Dưới đây là danh sách các nhà nước, chính quyền, quốc gia, trong quá khứ và hiện tại, tự tuyên bố trong tên gọi hoặc Hiến pháp là nước Hệ thống xã hội chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Không có tiêu chuẩn nào được đưa ra, vì thế, một vài hoặc tất cả các quốc gia này có thể không hợp với định nghĩa cụ thể nào về chủ nghĩa xã hội. Điểm chung của những nước này là sử dụng tên "xã hội chủ nghĩa" dưới bất kỳ ý nghĩa nào. Có ít định nghĩa về chủ nghĩa xã hội có thể phù hợp với tất cả các nước trong danh sách này. Tuy nhiên hầu hết các định nghĩa về Xã hội chủ nghĩa phù hợp với ít nhất một vài nước ở vào một vài thời điểm trong lịch sử.
Trên 70 năm
60 - 70 năm
50 - 60 năm
40 - 50 năm
30 - 40 năm
20 - 30 năm
Dưới 20 năm
Nhấn vào hình để phóng to.
Có nhiều nước đã từng được điều hành bởi đảng Xã hội chủ nghĩa trong một thời gian dài mà không tiếp nhận chủ nghĩa xã hội như là hệ tư tưởng chính thức trong tên gọi hay hiến pháp. Những nước như vậy không được liệt kê ở đây. Ngược lại, có một số nước vẫn duy trì chủ nghĩa xã hội trong hiến pháp nhưng không được điều hành bởi một đảng xã hội chủ nghĩa. Những nước này cũng bao gồm trong danh sách.
//truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/mot-so-yeu-to-tac-dong-den-su-hinh-thanh-duong-loi-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-mien-bac-1954-1975-191.html //i0.wp.com/truongchinhtri.kontum.gov.vn/uploads/news/2021_05/cn-nha-may-det-o-hn-1967_1.jpg
Trường chính trị tỉnh Kon Tum //truongchinhtri.kontum.gov.vn/uploads/banners/baner-chu-2022.jpg
Từ sau Chiến tranh thế giới II, chủ nghĩa xã hội [CNXH] trở thành một xu thế phát triển trên thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô đứng đầu đã “trở thành một khối thống nhất và hùng mạnh bao gồm 12 nước, với 1.000 triệu dân, tức là hơn một phần ba dân số, chiếm gần một phần tư đất đai toàn thế giới”[1]. Từ năm 1950, Liên Xô đã đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện; trong khoa học-kĩ thuật, Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới sản xuất điện nguyên tử và sau đó phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ ... Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Sự lớn mạnh của Liên Xô về kinh tế và quốc phòng đã làm tăng vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa [XHCN] trên thế giới. Các nước XHCN được sự giúp đỡ của Liên Xô tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, có nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hoà Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trờ thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất theo đầu người. Đồng thời, các nước XHCN Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và bước vào xây dựng CNXH với quy mô lớn. Ở châu Á, năm 1957, Trung Quốc hoàn thành kế hoạch 5 năm [1953-1957] với nhiều kết qủa mới trong phát triển kinh tế-xã hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của mô hình XHCN và cách thức xây dựng CNXH mà Liên Xô cùng các nước phát triển XHCN đi trước thực hiện, là mẫu hình để các nước XHCN đi sau, trong đó có Việt Nam, tin tưởng, học tập. Tháng 11-1957, Hội nghị đại biểu 64 đảng cộng sản và công nhân được tổ chức tại Matxcơva. Hội nghị đã tổng kết công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô, thừa nhận sự đa dạng các hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, khả năng thực hiện cách mạng XHCN bằng con đường hòa bình và giành chính quyền không cần nội chiến. Tuy nhiên, Hội nghị nhấn mạnh cho dù hình thức cải tạo và xây dựng CNXH ở các nước khác nhau nhưng đều tuân theo quy luật chung trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng Liên Xô, đó là: “Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân là Đảng mác-xít đối với quần chúng lao động trong sự tiến hành cuộc cách mạng vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác và trong sự kiến lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác; sự liên minh của giai cấp công nhân với quần chúng cơ bản trong nông dân và các tầng lớp lao động khác; sự thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và kiến lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất cơ bản; sự cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội; sự phát triển nền kinh tế quốc dân một cách có kế hoạch, hướng vào chỗ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nâng cao mức sống của những người lao động, thực hiện cách mạng xã hội trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức đông đảo trung thành với giai cấp công nhân; xóa bỏ sự áp bức dân tộc và xây dựng bình đẳng và tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc; bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội, chống sự phá hoại của kẻ thù bên ngoài và bên trong; sự đoàn kết của giai cấp công nhân nước này với giai cấp công nhân của tất cả các nước khác tức là chủ nghĩa quốc tế vô sản”[2]. Đó chính là những quy luật phổ biến của công cuộc cách mạng XHCN và xây dựng CNXH chung cho các nước. Trong bản Tuyên bố chung của Hội nghị cũng nêu rõ: “Các nước xã hội chủ nghĩa đều tập hợp trong khối liên minh thống nhất vì cùng chung một con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, cùng chung một tính chất giai cấp của chế độ xã hội, kinh tế và chính quyền nhà nước, vì yêu cầu ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, vì sự cùng chung những lợi ích và mục đích trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vì tất cả đều cùng chung nhau một hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin”[3]. Tiếp đó, Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân năm 1960 tiếp tục ra Tuyên ngôn 10 quy luật xây dựng CNXH, trong đó, nhấn mạnh: Nội dung chủ yếu của thời đại là sự quá độ từ CNTB lên CNXH; các đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN coi nghĩa vụ quốc tế của mình là giải quyết trong một thời gian ngắn nhất nhiệm vụ lịch sử là vượt hệ thống CNTB về sản lượng tuyệt đối của công nghiệp và nông nghiệp, vượt tất cả các nước TBCN có nền kinh tế phát triển nhất về sản lượng tính theo đầu người và về mức sống. Hội nghị khẳng định: Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng CNXH và CNCS có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế. Qua mô hình xây dựng CNXH ở Liên Xô và các nước XHCN đi trước cho thấy, mặc dù hình thức cải tạo và xây dựng CNXH ở mỗi nước có khác nhau nhưng đều tuân theo quy luật chung: Thứ nhất, cách mạng do giai cấp công nhân mà đội tiên phong là đảng cộng sản lãnh đạo, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lóp lao động khác. Thứ hai, các nước đều tiến hành xây dựng chế độ sở hữu công cộng đối với phương tiện sản xuất chủ yếu, dưới hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, kế hoạch hóa nền kinh tế. Phương thức tiến hành là công nghiệp hóa và tập thể hóa nông trường quốc doanh và nông trường tập thể. Thứ ba, tiến hành đồng thời cuộc cách mạng trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Như vậy, những nguyên tắc chung về xây dựng CNXH được đề ra tại hai Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, năm 1957 và năm 1960, trở thành kim chỉ nam, vạch đường lối cho cách mạng XHCN ở các nước trong đó có Việt Nam. Đầu năm 1950, sau khi được các nước XHCN công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành thành viên của hệ thống XHCN thế giới. Việt Nam là nước đứng vào hệ thống XHCN muộn hơn, đặc biệt, bắt đầu xây dựng CNXH chỉ trên một nửa đất nước. Từ xuất phát điểm đó, Đảng Lao động Vỉệt Nam đã khẳng định: “Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa là một sự cần thiết không thể thiếu được, là một nhân tố rất quan trọng”[4]. Đồng thời, Đảng Lao động Việt Nam cũng nhận thức rõ: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để nhất... Để giành thắng lợi cho sự nghiệp lớn lao đó, chúng ta phải nắm vững những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải học tập những kinh nghiệp quý báu của các nước anh em, đồng thời phải khéo vận dụng những nguyên lý và kinh nghiệm ấy vào điều kiện cụ thể nước ta, tìm ra những hình thức, phương pháp, bước đi, tốc độ thích hợp với đặc điểm nước ta” [5]. Về việc thực hiện những nguyên tắc chung xây dựng CNXH theo Tuyên bố năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sự phát triển của tình hình thế giới ngày càng chứng tỏ những luận điểm nêu trong Tuyên bố và Bản Tuyên ngôn hòa bình Matxcơva năm 1957 là hoàn toàn đúng đắn”[6].
Tài liệu tham khảo [1], [4], [5], [6], [7], [11], [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, Tập 21, trang 612, 613,528-535, 938,529,531,558-559. [2], [3]. Bùi Công Trừng, Miền Bắc Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, trang 191-192.