So sánh quan niệm sống nhàn của nbk qua bài thơ Nhàn và của Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh ngày hè

Về chữ nhàn trong hai bài thơ: Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

3,680 từ Phân tích Văn mẫu

Về chữ nhàn trong hai bài thơ: Cảnh ngày hècủa Nguyễn Trãi và Nhàncủa Nguyễn Bỉnh Khiêm

“Nhàn” là một triết lý sống phổ biến được các bậc hiền triết ngày xưa hướng đến. Đó là sự nhàn nhã, thảnh thơi, là không bị vướng bận với những thú vui tầm thường của sự đời. Về chữ nhàn trong hai bài thơ: “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi và “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mỗi tác giả sẽ có những nhìn nhận riêng biệt. Tìm hiểu ngay sự khác biệt đó qua bài văn mẫu dưới đây!

Về chữ nhàn trong hai bài thơ cảnh ngày hè và bài thơ nhàn

Triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thi phẩm “Nhàn”

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện trước hết ở lối sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Chỉ với hai câu thơ đầu, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc phong thái sống bình dị, an nhàn của thi nhân. Việc sử dụng từ láy “thơ thẩn” đã lột tả sự thư thái trong tâm hồn và dần hé lộ quan niệm sống nhàn riêng biệt được thể hiện ở sự giản dị, ung dung, xa lánh cuộc sống tầm thường chỉ vây quanh danh lợi, của cải vật chất.

Lối sống nhàn đó tiếp tục được thể hiện qua cung cách sống, sinh hoạt của ông qua hai câu thơ sau:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Từng mùa trong năm đều được Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nổi bật lên chỉ với những sự vật giản dị, quen thuộc và đặc trưng. Thức ăn của ông cũng bình dị, dân dã đến lạ thường cùng với lối sinh hoạt nhịp nhàng, thư thái: tắm hồ sen, tắm ao. Cuộc sống của ông thật khiêm nhường, đạm bạc nhưng lại chẳng hề tầm thường. Bởi lẽ, ông đã có đủ an nhàn để cứu rỗi mình thoát khỏi vòng xoáy khắc nghiệt của phường danh lợi, để đem tâm hồn đến gần với thiên nhiên, hòa hợp với vạn vật.

Xem thêm:

Bài thơ Nhàn: Nội dung bài thơ, hoàn cảnh sáng tác, dàn ý phân tích tác phẩm

Top 2 cách mở bài Nhàn hay nhất

Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một cách sống đem đến sự tự do, ung dung tự tại, mà nó còn là một ý chí kiên định rời xa phường danh lợi để giữ lấy cốt cách thanh cao:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Hai câu thơ trên sử dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình nhằm thể hiện rõ quan điểm sống của thi nhân. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh lặng, xa lánh sự ồn ào, bon chen để trả lại cho chính mình một tâm hồn thanh thản. Ngược lại, chốn lao xao là nơi mà con người ta có thể bỏ qua nhân tính mà tìm đủ mọi cách để hãm hại nhau, chung quy lại cũng chỉ vì hai chữ danh lợi. Hai câu thơ mở ra hai không gian khác nhau, cũng chính là hai cách sống khác nhau.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Ông uống rượu nào phải để mơ trọn giấc mộng công danh, ông uống vì muốn bản thân mình luôn luôn tỉnh táo. Từ đó, mới có thể nhận ra một chân lý vĩnh hằng, rằng phú quý cũng chỉ như một giấc chiêm bao. Trong cuộc đời mỗi con người, liệu giàu sang phú quý có phải là đích đến cuối cùng, và chúng có mang lại hạnh phúc, an yên cho tâm hồn chúng ta? Hay cái tồn tại mãi mãi với mỗi con người chính là nhân cách, là phẩm chất cao đẹp? Hai câu kết của bài thơ chính là sự khẳng định của tác giả về triết lý sống nhàn. Với ông, sống nhàn là cách sống giữ được nhân cách tốt đẹp, là cơ hội để tu tâm dưỡng tính, là hành trình đem lại sự thảnh thơi, thư thái nơi tâm hồn.

“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm được tác giả thể hiện qua thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Với ngôn ngữ ngắn gọn, hàm súc và giản dị, triết lý sống nhàn của tác giả đã được thể hiện một cách trọn vẹn. Sống nhàn chính là lối sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên, vạn vật, là tránh xa mọi phường danh lợi tầm thường.

Phân tích quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

  • Dàn ý quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 1
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 2
  • Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 3

Dàn ý quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

I. Mở bài

- Giới thuyết về quan niệm sống “nhàn” trong văn học trung đại: Nhàn là triết lí sống, là phạm trù tư tưởng khá phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại có cách thể hiện riêng.

- Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông: Sống thuận theo lẽ tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, cuộc sống bình dị, lánh đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong sạch.

II. Thân bài

1. Nhan đề.

- “Nhàn” có nghĩa là nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây là trạng thái khi con người có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải suy nghĩ.

- “Nhàn: được biểu hiện ở hai phương diện: Nhàn thân – sự rảnh rỗi chân tay, thể xác và nhàn tâm – sự thư thái, thảnh thơi trong tâm hồn.

→ Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn tâm, chứ không phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi [trong bài Cảnh ngày hè] nhàn thân chứ không nhàn tâm.

2. Nhàn là sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền viên

- Những hình ảnh bình dị, thân thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công việc lao động cụ thể của người nông dân quê đào đất, vụ xới, câu cá

- Số từ “một” được lặp lại kết hợp với phép liệt kê: Thể hiện công việc lao động bận rộn, vất vả thường xuyên

→ Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với những công việc nặng nhọc, vất vả lấm láp

- “Thơ thẩn”: Dáng vẻ ung dung, tự tại

- Cụn từ “dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận những thú vui đời thường mà người đời ganh nhau theo đuổi.

→ Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công việc nặng nhọc ấy là thú vui điền viên.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận rộn, cực nhọc nhưng tâm hồn luôn ung dung, tự tại, thư thái.

3. Nhàn là quan niệm sống

- Phép đối: Ta – người, dại – khôn, nơi vắng vẻ - chốn lao xao: Nhấn mạnh quan niệm và triết lí sống của tác giả.

- Phép ẩn dụ:

- Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của một nhân cách thanh cao và cái khôn của những con người vụ lợi

→ Cách nói hóm hỉnh pha chút mỉa mai, vừa để răn mình vừa để dạy đời.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen danh lợi, trở về với cuộc sống thôn dã giản dị, bình yên.

4. Nhàn là sống thuận theo lẽ tự nhiên

- Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ - thu – đông: Gợi về thiên nhiên làng quê Bắc bộ.

- Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong tự nhiên, mùa nào thức đấy

- Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo sự thay đổi của thiên nhiên, sống hòa vào cùng thiên nhiên, thanh cao, giản dị.

- Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng, cùng giọng điệu vui tươi thoải mái: Gợi nhịp sống thong dong, ung dung.

⇒ Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo tự nhiên, hưởng thụ những gì có sẵn trong thiên nhiên, không mưu cầu, bon chen.

5. Triết lí sống nhàn.

- Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra phú quý chỉ là giấc mộng chiêm bao không có thật.

- Động từ “nhìn xem”: Tâm thế ngẩng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm

⇒ Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ là giấc mộng phù du, cái tồn tại duy nhất nhân cách, tâm hồn của con người.

Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng danh lợi mà hãy tìm đến cuộc sống thành thơi, thanh thản.

III. Kết bài

- Khái quát triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Liên hệ, mở rộng: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,..

Nghị luận quan niệm sống nhàn của thế hệ trẻ hôm nay

Đề bài: Từ chữ nhàn trong bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, anh/ chị hãy bàn về quan niệm sống nhàn của thế hệ trẻ hôm nay.

Qua chữ nhàn bàn về quan niệm sống nhàn - Mẫu 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ triết lí - đạo lí của dân tộc. Phần lớn các tác phẩm của ông đều thể hiện những quan niệm sống sâu sắc. “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện những triết lý sống rất giàu tính nhân văn.

Trước hết ta phải hiểu sống “Nhàn” là sống như thế nào? Có thể hiểu sống “nhàn” là sống nhàn nhã, thảnh thơi, không vướng bận. Lối sống “nhàn” ấy đã đi vào thơ văn thời trung đại và trở thành một chủ đề phổ biến. “Nhàn” là một nét tư tưởng văn hóa sâu sắc của người xưa, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Sống “nhàn” hợp với tự nhiên, hợp với nhân cách, có điều kiện dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp nối truyền thống “nhàn”, thể hiện một quan điểm sống đẹp. Trong bài thơ “Nhàn” [Nguyễn Bỉnh Khiêm] đã đưa “nhàn”lên thành một triết lý sống. Vẻ đẹp của quan niệm sống “nhàn” trước hết là sống hòa mình vào với thiên nhiên – nhịp sống con người cần hài hòa với nhịp điệu, thiên nhiên. Hơn thế, sống “nhàn” còn là sống thuận theo tự nhiên, xem thường công danh phú quý, không bị cuốn vào vòng hấp dẫn của tiền tài.

Sống “nhàn” phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh. Đặt trong hoàn cảnh xã hội thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, “nhàn” là một quan niệm sống tích cực. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong giai đoạn chế độ phong kiến đã suy tàn, nhiều tối nát, rối ren. Ông đã có nhiều cố gắng giúp nước, giúp dân nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Tuy về ở ẩn. không làm quan nhưng ông vẫn giúp nước bằng những lời khuyên sáng suốt cho thế lực phong kiến đương thời.

Còn trong bối cảnh xã hội hiện nay, quan niệm sống nhàn vừa có những nét tích cực vừa còn những điểm chưa phù hợp, hạn chế. Trước hết, lối sống “nhàn” có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Chúng ta phải sống hòa mình vào với thiên nhiên. Đặc biệt, khi hiện nay, vấn đề tài nguyên và môi trường đang là vấn đề nóng của toàn cầu. Phần lớn, chúng ta đang xa rời thiên nhiên, coi tài nguyên thiên nhiên là một thứ phương tiện để để kiếm lợi hiệu quả mà không nghĩ tới hậu quả khôn lường phía trước.

Bởi vậy chúng ta hãy cùng sống với thiên nhiên, hòa nhịp điệu của tự nhiên. Có như vậy cuộc sống con người sẽ thật tươi đẹp.

Vẻ đẹp của quan niệm sống “nhàn’ còn là sự không quá coi trọng vật chất. Trong thời buổi kinh tế hiện nay, hầu hết mọi người chỉ chạy theo vấn đề vật chất, chạy theo công danh, đi tìm địa vị trong xã hội mới quên mất rằng giá trị tinh thần còn quan trọng hơn. Đây là vấn đề phổ biến đáng được quan tâm bởi ‘không có gì nguy hại cho nhân loại hơn sự nguy hại chạy theo vật chất mà lãng quên tinh thần” [Nghiêm Thục]. Vì vậy, chúng ta đừng để đồng tiền làm mờ mắt, làm mất đi giá trị đích thực con người. Đồng tiền quả là một thứ phương tiện thiết yếu đối với mỗi con người nhưng không phải có tiền là có tất cả. Như một ý kiến đã khẳng định: “Tiền mua được tất cả trừ hạnh phúc”. Trong cuộc sống, còn có nhiều thứ quan trọng hơn danh lợi, tiền tài nên chúng ta đừng để bị cuốn vào vòng hấp dẫn của nó, đừng để bản thân mình trở thành nô lệ cho phú quý.

Sống “nhàn” phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh còn giúp cho chúng ta giữ được một tâm hồn thanh cao. Tâm hồn chúng ta sẽ cảm thấy thanh thản, thoải mái thì không bị vướng bận vào điều gì.

Bên cạnh đó, cũng cần phê phán những biểu hiện thái quá của lối sống “nhàn”. Đó là một số người luôn thờ ơ trước cuộc sống, không quan tâm đến mọi người xung quanh. Họ có lối sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ cho mình, rồi sống hưởng thụ, không để ý tới người khác, sống an phận. Đặc biệt, trong tình hình đất nước hiện nay khi đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế và vấn đề chủ quyền…. Vậy liệu chúng ta có nên sống an nhàn mà hưởng thụ hay không? Trong hoàn cảnh đất nước đang sóng gió như vậy, hơn bao giờ hết, mỗi người hãy tránh xa lối sống hưởng thụ. Sống “nhàn’ là lối sống tốt, đem lại cho con người nhiều điều tốt đẹp, nhưng sống “nhàn” phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh.

Chúng ta không thể không phê phán một bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống hưởng thụ. Họ chỉ biết ăn chơi, đua đòi rồi bị cuốn vào những thú vui vô bổ mà không hề quan tâm đến gia đình, người thân, bạn bè….. Đó còn là một số thanh niên lơ là, không quan tâm đến những vấn đề của đất nước. Như vậy, họ đang sống một cuộc “Đời thừa”.

Là thế hệ học sinh đang bước vào mùa xuân của cuộc đời, chúng ta hãy nhận thức đúng đắn về quan niệm sống “nhàn”, có thái độ trân trọng với nét tư tưởng văn hóa cổ truyền của cha ông. Để việc học tập có hiệu quả thì chúng ta cũng phải kết hợp với vui chơi, giải trí. Hơn thế, chúng ta phải biết quan tâm tới mọi người xung quanh, tới những vấn đề của xã hội, đất nước.

Sống “nhàn” là nét đẹp văn hóa của dân tộc, bởi vậy chúng ta đặc biệt là lớp trẻ hãy giữ gìn và phát huy nét đẹp đó. Thế hệ thanh niên hãy có những suy nghĩ, nhận thức và thái độ đúng đắn trước lối sống đó để có những việc làm phù hợp, xứng đáng như lời Bác Hồ từng nói: “Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.


1. Quan niệm "nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngắn 1

“Nhàn” là một quan niệm nhân sinh vô cùng sâu sắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lối sống này cốt để giữ cho tâm hồn được thanh cao, không vẩn đục, không tranh giành quyền lực. Sống “nhàn” là cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên đối lập hẳn với cuộc sống quan quyền trong xã hội phong kiến.

2. Quan niệm "nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngắn 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn tản, sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên danh lợi. Quan niệm sống nhàn của vị Trạng Trình ấy được thể hiện qua bài thơ " Nhàn" viết bằng chữ Nôm, rút trong tập "Bạch Vân quốc ngữ thi". " Nhàn" là quan niệm sống, là lời tâm sự về cuộc sống, sở thích cá nhân.

Sau khi dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn như một "lão nông tri điền thực sự". Cuộc sống thuần hậu, nhàn tản diễn ra hàng ngày với:

" Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào".

Nhịp điệu thơ thong thả như chính nhịp sống giữa thôn quê yên bình với "mai", "cuốc", "cần câu". Điệp từ "một" chỉ số đếm cụ thể lần lượt liệt kê ra các danh từ chỉ công cụ lao động bình dị kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế sẵn sàng, chu đáo trong lao động. Từ láy "thơ thẩn" phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần hậu, chất phác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ "ai" nói về mọi người mải lo "vui thú nào" trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những thú vui thiên nhiên, cây cỏ không chút bận lòng với công danh, phú quý ở đời. Tâm trạng thanh thản, an nhàn và thú vui tao nhã, thanh cao với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức ấy.

" Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao".

Cuộc sống đạm bạc từng ngày trôi qua vô cùng thư thái với những món ăn quê mùa, dân dã "măng trúc", "giá" do sức lao động của mình làm ra, cùng với nếp sinh hoạt bình thường, giản dị "tắm hồ sen", " tắm ao". Nghệ thuật liệt kê ở hai câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao với bốn mùa có những đặc trưng riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ tự nhiên, hệt như cách nói của một lão nông thực sự chứ không phải là của một vị từng làm quan. Thú vui thanh nhàn nhưng không làm mất đi vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ sáng ngời.

" Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao".

Dại- khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao mà đi. Ở hai câu thơ này, ta thấy được hai cách sống trái ngược giữa "ta" và "người". So sánh tương phản và biện pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa nhân cách - danh lợi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, theo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, tranh giành. Đi ngược với thói đời thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về "nơi vắng vẻ", nơi không người cầu cạnh và cũng không cần đi cầu cạnh người. Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự thư thái, thảnh thơi của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của nhân cách. Mặc người chọn "chốn lao xao" nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, không có tình người. Cái "dại" của "ta" là cái "dại" của một bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cuộc, sống trọn vẹn từng ngày thanh thản, nhàn nhã theo tự nhiên. Cái "khôn" của "người" là chấp nhận dấn thân vào "chốn lao xao" để tìm lợi ích cho bản thân, u mê giữa thời thế nhưng người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng danh lợi. "Người' nhìn cho "ta" là "dại" nhưng chắc gì "ta dại" và "người khôn"? Vị Trạng Trình của một thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là "dại" nhưng rất tỉnh táo trong lựa chọn cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ trở nên hóm hỉnh, sâu cay nhưng chứa đựng một tầm nhìn sáng suốt, nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhận ra cái khôn-dại thực sự ở đời.

Sống thanh cao và chan hòa với tự nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống ngược lại với người đời, ông đứng bên ngoài nhìn thói đời bon chen, ngươi lừa, ta gạt để tranh giành phú quý. Bài thơ " Nhàn"làm nổi bật nhân cách, trí tuệ sáng ngời, một quan niệm sống phù hợp với hoàn cảnh xã hội có nhiều biểu hiện suy vong thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, nhưng quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hoàn cảnh ấy rất đáng quý, đáng được trân trọng, ngợi ca.

---------------------HẾT-------------------

Trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến các em nội dung 2 bàiQuan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên, để có thêm những hiểu biết về tác phẩm, các em có thể tham khảo thêm:Sơ đồ tư duy bài thơ Nhàn, Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn, Bình giảng bài thơ Nhàn, Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn.

  • Dàn ý quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên
  • Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong bài thơ Nhàn, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ tái hiện lại cuộc sống bình dị nơi thôn dã mà còn thể hiện quan niệm sống Nhàn. Trong bài học hôm nay, các em hãy cùng chúng tôi Phân tích quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên để thấy được cái độc đáo trong quan niệm sống của nhà thơ, qua đó cảm nhận được nhân cách cao đẹp của người cư sĩ.
Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Cái nhàn của người cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Bình giảng bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Dàn ý bình giảng bài thơ Nhàn

Video liên quan

Chủ Đề