Tiếp đó, Nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu, Hà Nội. Ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ lập tức rời kinh thành Thăng Long, rút ​​vào trong nước, cũng theo con đường ven sông Hồng. Lần xuất quân đầu tiên của Mông Nguyên kết thúc thắng lợi.

– Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai

Tháng giêng năm 1285, Thoát Hoan đưa 5 vạn quân vào nước ta. Với ưu thế về quân số, quân Nguyên liên tiếp đánh bại quân Việt trên các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật, sông Đuống. Quân ta rút theo sông Hồng về Vạn Kiếp, Thăng Long và cuối cùng là Thiên Trường [Nam Định].

Cùng lúc đó, Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành tiến đánh Nghệ An – Thanh Hóa. Bị ép trước ép sau, vua Trần phải rút quân ra biển Quảng Ninh. Cho đến khi quân Nam Nguyên qua Thanh Hóa. Quân của Thoát Hoan mở cuộc tấn công ở phía nam để tiêu diệt quân ta, nhưng không thành công. Họ phải rút về Thăng Long và tiếp tục thiếu lương thực trầm trọng.

Tháng 5 năm 1285 khi nghĩa quân rút vào Thanh Hóa bị suy yếu, nhà Trần tổ chức phản công. Lần lượt quân Đại Việt đại thắng ở cửa Hàm Tử [Hưng Yên], bến Chương Dương [Hà Nội], giải phóng Thăng Long. Đường rút lui bị đánh phá ở sông Cầu, Vạn Kiếp, Vĩnh Bình, quân nam bị tiêu diệt hoàn toàn ở Tây Kết [Khoái Châu], quân giặc nhiều lần bị giết, số còn lại bỏ chạy về quê. Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan phải về nước và cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ hai toàn thắng.

– Kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ ba

Tháng 12 năm 1287, quân Nguyên lại tấn công Đại Việt. Chia làm ba cánh quân Nguyên xâm lược nước ta từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông bằng đường biển vào Đại Việt.

Vì thiếu lương thực và nguy cơ chia cắt, quân Nguyên bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp. Sau đó chúng chủ động rút lui trước khi quân ta kháng cự. Tuy nhiên, khi chúng rút lui thì bị quân ta phục kích. Quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn ở sông Bạch Đằng khi chúng tìm cách rút lui ra biển.

Các đại đội bộ binh của quân Nguyên đi qua Bắc Giang, Lạng Sơn đều bị quân ta phục kích, tập kích nặng. Kết quả của cuộc Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ ba: địch lại bị thất bại nặng nề.

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là gì?

– Về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên

Thứ nhất: Được sự nhất trí của vua tôi của nhà Trần, được các tầng lớp nhân dân tích cực ủng hộ và tham gia kháng chiến.

Khi quân Mông Cổ chuẩn bị tấn công nước ta theo lệnh của vua Trần, cả nước thu phục vũ khí. Các đội dân quân định cư, ngày đêm luyện tập võ nghệ, sẵn sàng đánh địch, khi địch đánh phá, nhân dân ba lần thực hiện theo chủ trương “vườn không nhà trống”, gây cho địch nhiều khó khăn, khủng bố.

Thứ hai: Sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần, ý chí quyết tâm đánh giặc của toàn quân và dân ta. Điều này đã được thể hiện rất rõ tại hội nghị Diên Hồng. Cha mẹ già quyết tâm “quyết chiến”, binh đao đều khắc hai chữ “ Sát Thát ” trên tay.

Vua tôi nhà Trần quyết tâm đánh giặc. Nhà vua chỉ thẳng tay vào kẻ thù, các triều thần quyết tâm đánh giặc. Trần Thủ Độ nói: “Đầu trời không rơi xuống sàn, xin ông đừng lo”. Trần Quốc Tuấn nói: “Muốn đầu hàng giặc thì chém đầu ta trước rồi hãy đầu hàng”. Các vị vua, danh tướng thời Trần, điển hình là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Thứ ba: Đường lối chiến thuật đúng đắn và sáng tạo.

 Mặc dù quân địch tấn công nước ta bằng nhiều cách khác nhau, nhưng lúc đầu chúng vẫn gây áp lực cho ta. của nhà Trần, cụ thể là Hưng Đạo Vương. Các chính sách và chiến lược đánh địch rất hợp lý. Bằng chứng đáng kể nhất là trận sông Bạch Đằng dẹp giặc.

– Về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên

Đánh tan quân xâm lược Mông Cổ hung hãn, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.

Nâng cao lòng tự hào dân tộc. Khẳng định lại lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc.

Góp phần tô thắm thêm truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của quân đội ta. một bài học vô giá đó là phải biết kiên trì sức dân mới tạo nên sức mạnh bền lâu. Ngăn chặn nhà Nguyên xâm lược các vùng đất khác.

Bài viết trên chúng ta có thể biết được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên. Hy vọng rằng bạn đọc sẽ có thêm nhiều kiến thức về lịch sử dân tộc ta.

Chủ Đề