Thuyết minh về the loại văn học that ngôn tứ tuyệt

Những câu hỏi liên quan

Trong bộ phận văn học viết Việt Nam thời trung đại [từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX] được học trong chương trình Ngữ văn THCS có những thể loại nào? Ghi lại tên các tác phẩm đã học theo từng thể loại. Ví dụ: truyện có truyện huyền bí, truyện chương hồi,…; thơ có các thể thơ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, song thất lục bát,…

Đề: Em hãy viết một bài văn về thể thơ tám chữ bảy chữ trong văn học Việt Nam.

Trong nền văn học Việt Nam có rất nhiều thể thơ hay và chính những thể thơ này đã làm nên thành công của rất nhiều nhà thơ. Các thể thơ trong kho tàng thơ ca thực sự rất phong phú, đặc biệt là thơ ca trung đại ta đã vay mượn của Trung Quốc. Điển hình trong số đó có thể kể đến thơ khải huyền.

Bài thơ tám câu là loại thơ có tám dòng, mỗi dòng bảy chữ. Như vậy, tổng số từ trong một bài thơ là 56. Chính những quy tắc này đã tạo thành những quy tắc hay quy định của thể thơ.

Từ luật về số đo bằng nhau trong thể thơ. Các thanh bằng bao gồm các từ có dấu và các thanh ngang. Thanh Thanh là từ có các dấu còn lại.

Cách sắp xếp các thanh đều nhau, theo kiểu “Nhất phân nhì, nhị phân, tư phân sáu” và xen kẽ nhau. Nghĩa là nếu tiếng thứ hai bằng nhau thì tiếng thứ tư bằng, tiếng thứ sáu bằng và dòng tiếp theo ngược lại [nếu câu đầu 2 = bằng, 4 = khổ, 6 = bằng thì câu. sau sẽ bằng nhau]. là 2 = đố, 4 = bằng, 6 = đố]. Ví dụ, câu thơ trong bài:

“Canh khuya vang tiếng trống canh góc”

Thanh: B …………. T …………. B ………….

“Sắc mặt hồng nhuận thiếu niên.”

Xem thêm: Đối với câu chuyên đề Tập đọc là một việc làm rất bổ ích vì nó giúp chúng ta hiểu hơn về cuộc sống. Viết một đoạn văn một cách cảm tính – Văn mẫu lớp 8

Thanh: T ………… .B …………. T ………….

[Tự tình 2- Hồ Xuân Hương].

Về quy luật phổ biến của thơ, tám âm tiết có thể được tạo thành theo hai cách phổ biến:

Thất ngôn và bát cú theo Đường luật: Có luật, Niệm, điệu chặt chẽ, bố cục rõ ràng.

Bảy vần theo Cổ Phong: Không theo quy luật rõ ràng, người ta có thể dùng một vần [đơn loon] hoặc một số vần [quãng] nhưng vần phải phù hợp với quy luật âm thanh, có nhịp bằng nhau xen kẽ một vần nọ cho các vần khác. đọc.

Một cách khác là tuân theo luật pháp Hàn Quốc. Những bài thơ thất ngôn bát cú thường được gọi là thơ Hán Luật.

Ví dụ, trong bài thơ tình thứ hai của Hồ Xuân Hương, chúng ta có thể thấy những vần thơ của ông:

“Canh khuya vang lên tiếng trống của lính canh,

Trơ bên hồng có nước non.

Chén hương đưa, vẫn say, tỉnh,

Trăng đã sáng, trăng khuyết chưa tròn.

Trên mặt đất, rêu thành từng đám,

mây vỡ, va vào một số tảng đá.

Chán xuân lại xuân,

Một mảnh tình chia cắt con nhỏ. ”

Ở đây chúng ta thấy từ “không”, “tròn”, “hoon”, “con”. Như vậy ta có thể thấy rằng đối với một bài thơ viết theo thể thơ bảy chữ, tám chữ thường được gieo vần theo thể thơ lục bát.

Về cấu trúc của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ta có bốn phần: đề thực, kết bài. Hai câu thực nêu cảm nghĩ chung về người và cảnh, hai câu thực tả cảnh, vật và tình cụ thể để làm rõ tình cảm thể hiện trong hai câu; hai bài: nghị luận, phát triển cảm nhận, thường nêu ý chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã thể hiện ở trên.

Xem thêm: Mô tả Văn Miếu Quốc Tử Giám

Qua đây chúng ta đã hiểu thế nào là bài thơ lục bát theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, có thể thấy chính những quy tắc và cấu trúc đó đã làm nên vẻ đẹp của những bài thơ làm theo thể thơ lục bát này.

Thất ngôn bát cú là thể thơ thông dụng trong các thể thơ Đường Luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa chuộng. Đây là hình thức lấy câu thơ bảy chữ làm đơn vị nhịp điệu.

Ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thơ bảy chữ cổ phong [ thất ngôn cổ thể], đến đời Đường, thơ thất ngôn bát cú phát triển rầm rộ. Trong quá trình giao lưu hội nhập văn hóa một nghìn năm Bắc thuộc, hình thức thơ này đã du nhập vào Việt Nam, được các nhà thơ cổ điển Việt Nam ưa chuộng, tiêu biểu như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Sau năm 1930, các nhà thơ hiện đại, nhất là các nhà thơ thuộc trào lưu thơ mới đã làm một cuộc cách mạng về thi ca, phá bỏ những hình thức niêm luật cứng nhắc của thơ cũ nhưng thể thơ thất ngôn bát cú vẫn được sử dụng. Tuy nhiên ngoài một số ít tác phẩm được viết theo thể thất ngôn bát cú, thơ bảy chữ hiện đại đã có sự thay đổi: gồm nhiều thể thơ nối tiếp nhau, cách gieo vần, niêm luật linh hoạt hơn, hình thức này đã tạo ra những tác phẩm dài hơi, tiêu biểu là bản trường ca "Theo chân Bác" của nhà thơ Tố Hữu.

Thể thơ thất ngôn bát cú có bố cục bốn phần, mỗi phần ứng với hai câu đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể. Hai câu đề giới thiệu về thời gian, ko gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao. Ở một số trường hợp, phần thực và luận có chung nhiệm vụ vừa tả thực vừa luận, ví dụ như hai câu thực và luận trong bài "Qua đèo Ngang" của BHTQ:

"Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà."

"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"

Luật bằng trắc là 1 trong những yếu tố quan trọng tạo nên nhịp điệu thơ bảy chữ, nó còn gọi là luật về sự phối thanh giữa các tiếng trong từng câu và các câu trong từng khổ, từng bài. Thanh bằng là thanh huyền và thanh ngang, thanh trắc là thanh hỏi, sắc, ngã, nặng. Trong mỗi câu thơ, sự phát thanh được quy định khá chặt chẽ theo quan điểm "Nhất tam ngũ bất luận"[ Các tiếng 1, 3, 5 không xét tới] và "Nhị tứ lục phân minh"[ Các tiếng 2, 4, 6 quy định rõ ràng]. Quan hệ bằng trắc giữa các câu cũng được quy định chặt chẽ. Nếu dòng trên là bằng mà ứng với dòng dưới là trắc thì gọi là đối, ứng với dòng dưới cũng là bằng hoặc ngược lại thì gọi là niêm với nhau. Trong thơ thất ngôn bát cú, quan hệ bằng trắc giữa các các câu trong mỗi phần đề, thực, luận, kết phải đối nhau; còn 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải niêm với nhau. Theo quan điểm, ta có thể thấy rõ sự quy định nghiêm ngặt về niêm, luật trong thơ thất ngôn bát cú. Chỉ cần dựa vào tiếng thứ hai của câu mở đầu, ta có thể biết bài được viết theo luật bằng hay trắc, ví dụ:.... Tuy nhiên, trong thơ hiện đại không đòi hỏi niêm luật này.

Vần là một bộ phận của tiếng không kể thanh và phụ âm đầu [nếu có]. Sự phối vần là một trong những nguyên tắc của sáng tác thơ, những tiếng có bộ phận vần giống nhau gọi là hiệp vần với nhau. Khác với thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú gieo vần chân, vần được gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.

Ngoài ra, nhịp thơ cũng là một yếu tố quan trọng làm nên nhạc điệu thơ. Cách ngắt nhịp trong thơ ko đơn giản là tạo sự ngừng nghỉ trong quá trình đọc mà quan trọng hơn, nó góp phần thể hiện nội dung, ý nghĩa cần biểu đạt. Trong thể loại thơ này, ta có thể ngắt nhịp bốn- ba hoặc ba- bốn nhiều hơn, thông dụng hơn. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm, tác giả đã thay đổi cách ngắt nhịp thông thương nhằm phục vụ một ý đồ nghệ thuật nhất định. Ta lấy ví dụ ở bài " Qua đèo Ngang" của BHTQ:

"Lom khom dưới, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà."

Cách ngắt nhịp 2/2/3 đã phần nào cho ta thấy được sự heo hắt của cảnh vật cùng sự cô đơn, buồn tủi của con người.

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Thể thơ này ra đời vào thế kỉ 7 vào Nhà Đường, ở Trung Quốc. Thể thơ này cũng là thể thơ được các nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam ưa chuộng và sử dụng nhiều ở những thế kỉ trước.

Thơ Thất ngôn tứ tuyệt được chia làm 2 loại: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật [một thể thơ khá được yêu thích trong Thơ Đường luật]: Có quy luật nghiêm khắc về luật, niêm và vần [theo bằng trắc] và có bố cục rõ ràng. Thất ngôn tứ tuyệt Cổ phong không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần [độc vận] hay nhiều vần [liên vận] nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc. Trong chương trình học cấp Trung học cơ sở chúng ta đã được làm quen và nhận biết thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú.

Về cách gieo vần ta thường bắt gặp 3 cách gieo vần trong thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt như sau: Cách 1: Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 [tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc]

Ví dụ: Thân em vừa trắng lại vừa trònBảy nổi ba chìm với nước nonRắn nát mặc dầu tay kẻ nặnMà em vẫn giữ tấm lòng son

Cách này thường được các cao nhân thời xưa sử dụng nhiều nhất.

Cách 2: Gieo vần chéo: Vào tiếng cuối các câu 1-3 [tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc] hay các câu 2-4 [tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc].Ví dụ: Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnhTrăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngầnĐàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậmMỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

Bốn câu thơ trên ta thấy reo vần "ân" của câu 2,4 như vậy tiếng cuối của câu 1,3 phải là thanh trắc "lạnh, chậm"

Cách 3: Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3.

Ví dụ: Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi điQua những sân cung rộng hải hồCó phải A Phòng hay Cô Tô?

Lá liễu dài như một nét mi.

Bố cục thường thấy của một bài thớ bao gồm 4 phần: Đề, thực, Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu,câu đầu gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển rộng ý của đầu bài. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài.

Tóm lại thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ có sự kết hợp hài hoà cân đối cổ điển nhạc điệu trầm bổng đăng đối nhịp nhàng. Có nội dung rất đa dạng và phong phú dễ đi vào lòng người. Chúng ta cần gìn giữ những bài thơ mà những nghệ sĩ xưa để lại.
 

Video liên quan

Chủ Đề