-
Chồng chài, vợ lưới, con câu,
Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà. -
Ví dù theo lái xuống tàu
Thì em mới biết cá gầu có gai
Con bơn, con nhệch là hai
Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang
Kể rằng cá đuối bơi ngang Cái đuôi có điện ra đàng làm cao Lại tăm con cá đuối saoNước lên cả nước gặp ngay cá ngần
Biển sâu lại có chướng ngầm Cá ăn nó lượn ba lần nó raCá Ông thì ở bể xa
Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên Lần đầu xuống bến xuống thuyền Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông Ví dù em có sang sông Thì em mới biết cá Ông chầu đền Kể từ mặt biển kể lênChim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời
Cá he ngậm nước bao giờ Mà em dám nói đổ ngờ cá heKể cả con cá mòi he
Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vàoKể từ con cá chuồn hoa
Nó nhảy một cái qua ba lần thuyềnKể từ con cá đối đen
Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơiDưới bể có cả đồi mồi
Có con lợn bể nó bơi cả ngày
Kể cả con cá mó tày Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừngKể cả con mực, con nhưng
Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông Con mực nhuộm đục cả luồng Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng Cá mập bơi lội vẫy vùng Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông Kể từ cá mú, cá songCá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai
Cá sông kể cũng rất tàiCá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn
Trở giời nó mới lượn lên Ví dù em ở đồng trên gần nguồn Thì em mới biết nguồn cơnThì em mới biết cá rô, trê đồng
Bây giờ em chưa có chồngLàm gì em biết thuộc lòng cá chim?
-
Em đây chính thực anh hùng
Em đi chắn lưới ở vùng Vạn Hoa
Chắn từ Cái Rồng mà ra
Chắn đến Xà Kẹp chắn qua Bãi Dài
Cái Bàn chắn từ Hòn Hai
Chắn sang Cây Khế, Cái Đài hai hôm
Vụng Đài thấp nước bồn chồn
Cửa Mô sóng vỗ đầu cồn lao xao Rồi ra ta sẽ chèo vàoLò Vôi chốn ấy ta vào chắn chơi
Sau thì ta sẽ nghỉ ngơi Ta chèo vào phố đậu chơi mấy ngày Chắn quanh cái khúc sông này Chỗ nào thấp nước ta nay làm chuồng Em đây ngỏ thực anh tườngĐể anh biết thực mọi đường chắn đăng.
-
Lưới anh đánh ở Cửa Mô
Bằng gộc, bằng gồ, bằng hốc, bằng hang -
Con đi học lấy nghề cha,
Một năm đục đá bằng ba năm cày. -
Ruộng chua mà bón phân lèn
Cũng bằng duyên bạn xe bền duyên tui. -
Khổ chi khổ lắm bớ trời
Chính giữa đòn gánh, hai đầu hai ki -
Gánh phân bón lúa ngày xuân
Khơi mương, thông nước, chân không bén quần. -
Thuyền đăng, thuyền lưới, thuyền câu Biết thuyền ông ngoại đỗ đâu mà tìm Thuyền đăng, thuyền lưới thuyền chài Biết thuyền ông ngoại buông chài nơi nao
Nước lên cho ngập con sào
Cho thuyền ông ngoại chèo vào Vụng Đâng -
Khó dễ em bảo anh rằng
Anh sang làm rể chắn đăng từ rày Những chiều nước cạn ban ngày Dù mà cá đến chạm tay không thèm Những chiều nước cạn bắt đêm Hỏi em bắt đóm hay em mò thầmĐến đây gặp bạn tri âm
Cá gầu em có dám cầm hay không Bây giờ vợ mới gặp chồng Đầu con nước kém chắn không được gìNgồi rồi kể chuyện vân vi
Chờ cho nước sổ anh thì chắn đăng.
CA DAO VỀ LAO ĐỘNG SẢN XUẤT
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần!
*
Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu. Công lênh chẳng quản bao lâu Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng Ai ơi! chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
*
Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trông trời, trông đất, trông mây Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
Ơn trời mưa nắng phải thì là bài ca dao đậm đà nhất trong những bài sáu câu của ca dao, dân ca Việt Nam. Nó là nỗi lòng, tiếng hát của bà con dân cày quê ta. Giọng thơ lúc nghe thầm thì như một lời tâm sự, lúc nhắn gọi ngân vang ngọt ngào, thiết tha:
Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản lâu đâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Ai ơi! đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
Hai câu đầu có ba chữ thì là từ đồng âm dị nghĩa. Chữ thì trong trưa nắng phải thì có nghĩa là thời gian, thời vụ, mưa nắng thuận hoà đúng lúc, đúng thời vụ. Hai chữ thì trong câu ca dao thứ hai là một hệ từ, một liên từ có tác dụng tạo nên âm điệu, nhạc điệu, giọng điệu êm ái nhịp nhàng. Chữ ơn trời thể hiện tấm lòng hồn hậu của người dân quê thầm cảm ơn trời đã cho mưa nắng phải thì, mưa nắng thuận hoà để làm ăn. Họ vui sướng trước cảnh lao động tấp nập, phấn khởi khắp mọi nơi trên cánh đồng. Cảnh bừa cạn ở đồng cao, cảnh cày sâu ở đồng trũng. Chữ nơi điệp lại ba lần đã làm hiện lên trước mắt chúng ta cảnh cày cấy trên đồng quê đang diễn ra đông vui như một ngày hội lao động:
Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Câu ca dao phản ánh những đức tính tốt đẹp của bà con dân cày quê ta: thuần hậu, chất phác, cần cù và lạc quan. Bức tranh sinh hoạt đồng quê đã được nhiều lần nói đến:
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ kéo, con trâu đi bừa.
- Nhờ trời mưa, gió thuận hoà,
Nào cày nào cấy, trẻ già đua nhau
Hai câu 3, 4 tiếp theo nói lên một niềm tin tốt đẹp vào công sức lao động và nhờ trời cho thuận hoà mưa nắng:
Công lênh chẳng quản lâu đâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Công lênh nghĩa là công lao vất vả khó nhọc như cày bừa, cấy hái, tát nước, làm cỏ, bón phân... Dù phải chân lấm tay bùn, trải qua một nắng hai sương, nhưng bà con nông dân chẳng quản lâu đâu. Họ không nề hà nắng mưa vất vả.
Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả, phấp phỏng, lo lắng, hi vọng, đợi chờ, nhưng đối với họ chẳng quản lâu đâu. Câu “Công lênh chẳng quản lâu đâu” cho thấy đức tính chịu khó, kiên nhẫn và tin tưởng của người nông dân trong cày cấy gieo trồng. Trong cảnh mưa nắng phải thì, họ càng tin tưởng hi vọng:
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
Hai vế đối xứng hài hoà như tâm lòng hồn hậu, thuần phác mở rộng ra. Về thời gian là ngày nay và ngày sau nối tiếp, về cảnh vật trên đồng quê là nước bạc ngày nay, cơm vàng mai sau. Câu thứ 4 rất đẹp, rất hay. Đẹp ở hình ảnh, hay ở tư tưởng tình cảm, thể hiện niềm tự hào về công sức lao động đã bỏ ra, tin tưởng được mùa, được sống trong ấm no hạnh phúc. Hạt lúa, hạt gạo là hạt ngọc. Bát cơm dẻo thơm được gọi là cơm vàng. Một cách nói đậm đà, ý vị, đáng yêu của người dân quê!
Hai câu cuối là lời nhắn gọi thiết tha. Đối tượng được nhắn gọi là ai, phiếm chỉ, là tất cả mọi người, là chúng ta. Nhà thơ dân gian hay người đi cấy đi cày nhắn gọi? Mọi lời khuyên nhẹ nhàng chân tình: đừng bỏ ruộng hoang bởi lẽ tấc đất tấc vàng. Có đất là có tất cả. Đất để trồng trọt. Đất cho ta hoa thơm trái ngọt. Đất nuôi sống con người. Hai tiếng bao nhiêu và bấy nhiêu hô, ứng nhau, làm cho ý thơ được tăng cấp, nhấn mạnh. Lời khuyên đừng phí phạm đất, đừng bỏ hoang ruộng đất được diễn đạt theo lối cảm thán và tăng cấp trở nên rung động, thiết tha, thấm thía vô cùng:
Ai ơi! đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
Câu tục ngữ tấc đất tấc vàng đã hoá thân vào bài ca dao gợi mở trong lòng ta bao liên tưởng đẹp, giúp chúng ta càng thêm yêu quý và cảm phục, biết ơn người dân cày Việt Nam.
Vẫn là thể thơ lục bát nhuần nhuyễn có âm điệu nhẹ nhàng, thiết tha. Các câu bát đều có hình ảnh sống động hoặc màu sắc đẹp; câu nào cũng có hai vế tiểu đối hài hoà, nên thơ:
- Nơi thì bừa cạn // nơi thì cày sâu.
- Ngày nay nước bạc // ngày sau cơm vàng.
- Bao nhiêu tấc đất // tấc vàng bấy nhiêu.
Vẫn là nói về cảnh cấy cày, sinh hoạt đồng quê, nhưng bài ca dao đã thể hiện và phản ánh được tấm lòng hồn hậu chất phác, đức tính cần cù chịu khó, tinh thần tự tin và niềm lạc quan yêu đời, tình cảm gắn bó, quý trọng ruộng đất của người nông dân Việt Nam.
Ơn trời mưa nắng phải thì là khúc ca đồng quê chứa chan tình đời và tình người đã lắng sâu trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Loigiaihay.com