Tại sao lại gọi là hồ kẻ gỗ

Lễ khởi công xây dựng hồ Kẻ Gỗ ngày 26-3-1976 - Ảnh tư liệu

Mặc dù lúc đó cuộc chiến tranh chống Mỹ vô cùng khốc liệt. Song quyết định của Chính phủ về xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã tạo nên sự vui mừng khôn xiết, cả tập thể thường vụ khi nghe tin này đã xúc động đến mức không cầm được nước mắt, lòng dạ cứ bâng khuâng sung sướng vô cùng, tưởng như cuộc đời mình trẻ lại hàng chục tuổi

Ông Nguyễn Tiến Chương [nguyên bí thư Hà Tĩnh]

Công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ, với sức chứa 345 triệu mét khối nước, đã thay đổi hoàn toàn đời sống vùng đất Cẩm Xuyên, Thạch Hà và TP Hà Tĩnh.

Hơn nửa thế kỷ đợi chờ, từ tài liệu cũ của người Pháp, đại công trình thủy nông này mới chính thức được khởi công.

Dự án từ thời Pháp thuộc

“Mấy ngày nay trở trời, bác mệt lắm! Nhưng bác sẽ cùng các cháu lên lại thăm hồ. Mấy tháng rồi bác chưa lên đó. Trước đây tháng nào bác cũng lên. Lên đó bác như được trở lại quãng đời trai trẻ đầy ắp kỷ niệm của mình” - ông Đào Văn Tinh, nguyên giám đốc Sở Thủy lợi [Hà Tĩnh], nói trong một ngày mưa rét.

Ông Tinh bảo rằng hồ Kẻ Gỗ không những là kỷ niệm của ông mà là quá khứ hào hùng một thời của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh.

Hồ Kẻ Gỗ được người Pháp thiết kế và chuẩn bị xây dựng vào những năm đầu của thập niên 1930.

Trước đó ở Nghệ Tĩnh nhiều công trình mang đậm dấu ấn của người Pháp như bara Đô Lương ngăn sông Rào Cái, bara Nam Đàn, bara Lệ Thủy, bara Cẩm Trang...

Công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ - Ảnh: Tấn Vũ

Ông Tinh bảo rằng sở dĩ người Pháp quyết tâm làm Kẻ Gỗ vì sự thất bại của bara Cẩm Trang. Khi xây dựng bara Cẩm Trang đã dẫn đến một hệ lụy là hồ chứa này gây ngập nặng trên diện rộng, lợi ích mang lại không như mong muốn nên lòng dân không yên.

“Chỉ vì muốn yên dân nên người Pháp quyết làm Kẻ Gỗ ngay. Họ đã làm 3km kênh mương rồi, nhưng sự việc không thành và đến năm 1939 thì mọi thứ dừng lại do Thế chiến thứ hai nổ ra.

Muốn lấy được lòng dân Cẩm Xuyên, Thạch Hà thì cái cần là cuộc sống được an yên và người dân thấy được lợi ích của mình” - ông Tinh nói.

Theo tài liệu của người Pháp để lại thì ban đầu hồ Kẻ Gỗ chỉ thiết kế với sức chứa 85 triệu mét khối.

“Sau này chúng ta thiết kế lại lên đến 345 triệu mét khối nước, nhưng cho dù 85 triệu mét khối nước mà nếu lúc đó hồ được xây dựng thì người dân Hà Tĩnh đã khấm khá lắm rồi. Ít ra lúa thóc cũng được như người dân vùng Thanh Hóa, Nghệ An...” - ông Tinh tiếc nuối.

Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, câu chuyện hồ Kẻ Gỗ chìm vào quên lãng hơn 10 năm trường cho đến lúc Bác Hồ về thăm quê hương lần thứ nhất vào ngày 15-6-1957.

Trong buổi nói chuyện với người dân Nghệ Tĩnh, thấu hiểu được lòng dân mong chờ, Bác nhấn mạnh: “Phải lục hồ sơ hồ Kẻ Gỗ mà nghiên cứu trước để khi có thời cơ mà xây dựng”.

Trong đoàn đi công tác tại Nghệ Tĩnh cùng Bác lần đó có Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Trần Đăng Khoa. Sau câu nói của Bác, ông Khoa đã thu thập toàn bộ tài liệu về Kẻ Gỗ tại Vinh, Hà Tĩnh và các bảo tàng lưu trữ ở Hà Nội.

Năm 1958, Viện Thiết kế thủy lợi chính thức đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề này.

“Đây là sự tiên đoán rất tài tình. Bác vẫn tôn trọng và kế thừa cái người Pháp có. Tôi nghĩ không có câu này của Bác thì năm 1976 chúng ta vẫn chưa thể khởi công Kẻ Gỗ được” - ông Tinh nói.

Khát vọng ngàn đời

Ông Lê Hồng Sơn, giám đốc Công ty TNHH-MTV Thủy lợi Nam Hà Tĩnh, đơn vị trực tiếp quản lý, vận hành, khai thác hồ Kẻ Gỗ, kể rằng sau giải phóng nguyện vọng thiết thực nhất của người dân Hà Tĩnh là áo cơm.

Hạnh phúc nhất của người nông dân khi cầm cuốc, cầm cày là thửa ruộng của mình có nước.

Một góc hồ Kẻ Gỗ - Ảnh: Tấn Vũ

Năm 1971, trong một lần đi Hà Nội làm việc với trung ương về việc chuẩn bị cho đại hội đảng bộ lần thứ 8, ông Nguyễn Xuân Linh, bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, đã làm việc với Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, hai bên có văn bản thống nhất trình lên Ban bí thư và Hội đồng Chính phủ về việc xây dựng hồ Kẻ Gỗ.

Sau khi Ban bí thư và Hội đồng Chính phủ đồng ý, không lâu sau đó tại kỳ họp Quốc hội khóa V năm 1971, công trình trọng điểm quốc gia này chính thức được biểu quyết nhất trí thông qua.

Công trình được thông qua nhưng nhiệm vụ trước mắt là vô cùng khó khăn, cả nước đang tập trung sức người, sức của cho giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam.

Các cơ sở vật chất kỹ thuật lại thô sơ, trong khi khối lượng công việc rất đồ sộ, nặng nề. Chính quyền Hà Tĩnh cùng Bộ Thủy lợi đã huy động chuyên gia, các cán bộ đầu ngành của Viện thiết kế, Viện nghiên cứu và Trường đại học Thủy lợi tập trung, nghiên cứu, tính toán thiết kế, dự toán.

Tỉnh Hà Tĩnh chuẩn bị giải phóng mặt bằng, huy động lực lượng lao động thủ công, chăm lo hậu cần lương thực, thuốc men cho hàng chục vạn người trong thời gian dự kiến thi công công trình là sáu năm.

Ngay tháng 6-1974, Hà Tĩnh đã thành lập hai công ty xây dựng thủy lợi trên 2.600 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong hành quân vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà để làm công tác cải tạo lòng hồ, khai thác vật liệu xây dựng, làm đường giao thông, kho tàng, bến bãi.

Ông Tinh nhớ lại rằng khi đó chỉ mới bước đầu chuẩn bị nhưng đã có 6.000 nam, nữ thanh niên của tỉnh lao động không kể ngày đêm.

Chỉ trong vòng sáu tháng, hơn 24.000m2 kho tàng, bến bãi, 20km đường giao thông được xây dựng phục vụ cho việc vận chuyển các thiết bị cơ giới.

“Gọi là cơ giới nhưng cũng chỉ có mấy cái xe ủi, máy đào loại nhỏ mà xăng cũng không có để chạy. Rồi tất cả phải dùng sức người. Hàng chục ngàn đôi quang gánh được sản xuất, hàng vạn mét khối đất, đá, cát, sỏi... được giải phóng khỏi lòng hồ. Tất cả chờ ngày quyết định khởi công” - ông Tinh kể lại.

Sáng 26-3-1976, sau tuyên bố khởi công công trình của ông Trương Kiện, chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh lúc bấy giờ, ba quả mìn nổ đanh tai tạo nên cột khói bốc cao hàng chục mét làm tín hiệu.

Hàng vạn công nhân thanh niên hô xung phong lao vào chiếm lĩnh các trận địa là các ngọn đồi, con suối. Họ lao động miệt mài suốt ngày đêm, nếm mật nằm gai gian nan với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ...

Ông Đào Văn Tinh nhớ lại thời đi xây hồ Kẻ Gỗ - Ảnh: Tấn Vũ

Vì sao chính quyền chọn ngày 26-3-1976 để khởi công công trình hồ Kẻ Gỗ? Ông Tinh lý giải đó là ngày thành lập Đoàn thanh niên và chỉ có thanh niên mới làm nổi công việc này.

“Đất nước vừa giải phóng xong, khí thế còn hừng hực, tầng lớp thanh niên còn hăng say lắm nên để cho họ cống hiến tuổi thanh xuân xây dựng quê hương.

Điều thứ hai là tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An vừa sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh [ngày 1-1-1976] nên công trình này là dấu ấn thiết thực để chào mừng sự kiện đó.

Điều thứ ba là cả nước cùng bước vào cuộc chiến chống đói nghèo. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn thời điểm này để khởi công xây hồ Kẻ Gỗ” - ông Tinh nhớ lại.

____________________________

Kỳ tới: Công trình của lòng dân

TẤN VŨ - HỮU KHÁ

Có một địa chỉ du lịch văn hóa tâm linh trên hồ Kẻ Gỗ mà ít người biết đến, đó là đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, trên hòn đảo mang tên Lê Duẩn.

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh cố Tổng Bí thư, chúng tôi lên hồ Kẻ Gỗ thăm đền. Cùng đi với chúng tôi có chị Phan Thị Mỹ Dung, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Cẩm Xuyên và một nhân chứng sống rất quan trọng - bác Đào Văn Tinh, nguyên Giám đốc Sở Thủy lợi Nghệ Tĩnh, nay là Chủ tịch Hội Cựu thanh niên xung phong Hà Tĩnh. Mặc dù rất mệt vì tuổi cao, nhưng ông vẫn vui vẻ nhận lời đi cùng đoàn để cung cấp những tư liệu mà ông biết về quá trình xây hồ Kẻ Gỗ và đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, sinh ngày 7-4-1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong [Quảng Trị]; nhưng quê gốc ở làng Phương Lai, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên [Hà Tĩnh]. Ở làng này còn có Am Tháp và đền thờ Lê Am - chính là liệt tổ của cố Tổng Bí thư, xây dựng cách đây hơn 500 năm. Trên dường đi lên hồ Kẻ Gỗ, ông Đào Văn Tinh hỏi tôi: "Chú có biết ai là người đầu tiên gợi ý về xây hồ Kẻ Gỗ không?".

Thấy chúng tôi tỏ ra không biết, ông Tinh nói: "Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Rồi ông kể: "Thật ra thì từ năm 1932, thực dân Pháp đã cho khảo sát xây dựng hồ Kẻ Gỗ. Hồ có hồ sơ kỹ thuật, từ năm 1934 đến 1936, Pháp tiến hành làm, nhưng sau đó phải dừng lại vì Chiến tranh thế giới thứ hai. Tưởng mọi chuyện quên đi, nhưng ngày 15-6-1957, trong chuyến về thăm Hà Tĩnh, khi nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tỉnh, Bác Hồ đã nhắc nhở Hà Tĩnh cần lục lại và nghiên cứu hồ sơ hồ Kẻ Gỗ để khi nào có thời cơ thì tiến hành xây dựng”.

Kẻ Gỗ vốn là tên của một làng Việt cổ ở xã Cẩm Duệ, nay thuộc xã Cẩm Mỹ, cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh khoảng 20km về phía Nam. Kẻ Gỗ xưa nằm dọc theo hai bờ sông Rào Cái [còn gọi là sông Ngàn Mọ]. Rào Cái là dòng sông hội tụ của hàng nghìn khe suối từ dãy Trường Sơn đổ về. Mùa nắng thì Rào Cái khô hạn, mùa mưa thì nước chảy quá nhanh, quá mạnh, trở thành tai ương cho cả vùng phía Nam Hà Tĩnh. Hôm Bác về thăm còn có ông Trần Đăng Khoa, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Xây dựng thủy lợi và kiến trúc. Ông Khoa giao cho Viện Thủy lợi lục tìm hồ sơ thời Pháp. Sau đó, Tổng Bí thứ Lê Duẩn đã trực tiếp nhiều lần làm việc với tỉnh Nghệ Tĩnh để bàn việc xây hồ.

Khi chúng tôi đến hồ Kẻ Gỗ thì công trình đường và cầu vào khu đền đang gấp rút xây dựng. Để nhân dân thuận lợi khi đến dâng hương, vãn cảnh đền, năm 2016, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã phê duyệt dự án đầu tư công trình với tổng mức 24,9 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách tỉnh 7,5 tỷ, vốn xã hội hóa 14,7 tỷ do Sở Giao thông Vận tải Hà Tĩnh làm chủ đầu tư, đảm bảo thi công chất lượng, thẩm mỹ và hoàn thành đúng kế hoạch kịp khánh thành vào dịp 110 năm Ngày sinh cố Tổng Bí thư.

Bây giờ, trước mắt chúng tôi, hồ nước khổng lồ dài hơn 30km với trữ lượng 350 triệu mét khối tưới gần 17.000ha lúa, màu cho các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thành phố Hà Tĩnh và phía Bắc huyện Kỳ Anh. Để tỏ lòng thành kính và tri ân công lao to lớn của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, được sự thống nhất của gia đình ông, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định đầu tư xây dựng đền thờ cố Tổng Bí thư tại hòn đảo này từ năm 2011, nhân kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh [1831-2011]. Sau 3 năm xây dựng, đền thờ hoàn thành vào ngày 18-1-2014.

Tôi hỏi: “Tại sao hòn đảo này lại được gọi là đảo Lê Duẩn?”, ông Đào Văn Tinh trầm tư một chút, nhớ lại: Hôm Tổng Bí thư về đây đã cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Trương Kiện đi khảo sát trên hồ. Hiện nay, tấm ảnh đen trắng đó còn được trưng bày trong đền thờ cố Tổng bí thư. Chính xác đó là ngày 2-5-1979 mà hồ thì đã hoàn thành trước đó, vào tháng 8-1978. Mấy chiếc thuyền máy rẽ sóng tháp tùng Tổng Bí thư đi một vòng quanh hồ, lúc về đến hòn đảo gần sát bờ thì trời đã trưa. Tổng Bí thư đề nghị được lên thăm đảo. Ông mắc chiếc võng bạt dã chiến của Quân đội nằm nghỉ dưới bóng mát của những tán cây rì rào nắng xanh.

Đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi. Ngày trước, ngọn đồi này cùng nhiều ngọn đồi khác từ bờ ra có thể đi bộ, nhưng khi xả nước hồ Kẻ Gỗ ngập tràn thành biển hồ thì ngọn đồi biến thành hòn đảo nhỏ xinh xắn. Từ trên cao nhìn xuống, ngôi đền giống như một đài hoa bát giác tám cạnh. Từ bờ nước lên đền có một con đường bậc tam cấp được lát bằng những khối đá xứ Thanh màu xám vững chãi. Kiến trúc ngôi đền giản dị, mộc mạc với những hàng cột lim chắc chắn. Trong đền có bức tượng bán thân của cố Tổng Bí thư nặng hơn 1 tấn, bằng đồng. Ở giữa là bàn thờ cố Tổng Bí thư, hai bên là hai bàn thờ các anh hùng liệt sĩ và các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ở đây có nhiều bức ảnh tư liệu quý và hình ảnh những lần Tổng Bí thư về thăm. Phía ngoài ngôi đền còn có cây thiên tuế của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương và cây bồ đề của nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng khi về thăm...

Chúng tôi trở về Cẩm Duệ, được Phan Thị Mỹ Dung, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Cẩm Xuyên, vốn là một cô giáo dạy sử đưa đi thăm Am Tháp đá. Tôi hỏi chị Dung: "Sao người ta gọi đền thờ cố Tổng Bí thư là đền thiêng?". Chị Dung nói: "Thiêng ở đây là tình cảm thiêng liêng trong lòng mỗi người, anh ạ. Những lần về, bao giờ cố Tổng Bí thư cũng dành thời gian trò chuyện với dân làng. Đặc biệt là lần về thăm Am Tháp Cẩm Duệ để bái tổ và thăm cố hương vào ngày 4-4-1979. Còn cổ tháp này thì thiêng thật vì có một kiểu kiến trúc rất đặc biệt với nghệ thuật lắp ghép, gọt, đẽo đá khối xếp chồng khít lên nhau không cần miết vôi vữa keo dính, thế mà hơn 500 năm vẫn uy nghi vững chãi với thời gian".

Chị Dung kể cho chúng tôi truyền thuyết về Am Tháp Cẩm Duệ. Theo truyền phả, họ Lê Cẩm Duệ, vốn từ họ Hồ. Ông tổ là Hồ Tiết Tăng sống ở vùng biển Kỳ La. Sau sự kiện Hồ Quý Ly bị bắt ở núi Thiên Cầm [Kỳ La] và Hồ Hán Thương bị bắt ở núi Cao Vọng [Kỳ Hoa], Hồ Tiết Tăng sợ họ Hồ bị liên lụy nên đổi thành họ Lê và chuyển dời lên vùng đá bạc Kẻ Gỗ sinh được 3 người con là Lê Am, Lê Mậu Tài và một người nữa.

Sau đó, cụ Hồ Tiết Tăng vốn thông thạo địa dư vùng đất này đã hiến kế giúp quân Lê Lợi xây dựng lực lượng nghĩa quân góp sức đánh thắng quân Minh. Vua Lê xét công lao của cụ Hồ Tiết Tăng giúp đỡ nghĩa quân Lam Sơn thưởng nhiều tiền bạc và cho 3 người con trai ra Thăng Long ăn học. Do có công lao, đức độ và phục vụ triều đình nên Lê Am được vua ban đặc ân chọn sinh phần [chọn đất để an táng, khi còn sống]. Lê Am đã dựa vào thuyết phong thủy chọn doi đất cao gần sông Ngàn Mọ - con sông mạch nguồn đã bồi đắp cho cuộc sống dân làng Mỹ Duệ quê hương.

Được vua chuẩn y, cung cấp tiền và ra chiếu dụ cho tổng Mỹ Duệ cùng 14 dòng họ trong xã góp công xây Am Tháp. Am xây sâu 10 thước [4m] theo hình xoắn ốc, bên trên đặt tượng thờ Phật. Toàn bộ ngôi tháp được đúc ghép bằng đá cùng với tượng Phật và voi ngựa đá, đều được tạo tác từ Hải Dương rồi quân lính chở thuyền về đây. Huyệt mộ của Lê Am được táng ở Am Tháp này. Sau đó, họ Lê Mỹ Duệ phát triển thành một dòng họ lớn vào hàng vọng tộc, học hành đỗ đạt, nhiều người giỏi được bổ nhiệm làm quan trong triều đình nhà Lê. Đến thời nhà Mạc, do người họ Lê tên là Lê Mạc, là cựu thần nhà Lê, làm đến chức trung tể, không phụng sự triều Mạc [Mạc Đăng Dung 1527-1529], do đó có sự hiềm khích. Sợ nhà Mạc trả thù, nên ông đã mang gia đình di chuyển vào sinh sống ở làng Bích La Đông [Quảng Trị], đó chính là liệt tổ của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Về Cẩm Duệ, chúng tôi còn được cán bộ xã đưa đến thăm ngôi trường mẫu giáo mang tên Lê Duẩn, được xây dựng với kinh phí hơn 4 tỷ đồng, trong đó, ông Lê Kim Trung - con của cố Tổng Bí thư đóng góp 2 tỷ đồng. Khi chúng tôi đến, các cháu đang ăn trưa. Các em nhỏ lễ phép râm ran chào chúng tôi rồi thích thú chụm đầu vào nhau để được chụp ảnh. Tôi nghĩ: Giá như có một phép nhiệm màu kỳ diệu nào đó, trưa nay cố Tổng Bí thư cũng về đây thì vui biết chừng nào. Một thế hệ tương lai đang được gieo mầm, ươm mầm trên mảnh đất Cẩm Duệ quê ông.

Tôi lại nhớ bức tượng bán thân bằng đồng của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đặt trang trọng trong ngôi đền thiêng trong hồ Kẻ Gỗ. Đôi mắt ông nhìn ra xa nghiêm nghị mà có gì thật gần gũi thân quen. Đôi mắt như chớp chớp với nụ cười khoáng đạt hồn hậu và giọng nói Quảng Trị đặc sệt miền gió Lào cát trắng. Những âm điệu, ngữ điệu ấy là tiếng lòng thân thương chẳng bao giờ quên được.

Nguyễn Ngọc Phú

Video liên quan

Chủ Đề