Quy định mới về dạy thêm, học thêm 2022

Vào tháng 8-2019, Bộ GD-ĐT đã ban hành Quyết định số 2499/QĐ-BGDĐT về việc công bố hết hiệu lực các điều: 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 của Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16-5-2012 của Bộ trưởng GD-ĐT ban hành quy định về dạy thêm, học thêm.

Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn yêu cầu phải tạm dừng tất cả các hoạt động dạy thêm, học thêm.

Một số sở giáo dục và đào tạo các tỉnh cũng tạm ngưng cấp phép dạy thêm, học thêm trong và ngoài trường học

Đến nay tất cả các giấy phép tổ chức dạy thêm, học thêm được cấp trước đó 1 năm đã hết thời hạn. Tuy nhiên, nhiều cơ sở dạy thêm, học thêm hiện vẫn chưa được cấp phép. Điều này đặt ra cho dư luận nhiều vấn đề tranh cãi.

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức,Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục EdLab Asia [Ảnh: Nhân vật cung cấp]

Xoay quanh vấn đề này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Hoàng Anh Đức, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục EdLab Asia.

Phóng viên: Thưa ông, một số điều trong Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT Bộ GD-ĐT ban hành quy định về dạy thêm, học thêm đã hết hiệu lực. Vậy liệu rằng Thông tư này còn có giá trị pháp lý quy định về việc học thêm, dạy thêm ở thời điểm hiện tại không?

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức: Hoạt động dạy thêm, học thêm là nhu cầu thực tế của phần lớn phụ huynh ở nhiều quốc gia, bao gồm cả các nước phát triển như Mỹ, Anh, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nước đang phát triển như Việt Nam, Indonesia, Malaysia.

Mục đích của các hoạt động học thêm thường có hai loại chính, tuỳ thuộc vào năng lực của học sinh và nhu cầu của phụ huynh, bao gồm bổ trợ những kiến thức bị yếu hoặc học trước các dạng bài tập và luyện đề thi.

Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phân loại hai hình thức "hoạt động dạy thêm, học thêm" trong và ngoài nhà trường.

Theo Luật Đầu tư năm 2014, một số điều [6, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14] của thông thư 17/2012/TT-BGDĐT sẽ tự động hết hiệu lực từ 01/07/2016. Tại thời điểm 2014, "tổ chức hoạt động dạy thêm" là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Quyết định số 2499/QĐ-BGDĐT ngày 26/8/2019 đã công bố hết hiệu lực các điều trên, loại bỏ những quy định về điều kiện liên quan đến hoạt động dạy thêm bên ngoài nhà trường. Trong danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện năm 2019, 2020, cũng không thấy xuất hiện cụ thể thuật ngữ "dạy thêm".

Đồng thời, các điều 1, 2, 3, 4 của Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT vẫn đảm bảo chỉ dẫn rõ phạm vi, quy định về việc dạy thêm, học thêm trong nhà trường.

Khoản 2 điều 7 của Thông tư này vẫn nêu nguyên tắc thu phí với hoạt động dạy thêm ngoài nhà trường.

Điều 15, 16 quy định trách nhiệm của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh và sở Giáo dục và Đào tạo trong việc quản lý, chủ trì, phối hợp các quy định về dạy thêm và học thêm; Điều 17, 18 cũng nêu rõ trách nhiệm của Ủy ban Nhân dân cấp huyện và phòng Giáo dục và Đào tạo trong việc cấp giấy phép.

Về cơ bản, hoạt động quản lý dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường là hoạt động kinh doanh không có điều kiện bắt buộc, thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.

Các hoạt động dạy thêm do nhà trường tổ chức trong phạm vi nhà trường, đảm bảo đúng các yêu cầu theo điều 3 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT vẫn diễn ra bình thường.

Các hoạt động dạy thêm bên ngoài nhà trường, các cấp chính quyền địa phương có thể chủ động trong phạm vi, quyền hạn của mình, thay vì chờ thông tư của Bộ GDĐT.

Phóng viên: Các văn bản pháp luật phải quy định như thế nào để đảm bảo quyền được học thêm của học sinh, phụ huynh trong trường hợp họ có nhu cầu chính đáng, đồng thời cũng ngăn chặn những tiêu cực từ việc dạy thêm, học thêm, ví dụ như việc nhà trường, giáo viên dùng chiêu trò ép học sinh phải học thêm, dạy thêm vì mục đích cá nhân, đưa chương trình chính khóa vào dạy thêm,…?

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức: Cá nhân tôi đánh giá, Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT đã quy định rất rõ để đảm bảo nhu cầu được học thêm chính đáng của học sinh, phụ huynh. Tuy nhiên, có thể do phụ huynh không biết, hoặc ngại có ý kiến đối với trường hợp nhà trường tổ chức sai.

Ví dụ, một số nhà trường tổ chức dạy thêm theo cơ cấu các lớp học chính khoá, giảm nội dung trong chương trình chính khoá để đưa vào chương trình dạy thêm là hoàn toàn trái với khoản 2, 4 điều 3 thông tư 17/2012/TT-BGDĐT.

Đối với việc học thêm bên ngoài nhà trường, đó hoàn toàn là mối quan hệ dân sự giữa phụ huynh và đơn vị tổ chức lớp học. Nhưng để hạn chế tối đa các tiêu cực, Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT cũng đã nêu rất cụ thể "Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó".

Tôi nghĩ việc cần làm là tăng cường công tác truyền thông để cả nhà trường, phụ huynh và học sinh cùng nắm được quy định rõ ràng, thay vì tranh cãi hoặc lo lắng một cách mơ hồ.

Phóng viên: Thưa ông, liệu việc đợi chờ một Thông tư mới để tiến hành cấp phép hay quản lý việc học thêm, dạy thêm có thực sự phù hợp trong khi học thêm với học sinh, phụ huynh vẫn là nhu cầu bức thiết?

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức: Tôi nghĩ không cần thiết phải ban hành Thông tư mới, vì Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT vốn dĩ đã có đầy đủ các nguyên tắc cơ bản nhất để đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của học sinh, phụ huynh có nhu cầu học thêm bên ngoài nhà trường.

Những điều khoản hết hiệu lực đa phần thuộc về điều kiện kinh doanh, vốn không phải là điều cốt lõi mà học sinh, phụ huynh quan tâm khi tìm kiếm các lớp học. Việc hạn chế dạy thêm, học thêm bên ngoài nhà trường tuỳ thuộc vào tình hình từng địa bàn cụ thể, nên do sở Giáo dục và Đào tạo địa phương quyết định.

Phóng viên: Có ý kiến cho rằng, nhiều trường học có sĩ số hơn 50 em/lớp, việc dạy học đảm bảo chất lượng đồng đều cho học sinh là rất khó, những học sinh yếu sẽ có nhu cầu học thêm. Trong những trường hợp như vậy, việc cấm dạy thêm, học thêm là không phù hợp. Ông có thể chia sẻ quan điểm của mình về vấn đề này không ạ?

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức: Chất lượng đồng đều 50 em/lớp đều có học lực như nhau ở tất cả các môn là điều không tưởng và cũng không phải là mục đích của giáo dục.

Mỗi học sinh đều có thể học khá môn này và hơi sao lãng ở một môn học khác. Bản thân sự khác biệt về học lực ấy cũng là cơ hội tốt để các em có thể học hỏi được lẫn nhau, giúp đỡ bạn và giúp đỡ chính bản thân mình.

Đối với nhu cầu bổ túc, không chỉ học sinh yếu, mà cả học sinh khá, giỏi cũng cần được bổ túc để có thể phát triển được tốt hơn.

Các lớp học thêm trong nhà trường có thể tổ chức dưới hình thức câu lạc bộ, học sinh đăng kí tham gia câu lạc bộ và được xếp nhóm tuỳ theo học lực. Cách tổ chức này đem lại tác động giáo dục tốt hơn nhiều so với việc tổ chức lớp học thêm như lớp chính khoá và bắt buộc học sinh tham gia.

Phóng viên: Theo ông, bản chất, mục tiêu của quy định cấm học thêm, dạy thêm là gì? Với mục tiêu đó, giải pháp nào mới thực sự tác động làm thay đổi những vấn đề? Ông có thể đề xuất một số giải pháp cho quy định dạy thêm, học thêm hiện nay được không ạ?

Thạc sĩ Hoàng Anh Đức: Một hệ thống giáo dục quốc dân thường xoay quanh ba trụ cột là Chương trình và sách giáo khoa; Kiểm tra và đánh giá; Hoạt động dạy và học.

Các hoạt động dạy thêm, học hêm hiện nay đa phần vẫn theo hơi hướng "học tủ, luyện lò" để đi thi.

Tuy nhiên, chỉ sau 4 năm nữa, khi Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể 2018 hoàn tất một chu trình đầu tiên, thì lối "học tủ, luyện lò" chắc sẽ không còn được ưa chuộng nữa. Hiện tại, nhiều trường đại học cũng đã có các phương án tuyển sinh không lệ thuộc vào kết quả kì thi Trung học phổ thông Quốc gia.

Sự chuyển mình ở mốc kiểm tra, đánh giá mang tính quan trọng nhất này, phối hợp với quá trình thay đổi chương trình, sẽ tác động đến việc tổ chức dạy và học trong nhà trường phổ thông. Trong dài hạn, bên cạnh sự thay đổi về mặt kỹ thuật trên, mắt xích quan trọng nhất để giảm thiểu các tiêu cực trong dạy và học, có lẽ lại nằm ở bài toán sinh kế, thu nhập dành cho giáo viên.

Trân trọng cảm ơn ông!

Phạm Minh

Quyết định 2499/QĐ-BGDĐT ngày 26/8/2019 ra đời khiến cho nhiều nhà giáo hiểu lầm rằng họ không còn được dạy thêm, tuy nhiên nếu tìm hiểu kỹ thì quyết định này chỉ hạn chế những đối tượng nhất định mà không phải là tất cả trường hợp nhà giáo không được dạy thêm. Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành thì giáo viên vẫn được dạy thêm nhưng có hạn chế theo quy định của luật. Trong quá trình dạy thêm họ vẫn được tính lương theo mức lương làm thêm giờ của một người lao động.

1. Giải thích khái niệm

Dạy thêm, học thêm trong quy định này là hoạt động dạy học phụ thêm có thu tiền của người học, có nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông nhưng ngoài kế hoạch giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

 Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là dạy thêm, học thêm do cơ sở giáo dục công lập [gồm: cơ sở giáo dục phổ thông; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học, sau đây gọi chung là nhà trường] tổ chức.

Dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường là dạy thêm, học thêm không do các cơ sở giáo dục quy định tại khoản 2 điều này tổ chức.

2. Nguyên tắc dạy thêm, học thêm của giáo viên

Căn cứ theo điều 3 Thông tư 17/2012 /TT-BGD quy định về dạy thêm học thêm được quy định như sau:

-Hoạt động dạy thêm, học thêm phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, giáo dục nhân cách của học sinh; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của người học.

-Trong quá trình dạy thêm không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá.

-Đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.

– Không tổ chức lớp dạy thêm, học thêm theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau; khi xếp học sinh vào các lớp dạy thêm, học thêm phải căn cứ vào học lực của học sinh.

-Tổ chức, cá nhân tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm phải chịu trách nhiệm về các nội dung đăng ký và xin phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm.

Xem thêm: Mức hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi dành cho giáo viên trực tiếp giảng dạy

  3. Quy định về  chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường

Căn cứ theo điều 5 Thông tư 17/2012 /TT-BGD quy định về  tổ chức dạy thêm học thêm trong nhà trường được quy định như sau:

-Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ [sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh] có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết.

-Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh.

– Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường.

– Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khoá biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh.

Với giáo viên được phép dạy thêm phải đáp ứng các yêu cầu sau: Đạt trình độ chuẩn được đào tạo đối với từng cấp học theo quy định của Luật Giáo dục;  Có đủ sức khoẻ; Có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân và các quy định của pháp luật; hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại cơ quan công tác;  Không trong thời gian bị kỉ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành án phạt tù, cải tạo không giam giữ, quản chế, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục; không bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc;  Được thủ trưởng cơ quan quản lý hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận các nội dung quy định tại khoản 3, khoản 4 điều này [đối với người dạy thêm ngoài nhà trường]; được thủ trưởng cơ quan quản lý cho phép theo quy định tại điểm b, khoản 4, điều 4 quy định này [đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập].

Như vậy, giáo viên hoàn toàn có quyền được phép dạy thêm trong nhà trường nếu đáp ứng điều kiện và thực hiện theo đúng trình tự được đề ra của Bộ Giáo dục. Còn đối với việc dạy thêm ngoài nhà trường thì giáo viên đó không được tổ chức dạy thêm nhưng vẫn được tham gia dạy chỉ cần không thuộc vào các trường hợp quy định tại Điều 4 Thông tư 17/2012/TT- BGD như sau:

Điều 4. Các trường hợp không được dạy thêm

Xem thêm: Quy định về định mức số tiết dạy của giáo viên trung học cơ sở

1. Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày.

2. Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống.

3. Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông.

4. Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập:

a] Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường;

b] Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.

4. Cách tính lương dạy thêm của giáo viên trong Nhà trường

4.1. Nguyên tắc tính trả tiền lương dạy thêm giờ

Căn cứ vào điều 3 Thông tư liên tịch 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Nội vụ – Bộ Tài chính ban hành

Xem thêm: Quy định về định mức giờ dạy của giáo viên tổng phụ trách đội

Tiền lương của một tháng làm căn cứ tính trả tiền lương dạy thêm giờ của nhà giáo, bao gồm: mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng, các khoản phụ cấp lương và hệ số chênh lệch bảo lưu [nếu có].

 Định mức giờ dạy/năm đối với giáo viên mầm non; định mức tiết dạy/ năm học đối với giáo viên phổ thông; định mức giờ giảng dạy/năm học đối với giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; tiêu chuẩn giờ giảng/năm học đối với giáo viên, giảng viên dạy nghề; định mức giờ chuẩn giảng dạy/năm đối với giảng viên cơ sở giáo dục đại học, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được gọi chung là định mức giờ dạy/năm. Năm học quy định tại Thông tư liên tịch này được tính từ tháng 7 năm trước đến hết tháng 6 của năm liền kề.

Đối với nhà giáo công tác ở các cơ sở giáo dục công lập có nhiều cấp học, trình độ nghề được áp dụng định mức giờ dạy/năm quy định cho cấp học, trình độ nghề cao nhất mà nhà giáo đó trực tiếp tham gia giảng dạy theo sự phân công của người đứng đầu cơ sở giáo dục.

 Việc lập dự toán, thanh toán, quyết toán kinh phí tiền lương dạy thêm giờ thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, căn cứ điều kiện cụ thể của từng đơn vị để thực hiện thanh toán hoặc tạm ứng tiền lương dạy thêm giờ theo tháng hoặc theo học kỳ cho phù hợp.

Chỉ thanh toán tiền lương dạy thêm giờ ở đơn vị hoặc bộ môn thiếu số lượng nhà giáo do cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đơn vị hoặc bộ môn không thiếu nhà giáo thì chỉ được thanh toán tiền lương dạy thêm giờ khi có nhà giáo nghỉ ốm, nghỉ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hoặc đi học tập, bồi dưỡng, tham gia đoàn kiểm tra, thanh tra và tham gia những công việc khác [sau đây gọi chung là đi làm nhiệm vụ khác] do cấp có thẩm quyền phân công, điều động phải bố trí nhà giáo khác dạy thay.

Thời gian không trực tiếp tham gia giảng dạy nhưng được tính hoàn thành đủ số giờ giảng dạy và được tính vào giờ dạy quy đổi, bao gồm: thời gian nghỉ ốm, nghỉ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; thời gian đi làm nhiệm vụ khác do cấp có thẩm quyền phân công, điều động.Số giờ dạy thêm được tính trả tiền lương dạy thêm giờ theo quy định không quá số giờ làm thêm theo quy định của pháp luật.

 4.2. Cách tính tiền lương dạy thêm giờ

Căn cứ vào điều 4 Thông tư liên tịch 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Nội vụ – Bộ Tài chính ban hành

Xem thêm: Chế độ giảm tiết dạy cho giáo viên nuôi con nhỏ dưới 12 tháng

Về Công thức tính tiền lương dạy thêm giờ được tính như sau:

-Tiền lương dạy thêm giờ/năm học = số giờ dạy thêm/năm học x Tiền lương 01 giờ dạy thêm;

-Tiền lương 01 giờ dạy thêm = Tiền lương 01 giờ dạy x 150%;

 -Tiền lương 01 giờ dạy:

+ Đối với giáo viên cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp và giáo viên, giảng viên cơ sở dạy nghề:

Tiền lương 01 giờ dạy

=

Tổng tiền lương của 12 tháng trong năm học

x

Số tuần dành cho giảng dạy [dạy trẻ]

Định mức giờ dạy/năm

52 tuần

Đối với nhà giáo làm công tác quản lý hoặc được phân công làm nhiệm vụ tổng phụ trách Đội, cán bộ Đoàn, Hội ở cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp và cơ sở dạy nghề được tính theo công thức nêu trên, trong đó định mức giờ dạy/năm là định mức giờ dạy/năm của giáo viên cùng bậc học, cấp học, bộ môn của cơ sở giáo dục đó;

– Đối với giảng viên cơ sở giáo dục đại học, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

Tiền lương 01 giờ dạy

=

Tổng tiền lương của 12 tháng trong năm học

x

22,5 tuần

Định mức giờ dạy/năm

52 tuần

Đối với nhà giáo làm công tác quản lý, cán bộ Đoàn, Hội tham gia giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tính theo công thức nêu trên, trong đó định mức giờ dạy/năm là định mức giờ dạy/năm của giảng viên cùng chức danh, bộ môn của cơ sở giáo dục đó;

Xem thêm: Đội trưởng đội phòng cháy chữa cháy hưởng lương như thế nào?

 Số giờ dạy thêm/năm học = [Số giờ dạy thực tế/năm học + Số giờ dạy quy đổi/năm học [nếu có] + Số giờ dạy tính thêm/năm học [nếu có] + Số giờ dạy được giảm theo chế độ/năm học [nếu có]] – [Định mức giờ dạy/năm].

Trong đó:

– Số giờ dạy quy đổi/năm học được thực hiện theo Khoản 3 Điều 5 của Thông tư số 48/2011/TT-BGDĐT; Điều 11 Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT; Khoản 4 Mục II và Khoản 4 Mục III Thông tư số 09/2008/TT-BLĐTBXH; Điều 12 Quyết định số 18/2007/QĐ-BGDĐT; Khoản 2 Điều 11 và Điểm d Khoản 3 Điều 13 Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT; Khoản 3 Khoản 4 Điều 10 và Khoản 2, Khoản 3 Điều 11 Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT;

– Số giờ dạy tính thêm/năm học được áp dụng đối với giáo viên dạy lớp có trẻ khuyết tật học hòa nhập được quy định tại Khoản 3 Điều 4 của Thông tư số 48/2011/TT-BGDĐT;

– Số giờ dạy được giảm theo chế độ/năm học được thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 48/2011/TT-BGDĐT; Điều 8, Điều 9, Điều 10 Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT; Điều 9, Điều 10, Điều 11 Quyết định số 18/2007/QĐ-BGDĐT; Khoản 6 Mục II và Khoản 4 Mục III Thông tư số 09/2008/TT-BLĐTBXH; Khoản 3, Khoản 4 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT;

Định mức giờ dạy/năm được tính theo quy định cụ thể như sau:

– Định mức giờ dạy/năm của giáo viên mầm non = [Số giờ dạy trẻ học 2 buổi/ngày] x [Số ngày làm việc/tuần] x [Số tuần dạy trẻ/năm học];

– Định mức giờ dạy/năm của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cơ sở giáo dục mầm non = [Số giờ trực tiếp tham gia các hoạt động giáo dục/tuần của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng] x [Số tuần dạy trẻ/năm học];

Xem thêm: Chế độ nghỉ hưu, nghỉ hưu trước tuổi dành cho giáo viên mới nhất năm 2022

– Định mức giờ dạy/năm của giáo viên phổ thông; giáo viên giảng dạy trình độ sơ cấp nghề = [Định mức tiết dạy [tiêu chuẩn giờ giảng]/tuần] x [Số tuần dành cho giảng dạy và các hoạt động giáo dục/năm học];

– Định mức giờ dạy/năm của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng; giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh [gọi tắt là Tổng phụ trách]; giáo viên là cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam [gọi tắt là cán bộ Đoàn, Hội] ở cơ sở giáo dục phổ thông = [Định mức tiết dạy/tuần của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng; giáo viên làm Tổng phụ trách; cán bộ Đoàn, Hội] x [Số tuần dành cho giảng dạy và các hoạt động giáo dục/năm học];

– Định mức giờ dạy/năm của cán bộ quản lý cơ sở dạy nghề là tiêu chuẩn giờ giảng tối thiểu quy định tại Điểm b Khoản 3 Mục II và Điểm b Khoản 3 Mục III của Thông tư số 09/2008/TT-BLĐTBXH.

Định mức giờ dạy/năm của cán bộ quản lý trường trung cấp chuyên nghiệp là số giờ giảng dạy quy định tại Khoản 2 Điều 8 của Quyết định số 18/2007/QĐ-BGDĐT;

– Định mức giờ dạy/năm của các đối tượng khác do thủ trưởng đơn vị quyết định cho từng năm học theo các văn bản quy định tại các Điểm a, d, đ, e, f, g, h Khoản 1 Điều 2 của Thông tư Thông tư liên tịch 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC

Video liên quan

Chủ Đề