Tiểu luận đường lối cách mạng: hoàn cảnh ra đời của đảng cộng sản việt nam

tiểu luận môn đường lối cách mạng đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [837.16 KB, 34 trang ]


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 2
II. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI 3
1. Mục đích nghiên cứu 3
2. Yêu cầu của đề tài 3
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 4
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 5
NỘI DUNG TIỂU LUẬN 6
I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG 6
1. Khái niệm văn hóa 6
2. Thời kỳ trước đổi mới 7
2.1. Quá trình nhận thức và quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa 7
2.2. Đánh giá chung 10
3. Trong thời kỳ đổi mới 12
3.1. Quá trình đổi mới tư duy 12
3.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa 14
3.3. Đánh giá chung 16
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ ĐƯỜNG LỐIGIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG 17
1. Vị trí vai trò của chính sách xã hội 17
2. Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế 17
3. Thời kỳ trước đổi mới 18
3.1. Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội 18
3.2. Đánh giá chung 19
4. Thời kỳ đổi mới 20


4.1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá 20
4.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá 22

4.3. Đánh giá chung 28
KẾT LUẬN 31


GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 1

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại Học Công
Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em có một môi
trường học tập thoải mái về cơ sở hạ tầng cũng như cơ sở vật chất.
Chúng em xin cảm ơn khoa Lý luận chính trị đã giúp chúng em được mở mang tri
thức về môn học ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
một môn học hết sức quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với vận mệnh nước nhà.
Chúng em chân thành cảm ơn thầy Ngụy Thị Hồng Lợi đã hướng dẫn tận tình để
nhóm chúng em hoàn thành tiểu luận này. Hi vọng thông qua những nỗ lực tìm hiểu của
tất cả các thành viên, nhóm 3 sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về đề tài “ĐƯỜNG LỐI XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA, GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI” .
Với những giới hạn về kiến thức và thời gian, trong quá trình tìm hiểu nhóm chúng em
không tránh khỏi thiếu sót, mong thầy và các bạn tận tình đóng góp ý để chúng em hoàn
thiện hơn nữa những kiến thức của mình.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!






GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 2

LỜI MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam là một tài sản vô giá, những
đường lối là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua
thách thức khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giành độc lập cho đất nước.
Ngày nay khi sự nghiệp đổi mới của nước ta đi vào chiều sâu, những chuyển biến mạnh
mẽ trên thế giới, những vấn đề mới trong xã hội đặt ra ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm
sang tỏ, do đó việc làm theo đường lối của Đảng đề ra là hết sức quan trọng trong việc
phát triển đất nước đi lên Xã hội chủ nghĩa.
Như mọi người đã biết văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần do cộng đồng các dân tộc việt nam sang tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Lịch sử phát triển kinh tế và văn hóa cho thấy mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều gắn
liền với một nền văn hóa, khi diễn ra sự chuyển đổi về hình thái kinh tế - xã hội thì cũng
kéo theo sự chuyển đổi về văn hóa, trong đó có sự kế thừa, lựa chọn những giá trị tích cực
của hình thái trước. Biết lựa chọn những giá trị bền vững của văn hóa dân tộc và những
giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới vận dụng vào phát triển kinh tế - xã hội, cũng có
nghĩa là biết đi theo con đường rút ngắn để theo kịp thời đại. Hơn thế nữa, trong thời kỳ
bấy giờ rất nhiều vấn đề xã hội nảy sinh và cần được giải quyết.
Việt Nam đã trải qua một chặng đường lịch sử lâu dài với nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc. Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, muốn đất nước
phát triển đòi hỏi nhà nước phải có chính sách để xây dựng và phát triển nền văn hóa
đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam đã hiểu rõ được tầm
quan trọng của vấn đề này từ lâu và đã có đường lối cụ thể từ trước thời kỳ đổi mới.
Thế nên việc tìm hiểu rõ về đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa, giải quyết

các vấn đề xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam là vô cùng cần thiết, đặc biệt với bối cảnh
quá độ lên xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 3

II. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu nội dung và làm rõ khái niệm về văn hóa dưới nhiều góc độ, tìm hiểu
được các vấn đề xã hội của Việt Nam trong nhiều thời kỳ.
- Hiểu được bản chất văn hóa Việt Nam.
- Hiểu được một thực trạng xã hội Ở Việt Nam.
- Hiểu được chủ trương, chính sách, quan điểm, dường lối của Đảng trong việc xây
dựng và phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội.
- Hiểu rõ những gì Đảng và Nhà nước đang thực hiện, tránh những hiểu lầm không
đáng có, chống các âm mưu phá hoại tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Qua bài tiểu luận này chúng tôi những thành viên của nhóm 7 cũng muốn bày tỏ
lòng biết ơn sự dẫn dắt của Đảng Việt Nam ngay từ những ngày mới thành lập, giúp cho
đời sống của nhân nhân dân ngày càng no ấm. Qua đây chúng tôi kêu gọi mọi người
hưởng ứng, tích cực làm theo đường lối mà Đảng đã đề ra.
- Chúng tôi hi vọng rằng đề tài tiểu luận này sẽ là tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho
các khóa học sau.
2. Yêu cầu của đề tài
Vấn đề văn hóa và các vấn đề xã hội là một đề tài khó và rộng trong cả lý luận và thực
tiễn, nó giữ vai trò vô cùng to lớn trong nhận thức của con người, một phần tạo nên sự
phát triển vững mạnh của nước nhà. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài này cần:
- Tập hợp sức mạnh cảu các thành viên trong nhóm, có sự phân công, giao việc cụ
thể, rõ ràng giữa các thành viên.
- Nắm vững những nội dung cơ bản của dường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam.

- Thu thập, chọn lọc, xử lý thông tin kỹ càng qua nghiên cứu, tham khảo qua sách vở
và các phương tiện thông tin đại chúng.
- Vận dụng các kiến thức cơ bản và liên hệ với tình hình thực tiễn của đất nước, liên
hệ với bản thân tu dưỡng rèn luyện.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 4

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu đường lối xây dựng và phất triển nền văn hóa, giải quyết các vấn đề xã
hội trọng thời kỳ trước đổi mới.
- Nghiên cứu đường lối xây dựng và phất triển nền văn hóa, giải quyết các vấn đề xã
hội trọng thời kỳ đổi mới.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đề tài mang tính chất khoa học khái quát, không thể nghiên cứu, tiến hành trong
phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong đời sống hiện thực, đụng chạm đến lợi
ích con người. Việc kiểm tra, thử nghiệm cụ thể tiến hành trong phạm vi rất hạn chế. Do
vậy, đề tài sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu
nhiên trong quá trình nghiên cứu, nắm vững bản chất của hiện tượng để tách ra cái điển
hình, bền vững, ổn định.
- Theo dõi, học tập, rút kinh nghiệm từ giáo viên hướng dẫn Ngụy Thị Hồng
Lợi_khoa lý luận chính trị.
- Kết hợp kiến thức từ giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam_NXB DH Công nghiệp Tp Hồ Chí Minh_tháng 05/2009” với kiến thức thực tế, báo
chí, internet,
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa,
giải quyết các vấn đề xã hội” nhóm có sử dụng phương pháp thống kê để đưa ra dẫn
chứng về hiện thực để lý luận cho những mặt tích cực và tiêu cực của xã hội đối với tôn
giáo.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Bài tiểu luận này chúng tôi nghiên cứu trong thời gian 4 tuần với 3 buổi họp nhóm [Có
biên bản họp nhóm kèm theo].
Về nội dung của bài tiểu luận chúng tôi chia làm hai phần cụ thể: Đường lối xây dựng
và phát triển nền văn hoácuar Đảng; đường lối giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng.
Đè tài “Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội” là
đề tài rộng lớn với nhiều nội dung cơ bản, có sự thay đổi về chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước ta trong các mốc lịch sử. Do vậy, nhóm chỉ tìm hiểu và ngiên cứu các
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 5

chủ trương của Đảng về vấn đề văn hóa-xã hội trong hai thời kỳ: trước đổi mới và sau đổi
mới[gồm đường lối của đảng trong vấn đề văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội].
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau khi cùng nhau nghiên cứu thảo luận đề tài “Đường lối xây dựng và phát triển nền
văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội”.
- Hiểu rõ hơn về văn hóa dứoi nhiều góc nhìn khác nhau.
- Nhận thức được hiện trạng xã hội ở Việt Nam.
- Nhận thức được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta trong lĩnh vực văn hóa-xã
hôi từ đó góp phần xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh.












GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 6

NỘI DUNG TIỂU LUẬN
I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG
1. Khái niệm văn hóa
Từ trước đến nay khái niệm văn hóa đã được rất nhiều cá nhân tổ chức nghiên cứu.
Nhưng có lẽ những khái niệm dưới đây xem là khái quát, đầy đủ và mạng tính khoa học
nhất.
- Theo nghĩa rộng: Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người lao động và sáng tạo ra.
- Theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần, hệ các giá trị,truyền thống,lối sống
của xã hội.văn hóa là bản sắc,là năng lực sáng tạo của một dân tộc.là cái phân biệt cái này
với cái khác.
- Edouard Heriiot cho rằng: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là
cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”.
- C.Mác thì coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao
động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực của con người.
- Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức [trình
độ văn hóa], lối sống [nếp sống văn hóa], còn theo nghĩa chuyên biệt thì văn hóa dùng để
chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn [văn hóa Đông Sơn, văn hóa Óc Eo, …]; theo
nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm vật chất cho đến những giá trị
tinh thần …
- Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hà”.ng ngày như ăn, mặc, ở và các phương

thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
- UNESCO: “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh
thần, vật chất, tri thức và tinh cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình,
xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội … Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 7

chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những truyền thống, tín ngưỡng…”.
Nói tóm lại, chúng ta có thể hiểu: “Văn hóa là tòan bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và họat động thực tiễn trong quá trình
lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất
định”.
2. Thời kỳ trước đổi mới
2.1. Quá trình nhận thức và quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng, phát
triển văn hóa
 Giai đoạn 1943-1954:
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây
dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền
văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Văn hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc
nhất của cách mạng.
Trong quá trình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943 Ban thường vụ
Trung ương Đảng họp tại Võng La [Đông Anh, Phúc Yên] đã thông qua bản Đề cương
văn hoá Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trực tiếp dự thảo.
Đề cương văn hoá Việt Nam xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính
trị, văn hoá của cách mạng Việt Nam.
Bản đề cương đề ra 3 nguyên tắc của nền văn hoá mới là Dân tộc - Khoa học - Đại

chúng:
+ Dân tộc hóa: chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa.
+ Khoa học hóa: chống lại tất cả những gì làm cho VH phản tiến bộ, trái khoa học.
+ Đại chúng hóa: chống mọi chủ trương, hành động làm cho VH phản lại hoặc xa
rời quần chúng.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 8

Bản đề cương đã xác định khái niệm văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ
thuật, những vấn đề cơ bản của đời sống tinh thần xã hội.
Bản đề cương khẳng định văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức và
tân dân chủ về nội dung.
Có thể coi Đề cương chính là cương lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng giải
phóng dân tộc, là phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật trong quá trình
đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và cả những
năm sau đó, khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, vừa kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong
đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá.
+ Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt.
+ Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân dân.
Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và
tính thời sự của nó.
Cuộc vận động thực hiện đời sống văn hoá mới. Đầu năm 1946 Ban Trung ương vận
động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín như Trần
Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè , mà tổng thư ký là nhà Văn Nguyễn Huy
Tưởng. Đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu đời sống mới giải thích rất dễ hiểu
những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hoá quan trọng này.

Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc"
ra ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng, trong bức thư về "Nhiệm vụ văn
hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay" của đồng chí
Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại báo cáo "Chủ nghĩa Mác
và văn hoá Việt Nam" trình bày tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948.
Đường lối đó gồm các nội dung:
+ Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động
văn hoá cứu quốc.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 9

+ Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học,
đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là Dân tộc, Dân chủ.
+ Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh
thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ.
+ Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới.
+ Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại,
ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của
văn hoá thế giới.
+ Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến
kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
 Giai đoạn 1955-1986:
Trong văn kiện Đại hội III của Đảng [9/1960] nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hoá
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt
chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành
cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa mang đặc
trưng dân tộc - khoa học - đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm
đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng [12/1976] xác định "Xây dựng con
người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, tiến
hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp
bóc lột".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng [3/1982] chỉ rõ nền văn hoá mới là nền
văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu
sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình
bày rất đầy đủ về khái niệm "Con người mới xã hội chủ nghĩa" và đưa ra phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá".
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 10

+ Mục tiêu: làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để
lại, có trình độ văn hóa ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học-kỹ thuật
tiên tiến để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa.
+ Nhiệm vụ: tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển mạnh khoa học,
văn hóa nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và
tàn dư tư tưởng phong kiến, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa thực dân mới
ở miền Nam.
2.2. Đánh giá chung
- Như vậy, trước đổi mới, đường lối văn hoá của Đảng đã hình thành và phát triển
trên những nét cơ bản nhất: nêu ra quan niệm về văn hoá, cả theo nghĩa rộng là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và theo
nghĩa hẹp, gồm các giá trị văn hoá tinh thần, văn hoá văn nghệ; mục tiêu của văn hoá là
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân làm rõ vị trí của văn hoá là động lực và là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng, đưa ra những đặc trưng của nền văn hoá mới là dân tộc, khoa
học và đại chúng, chỉ ra sự cần thiết của công tác lãnh đạo văn hoá và các hình thức lãnh
đạo văn hoá của Đảng; xác định xây dựng nền văn hoá mới là một mặt trận

Nhờ được soi sáng bởi đường lối lãnh đạo phát triển văn hoá đúng đắn, văn hoá cách
mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn:
+ Khơi dậy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, kết hợp
với những giá trị tiến bộ và phù hợp của nhân loại và thời đại, tạo nên sức mạnh
vật chất và tinh thần đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc.
+ Định hình cơ bản những giá trị văn hoá mới của dân tộc gắn với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên
nhiều lĩnh vực văn hoá, đi sâu vào đời sống nhân dân.
+ Góp phần tích cực vào việc xoá bỏ những tàn dư của nền văn hoá thực dân cùng
với những hủ tục lạc hậu gây tổn hại tới bản chất của nền văn hoá mới.
+ Góp phần xây dựng đội ngũ trí thức hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật, không ngừng nâng cao về trình độ, chất lượng sáng tác.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 11

+ Trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối sống
mới đã trở thành phổ biến, con người sống có nghĩa, có tình, có tấm lòng hậu
phương vì tiền tuyến, có tinh thần xả thân vì tổ quốc.
+ Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ là
thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ
nghĩa yêu nước và những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam.
- Bên cạnh những thành tựu đạt được thì chúng ta cũng không thể không nhắc tới
những hạn chế:
+ Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu.
+ Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức lối sống có
chiều hướng phát triển.
+ Đời sống văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao
tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
+ Một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không

được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai một.
Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trên:
+ Bị chi phối bởi tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu
tranh 2 phe, đấu tranh ý thức hệ.
+ Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị quy
định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ tư
hữu, xoá bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt.
+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp
và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục;
kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.

GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 12

3. Trong thời kỳ đổi mới
3.1. Quá trình đổi mới tư duy
Từ đại hội VI đên đại hội XI, đảng ta đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc
trưng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng.
- Đại hội VI [1986] xác định: khoa học-kĩ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá
trình phát triển kinh tế-xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa VN có đặc trưng:
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa VN có nội dung xã hội
chủ nghĩa, có tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Cương
lĩnh xây dụng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng,
có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp
của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại; chống tư
tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trai với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao

quý của loài người,trái với phương hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội VII,VIII,IX,X,XI và nhiều nghị quyết trung ương tiếp theo đã xác định văn
hóa là nền tản tinh thần của xã hội và coi văn hóa là mục tiêu, vừa là động lực của phát
triển.
- Đại hội VII[1991] và đại hội VII[1996] khẳng định: khoa học và giáo dục đóng trò
then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một
động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế
giới.
- Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII[7-1998] nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá
trình phát triển văn hóa trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa dất nước. Hội nghị
trung ương 9 khóa IX[1-2004] xác định thêm phát triển văn hóa đông bộ với phát triển
kinh tế. tiếp theo, hội nghị trung ương 10 khóa IX [7-2004] đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết
giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn đảng là then chốt với
nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa – nền tản tinh thần của xã hội.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 13

- Hội nghị trung ương 10 khóa IX đã nhận định sự biến đổi của văn hóa trong quá
trình đổi mới. cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá
nhân với cộng đồng.

GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 14

3.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền
văn hóa
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới.
- Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài nguyên,
vốn v v Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức
con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn
kiệt.
- Chương trình phát triển của liên hợp quốc [UNDP] đưa ra những tiêu chí mới để
đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người[HDI], một
trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo dục [hai chỉ tiêu khác là
tuổi thọ bình quân và mức thu nhập]. Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí:
Tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho mỗi người.
Hai là, Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất
cả vì con người.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước.
+ Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường tinh thần đoàn kết, đó là lòng nhân ái
khoan dung, trọng đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất
+ Có thể nói bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân
tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết
cạnh tranh, hợp tác để tồn tại và phát triển.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 15

Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.

54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng. Các
giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và
củng cố sự thống nhất dân tộc
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng với khoa
học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu. Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ
trương:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã
hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học.
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
- Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao
đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho
việc xuất khẩu lao động.
- Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học,
bậc học.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực
tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao
- Thực hiện xã hội hoá giáo dục.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
- Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ.
- Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 16


Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá
trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con
người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian.
3.3. Đánh giá chung
- Qua những đổi mới tư duy cũng như chủ trương chính sách đã Chứng tỏ đường lối
và các chính sách văn hoá của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích
cực, định hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hoá. Không những thế Đảng đạt
được những thành tựu to lớn không chỉ trong việc xây dựng và phát triển văn hóa mà ở rất
nhiều lĩnh vực khác.
+ Cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hoá mới đã bước đầu được tạo dựng.
+ Quá trình đổi mới tư duy về văn hoá, về xây dựng con người và nguồn nhân lực
có bước phát triển rõ rệt.
+ Môi trường văn hoá có những chuyển biến theo hướng tích cực.
+ Hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng.
+ Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới.
+ Khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
+ Văn hoá phát triển, việc xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn minh có
tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước.
- Hạn chế:
+ So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong
lĩnh vực văn hoá còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có
hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng.
+ Đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn.
+ Sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế,
thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM


Nhóm: 4 Page 17

+ Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản
phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín, lai căng
+ Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, chưa đổi mới thiếu đồng bộ, làm hạn
chế tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước.
+ Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở
nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả.
- Nguyên nhân:
+ Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hoá chưa được quán triệt đầy đủ cũng
chưa được thực hiện nghiêm túc.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí trong quản lý kinh tế - xã hội cùng với cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc triển khai
đường lối phát triển văn hóa.
+ Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn
hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
+ Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hoá có biểu hiện xa rời
đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ ĐƯỜNG LỐIGIẢI QUYẾT CÁC VẤN
ĐỀ XÃ HỘI CỦA ĐẢNG
1. Vị trí vai trò của chính sách xã hội
- Vấn đề xã hội là vấn đề hết sức quan trọng của một quốc gia, liên quan, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của đất nước.
- Vấn đề xã hội mà chúng tôi nghiên cứu trong bài tiểu luận này bao gồm các lĩnh
vực:
+ Việc làm, thu nhập, bình đẳng xã hội.
+ Xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu.
+ Chăm sóc sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
2. Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế

Mối quan hệ quan trọng có tính quy luật trong toàn bộ hệ thống chính sách chung của
một nhà nước nhằm bảo đảm sự vận động và phát triển của một xã hội nhất định. Giữa
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 18

chính sách kinh tế và chính sách chính trị, xã hội trước hết có sự thống nhất biện chứng và
sự phụ thuộc lẫn nhau. Chính sách xã hội bao giờ cũng chịu sự chi phối và ràng buộc của
các điều kiện kinh tế. Mỗi giai đoạn của sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải có những chính
sách xã hội tương ứng với khả năng và điều kiện của nó. Tuy nhiên, bản thân chính sách
xã hội cũng có sự độc lập tương đối với những điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế.
Thực tế của việc thực hiện các chính sách xã hội ở nhiều nước cho thấy, chính vì
không giải quyết tốt những vấn đề xã hội mà ở một giai đoạn nào đó, mặc dù kinh tế có
phát triển, nhưng đời sống xã hội vẫn không ổn định, con người vẫn không thoả mãn với
những nhu cầu của chính mình. Ngược lại, cũng có những giai đoạn nhất định, mặc dù
kinh tế phát triển chưa cao, nhưng do nhiều vấn đề xã hội được giải quyết hợp lí, mọi
người vẫn phấn khởi, tích cực tham gia các hoạt động xây dựng xã hội. Về phương diện
này, sự phân biệt ranh giới giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế cũng quan trọng
không khác gì việc nhận thức đúng đắn sự thống nhất giữa chúng.
3. Thời kỳ trước đổi mới
3.1. Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
 Giai đoạn 1945 – 1954
Chính sách xã hội cấp bách là làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành.
Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu
thêm.
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình Dân chủ nhân dân.
- Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ
chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình.
- Chính sách tăng gia sản xuất nhằm tự cấp tự túc, chủ trương tiết kiệm, đồng cam
cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi, từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng, được

coi trọng như đánh giặc.
- Khuyến khích mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực
hiện chính sách điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ.

GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 19

 Giai đoạn 1955 - 1975
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn
cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước
và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện
trợ.
 Giai đoạn 1975 – 1985
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao
cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm
trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập, cấm vận.
3.2. Đánh giá chung
- Kết quả và ý nghĩa:
+ Bảo đảm được sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được thành tựu phát
triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực.
+ Hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
+ Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội trong điều kiện chiến tranh kéo
dài, kinh tế chậm phát triển
- Hạn chế:
+ Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể trong
cách giải quyết các vấn đề xã hội .
+ Chế độ phân phối trên thực tế là bình quân cao bằng không khuyến khích những
đơn vị cá nhân làm tốt, làm giỏi

+ Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển
về nhiều mặt.
- Nguyên nhân:
+ Đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách kinh tế,
chính trị.
+ Áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 20

4. Thời kỳ đổi mới
4.1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá
- Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng [12/1986], Đảng dần đi tới những nhận thức mới,
quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con
người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận
thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào có thể thay
thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc
vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
Đại hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng,
dứt bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định đồng thời với
xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp
cho sự phát triển.
- Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc
trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao
đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định và
biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo

quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém.
+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả cấc dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá nhân loại. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào toạ, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 21

- Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định
văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ Đại hội VII [6/1991] và Đại hội VIII [6/1996] của Đảng khẳng định: khoa học
và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự nghiệp giáo dục -
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố
con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
- Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII [7/1998] nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10
nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ
mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
+ Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì không
có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn
diện.

+ Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
+ Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
+ Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
+ Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức
tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh
+ Xây dựng môi trường văn hoá.
+ Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 22

+ Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
+ Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
+ Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
+ Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
+ Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
+ Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
+ Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Bốn giải pháp lớn:
+ Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và phong
trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
+ Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
+ Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
+ Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
- Đến Hội nghị trung ương 9 khoá IX [1/2004] xác định thêm "phát triển văn hoá

đồng bộ với phát triển kinh tế".
- Hội nghị trung ương 10 khoá IX [7/2004] đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm
vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận
định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy
dân chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó
phạm vi, vai trò của dân chủ hoá - xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng lên
và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hoá của
Đảng và Nhà nước ta.
4.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo UNESCO: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt
của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao
GVHD: Ngụy Thị Hồng Lợi Tiểu luận môn: Đường lối cách mạng của ĐCSVM

Nhóm: 4 Page 23

thế kỷ nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền lại, tiếp nối và phát huy
qua các thế hệ người Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế xã hội.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát
triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn, phát

triển phải dựa trên cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hoá.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế
cũng không chỉ do các nhân tố thuần tuý kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh
tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn
chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất dẫn tới suy thoái xã hội.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hoá giúp hạn chế lối
sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ" dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển.
Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hoá.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định: Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu "tăng trưởng

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945 ​

Ngày phát hành: 29/08/2021 Lượt xem 16979

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường. Vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man; đấu tranh về nhận thức, quan điểm khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam; phát triển lực lượng, bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng kể cả Ban chấp hành Trung ương.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của đảng cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1930 – 1945 - do hoàn cảnh phải hoạt động bí mật, liên tục bị chính quyền thực dân đàn áp, khủng bố, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3-1935. Trong hoàn cảnh đó Ban chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng [Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt] do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 thông qua, trên cơ sở phân tích, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa cùng những đặc điểm quan trọng nhất về nền công nghiệp, nông nghiệp của đất nước, đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định:“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”[1]. Chủ trương của Đảng là: “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”[2].

Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.] để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m [Đảng Lập hiến,v.v.] thì phải đánh đổ”[3]. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”[4].

Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng chứ không thể là cải lương, thỏa hiệp.

Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ: “...trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”[5]. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga 1917.

Bẩy tháng sau [tháng 10-1930], tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[6]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[7]…

Luận cương chính trị tháng 10năm 1930 đã có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song, Luận cương còn một số mặt hạn chế, không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không nêu được nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Do vậy, chưa phát huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực lượng yêu nước. Luận cương chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tinh thần yêu nước của tư bản dân tộc và một bộ phận địa chủ nhỏ.

Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc này kéo dài gần năm năm, cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3.1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[8]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[9]. Tháng 10.1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11.1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9.Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[10].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18.11.1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chưc được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][11]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông” , “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[12]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5.1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[13]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11.1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[14]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[15].

Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[16].

Ngày 28.1.1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[17]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[18]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[19]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19-5-1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh để cùng thành lập Đông Dương độc lập đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[20].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[21].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5.1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11.1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5.1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5-1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

PGS.TS Đào Duy Quát

Nguyên Phó Trưởng ban thường trực

Ban Tư tưởng – Văn hóa TW


[1] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 3

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[7] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[16] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[19] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[20] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[21] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

Video liên quan

Chủ Đề