Sách lược đối ngoại của Đảng trong thời gian từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm 1946 là

Chính trong lúc chính quyền cách mạng non trẻ ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài, khó khăn trăm bề, ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng vai trò tiên phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, để lại những bài học quý cho công tác đối ngoại giai đoạn hiện nay.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước hết sức khó khăn, phức tạp. Các cường quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã bàn cách sắp xếp lại thế giới và phân chia vùng ảnh hưởng. Các nước nhỏ, các dân tộc thuộc địa mới giành được độc lập nhưng tiềm lực kinh tế, quân sự còn rất yếu ớt đã trở thành đối tượng thỏa thuận giữa các nước lớn. Nước Việt Nam bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh-thỏa hiệp này.

Chính trong thời điểm vô vàn khó khăn đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng ngoại giao như một vũ khí sắc bén để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.Từ đó Đảng ta đã kịp thời đề ra quyết sách “hòa để tiến” với Pháp. Triển khai quyết sách ấy, thông qua các biện pháp ngoại giao, Chính phủ ta đã ký kết với Pháp hai văn kiện hết sức quan trọng là Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9. Ta nhân nhượng với Pháp một số điều kiện để kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố và chuẩn bị lực lượng, nhưng không thỏa hiệp các vấn đề nguyên tắc về độc lập và thống nhất quốc gia. “Hòa” với Pháp để dành thời gian, bảo toàn thực lực là biện pháp “biến thời gian thành lực lượng vật chất” phục vụ cho kháng chiến chống Pháp lâu dài sau này. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” chính là tư tưởng, phương pháp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xử lý các vấn đề chiến lược, sách lược. Trong bối cảnh khó khăn của tình hình trong nước và quốc tế, khi thế và lực của ta còn yếu, vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ngoại giao ta đã hết sức linh hoạt, sáng tạo trong xử lý các tình huống, nhờ đó đã phát huy vai trò và tính tiên phong trong bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ.

Phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã hình thành và trở thành nguyên tắc của ngoại giao Việt Nam. Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, Đảng ta cũng đã nhận định: “Tuy chúng ta đã cố gắng nhiều, nhưng mãi đến giờ, đối với Tàu vẫn chưa có kết quả tốt; đối với các nước đồng minh khác, tuy việc ngoại giao có tiến, nhưng cách mạng Việt Nam vẫn chưa giành được một địa vị trên trường quốc tế”[1]. Vì thế, sau khi tuyên bố độc lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến việc đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng, tranh thủ sự công nhận của quốc tế. Đảng xác định “kẻ thù trước mắt của dân tộc ta là phản động Pháp” “mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập. Ý chí của ta lúc này là dân chủ, hòa bình. Là bạn của ta trong giai đoạn này là tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy”[2].

Ngoại giao đã triển khai hàng loạt biện pháp để thực hiện mục tiêu quan trọng đó. Chính phủ đã triệt để khai thác cam kết của các nước Đồng minh nêu ra trong chiến tranh, đặc biệt là quyền độc lập, tự quyết và bình đẳng giữa các dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh người đứng đầu Chính phủ đã tiến hành nhiều giao thiệp ngoại giao qua thư, công hàm… với người đứng đầu Chính phủ các nước lớn như: Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc… thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Khai thác việc chính quyền Oa-sinh-tơn chưa công khai bày tỏ chủ trương rõ ràng, dứt khoát về vấn đề Đông Dương, ủng hộ tư tưởng độc lập, tự trị của các dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện của Mỹ có mặt ở Việt Nam như Phái bộ Mỹ tại Đông Dương, Văn phòng của Cơ quan Tình báo chiến lược [OSS] nhằm tranh thủ những người Mỹ ở Hà Nội hỗ trợ cho việc kiềm chế các tướng lĩnh của Tưởng và thế lực của Pháp... Các hoạt động ngoại giao của Người đã góp phần tranh thủ Mỹ “trung lập”, tạo thuận lợi để hòa hoãn cũng như kiềm chế lực lượng của Tưởng và Pháp ở Việt Nam.

Ngoại giao giai đoạn trước Toàn quốc kháng chiến đã khôn khéo, tận dụng mâu thuẫn nội bộ đối phương, kiềm chế và hòa hoãn với Tưởng, tập trung chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ của Đảng [từ ngày 10 đến 11-9-1945] đã nêu một số chủ trương ngoại giao, thể hiện rõ Đảng ta đã khéo léo trong việc phân loại đối phương và triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa họ, có đối sách phù hợp với từng đối tượng: Đối với Pháp, ta cương quyết chống lại Pháp De Gaulle mưu mô chiếm lại Đông Dương, tranh thủ Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam và “giao hòa với chúng ta”; đối với Tưởng Giới Thạch “nên tránh xung đột quân sự mà chỉ xung đột bằng chính trị”[3]… Chính quyền cách mạng đã sử dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam làm đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế âm mưu của Pháp sớm khôi phục lại sự kiểm soát với Đông Dương.

Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, ngoại giao Việt Nam hết sức vinh dự và cũng vô cùng may mắn khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh, “một nhà ngoại giao lỗi lạc cả về trí tuệ và nhân cách”[4]trực tiếp lãnh đạo, dìu dắt. Không những cùng Trung ương Đảng xem xét, phân tích tình hình và đề ra những chủ trương ngoại giao đúng đắn, Người còn trực tiếp xử lý các vấn đề đối ngoại hết sức khó khăn, phức tạp, có lúc phải chấp nhận cả những hiểm nguy tính mạng khi 20 vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc Việt Nam với mục tiêu “diệt Cộng, cầm Hồ”. Trước một số cuộc xung đột giữa lực lượng Việt Minh và quân đội Tưởng, Người đã đề ra phương châm “dàn xếp sao cho đại sự thì thành tiểu sự và tiểu sự thì thành vô sự”[5].

Tài ngoại giao của Người còn là việc nhìn nhận đúng thời cơ và việc sáng suốt ra những quyết sách kịp thời. Nhờ nhãn quan chính trị và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình, vào thời điểm khi cả Pháp và Tưởng đều cần phía Việt Nam thỏa thuận với Pháp về một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được để tránh cuộc xung đột mở rộng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, kịp thời ký bản Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được với Việt Nam, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế cũng như tương quan lực lượng lúc bấy giờ.

Sau 70 năm kể từ ngày ấy, và nhất là sau 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn trước. Kinh tế liên tục tăng trưởng và gắn kết với kinh tế khu vực và thế giới; chính trị-xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại được triển khai rộng khắp, đa tầng nấc; vị thế và uy tín Việt Nam trong khu vực và quốc tế không ngừng nâng cao... Tuy nhiên, các thách thức đa chiều do tình hình thế giới diễn biến phức tạp đã và đang tác động trực tiếp đến môi trường an ninh-phát triển của nước ta. Trên thế giới và ở khu vực, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ nét, theo đó các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh kiềm chế lẫn nhau ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là thiên tai, khủng bố, an ninh mạng, ngày càng phức tạp hơn.

Đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra các nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội ở khu vực và trên thế giới”[6]. Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện những nhiệm vụ trên, chúng ta có thể vận dụng những bài học kinh nghiệm đối ngoại của giai đoạn 1945-1946 trên một số mặt cụ thể sau:

Thứ nhất,đó là ngoại giao phải luôn xác định, quán triệt nguyên tắc vì lợi ích quốc gia-dân tộc. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta ngày càng xác định rõ nguyên tắc vì lợi ích quốc gia-dân tộc trong hoạt động đối ngoại. Từ Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX, Đảng ta đã nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến Đại hội XI, Đảng ta lần đầu tiên đưa mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng[7]. Trong văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã xác định rõ, mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.Bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân đều phải tuân thủ.

Thứ hai,tiếp tục vận dụng khéo léo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì về nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược và bước đi. Trong quan hệ với các nước đối tác, ta có thể vận dụng nguyên tắc này để nâng cao hiệu quả hợp tác, đưa quan hệ vào chiều sâu và tạo tình thế đan xen lợi ích. Chúng ta kiên trì thực hiện định hướng phát triển quan hệ với từng nước, nhưng không ngừng đổi mới và linh hoạt trong cách triển khai, nhất là với các nước láng giềng như: Lào, Cam-pu-chia, các nước ASEAN, các nước lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.

Thứ ba,vận dụng phương châm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Hiện nay và sắp tới, ngoại giao cần chú trọng tiếp tục tăng cường tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhằm củng cố nội lực, tận dụng mọi cơ hội cho phát triển, phát huy “sức mạnh mềm,” nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với các đối tác trên các kênh đối ngoại Đảng, Nhà nước, nhân dân; trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị-ngoại giao, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ...

Thứ tư,phát huy cao độ tính chủ động, tích cực của ngoại giao Hồ Chí Minh. Chỉ có chủ động, tích cực mới giúp nâng cao vai trò của Việt Nam, có điều kiện thuận lợi để bảo vệ lợi ích của Việt Nam và đương đầu với mọi tình huống cạnh tranh hoặc hợp tác thỏa hiệp giữa các nước lớn. Do đó, ngoại giao cần chủ động, tích cực thực hiện hiệu quả chủ trương đưa quan hệ với các nước vào chiều sâu; tích cực hội nhập quốc tế; chủ động và tích cực đóng góp xây dựng định hình các thể chế đa phương, nhất là trên các diễn đàn ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, ASEM, hợp tác tiểu vùng Mê Công v.v..; từng bước tích cực tham gia đóng góp vào nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với các thách thức chung toàn cầu.

Thứ năm,vận dụng bài học về chú trọng công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo, đồng thời không ngừng bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tập trung vào các nước lớn, láng giềng, khu vực và các vấn đề an ninh phát triển thiết thân đối với Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta cần nắm vững và vận dụng nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong ứng xử ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “ngũ tri” - biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến; “phải nhìn cho rộng, phải suy cho kỹ” để luôn làm chủ tình thế.

Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã lập nên nhiều thành tích vẻ vang. Bối cảnh ngày nay đã khác so với những ngày đầu lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; nhưng những bài học ngoại giao trong giai đoạn lịch sử trước Toàn quốc kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị. 70 năm trước, ngoại giao tuy là một mặt trận “đơn độc” nhưng vẫn rất hiệu quả. Ngày nay, mặt trận ngoại giao đang được hưởng các điều kiện bên trong và bên ngoài rất thuận lợi. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin rằng ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò và sứ mệnh là một trong những mặt trận hàng đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

TSĐẶNG ĐÌNH QUÝ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao

-------------------------------------------

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.427.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.434, 437.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.5, 6.

[4]Phát biểu chỉ đạo củaTổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 [8-2016].

[5]Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, 1993, Tập 3, tr.160, 167.

[6]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.35.

[7]Phạm Bình Minh [chủ biên],Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70, 71.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề