Vai trò của Skinner trong việc xây dựng thuyết hành vi

1. Giới thiệu chung 

Burrhus Frederic Skinner [1904-1990] là một nhà tâm lý học người Mỹ có ảnh hưởng lớn vì những đóng góp của ông cho việc phát triển lý thuyết hành vi, và cũng như là cả cuốn sách Walden Đệ Nhị của ông – một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng – được Skinner hoàn thành vào năm 1948. Trong sách, các hành vi hạnh phúc và siêng năng đã được Skinner lý giải, cấu trúc cho người đọc theo một cách hoàn chỉnh thông qua các kỹ thuật hành vi rút ra từ lý thuyết của ông.

Ở thời điểm hiện tại, Skinner là nhà tâm lý học được nhiều người công nhận ở trường phái Tâm lý học hành vi, và lý thuyết của ông là một trong những lý thuyết có ảnh hưởng nhất đến tâm lý học. 

Trong bảng xếp hạng năm 2002 của các nhà tâm lý có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX, Skinner được xếp ở vị trí thứ 1. 

Một số giải thưởng của Burrhus Frederic Skinner:

1966 – Giải thưởng Edward Lee Thorndike, Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ

1968 – Huy chương Khoa học Quốc gia của Tổng thống Lyndon B. Johnson

1971 – Huy chương vàng của Quỹ tâm lý Mỹ

1972 – Giải thưởng Con người của năm

1990 – Trích dẫn đóng góp trọn đời nổi bật cho Tâm lý học

2. Tiểu sử 

2.1. Thời thơ ấu

Burrhus Frederic Skinner sinh ngày 20/03/1904 tại Susquehanna, một thị trấn đường sắt nhỏ thuộc New York [Mỹ]. Skinner sống cùng em trai và cha mẹ trong một gia đình trung lưu ổn định, đầm ấm. Cha ông là một luật sư và mẹ ông là nội trợ. Skinner được giáo dục theo các chuẩn mực đạo đức nghiêm khắc. Ngay từ nhỏ, Skinner đã tỏ ra thông minh, nhanh nhẹn khi tự chế ra các thiết bị hỗ trợ cho việc sinh hoạt của mình [xây 1 cabin trong rừng, thiết kế một hệ thống tuyển nổi để tách quả chín ra khỏi quả mọng xanh…]

2.2. Con đường học vấn

Skinner theo học tại Đại học Hamilton ở New York với ý định trở thành một nhà văn. Ông nhận thấy mình bị điều tiếng tại trường bởi quan điểm trí thức của mình. Ông là thành viên của Hội Sinh viên Lambda Chi Alpha. 

Ông từng tham gia viết các bài báo ở trường nhưng vì là một người theo chủ nghĩa vô thần, ông đã chỉ trích những điều truyền thống ở trường đại học của mình. Sau khi nhận bằng Cử nhân Văn học Anh năm 1926, ông theo học tại Đại học Harvard, nơi mà sau này ông nghiên cứu và giảng dạy. Khi theo học tại Harvard, Fred S. Keller, một sinh viên khác, đã thuyết phục Skinner rằng ông ta có thể tạo ra một khoa học thực nghiệm về nghiên cứu hành vi. Sự kiện này đã tạo cơ hội cho Skinner phát minh ra một nguyên mẫu của chiếc hộp Skinner, và về sau cộng tác cùng Keller trong việc tạo ra các công cụ khác cho các thí nghiệm nhỏ. 

Sau khi tốt nghiệp, Skinner sống cùng cha mẹ và cố gắng viết tiểu thuyết để trở thành nhà văn, nhưng ông lại không thành công. Đây cũng là thời kỳ mà sau này ông gọi là “Những năm tháng tăm tối”. Cho dù từng được nhà thơ nổi tiếng Robert Frost đánh giá cao ba tác phẩm truyện ngắn, nhưng Skinner vẫn thất vọng về khả năng viết lách của mình. Ông đã cho rằng mình không có nhiều kinh nghiệm sống và không có quan điểm cá nhân sâu sắc để có thể viết lách. Thời gian ở Greenwich Village, Skinner có dịp đọc các tác phẩm của Pavlov và Watson, và ông đã được truyền cảm hứng rất lớn từ đây. Sau đó, nhờ sự bén duyên của ông với chủ nghĩa hành vi của John B. Watson, nó đã mang Skinner đến với lĩnh vực tâm lý học. Skinner từ đó đã kế thừa chủ nghĩa hành vi của Watson và phát triển thành phiên bản chủ nghĩa hành vi của riêng mình. 

2.3. Sự nghiệp 

Burrhus Frederic Skinner là một nhà tâm lý học, nhà hành vi học, tác giả, nhà phát minh và nhà triết học xã hội người Mỹ. Ông là giáo sư tâm lý học tại Đại học Harvard từ năm 1958 cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1974. 

Skinner được đánh giá là người xuất sắc với nhiều đóng góp nổi bật. Trong những năm tháng cống hiến cho lĩnh vực Tâm lý học, ông đã phát minh và sáng chế ra nhiều sản phẩm, thiết bị phục vụ cho nghiên cứu của thuyết hành vi. Ông đã đặt nền móng và xây dựng cho học thuyết nền tảng của Tâm lý học, đồng thời với vai trò tác giả, ông đã xuất bản tới 21 cuốn sách và 180 bài viết khác nhau trong sự nghiệp của mình. 

3. Những công trình nghiên cứu về Tâm lý học, phát minh khoa học 

3.1. Về các học thuyết Tâm lý học

3.1.1. Thuyết Hành vi tạo tác

Theo Skinner, cả động vật và người có ba dạng hành vi: hành vi không điều kiện, hành vi có điều kiện và hành vi tạo tác, ba loại này có ba cơ sở tương ứng là: bẩm sinh, phản xạ có điều kiện và quá trình điều kiện tạo tác. Sự khác biệt đầu tiên giữa hành vi có điều kiện với hành vi tạo tác là hành vi có điều kiện xuất hiện nhằm tiếp cận một kích thích củng cố, còn hành vi tạo tác nhằm tạo ra kích thích củng cố. 

Theo thuyết Hành vi tạo tác, nhiều phản ứng của cơ thể không phải do một kích thích không điều kiện nào đó gây ra, mà còn có thể là do cơ thể tự phóng ra. Phản ứng nảy sinh để trả lời kích thích vô điều kiện và có điều kiện được Skinner gọi là các phản ứng loại S. Các phản ứng do cơ thể tự phóng ra xếp vào loại R và được gọi là hành vi tạo tác. Hành vi tạo tác là hành vi được hình thành từ một hành vi trước đó của chủ thể, do tác động vào môi trường và được củng cố, đóng vai trò là tác nhân kích thích.

Một khác biệt nữa giữa hành vi có điều kiện với hành vi tạo tác là hành vi tạo tác tác động đến môi trường xung quanh cơ thể, trong khi hành vi có điều kiện không làm điều đó. Điều này có thể được chứng minh khi ta so sánh một thí nghiệm của Pavlov với thí nghiệm của Skinner. Trong thí nghiệm của Pavlov, ông tiến hành xích một chú chó lại và khiến nó không thể làm gì khác ngoài phản ứng [chỉ tiết nước bọt] với nghiệm viên khi họ đưa ra kích thích nào đó với nó. Còn tự nó không thể làm gì để lấy được thức ăn [không tác động đến môi trường xung quanh]. Trong khi đó, hành vi tạo tác của con chuột trong hộp Skinner đem lại được nghĩa quyết định khi con chuột lấy được thức ăn [có tác động đến môi trường xung quanh]. Khi chuột đạp cần gạt, nó nhận được thức ăn, còn nếu như không đạp cần thì nó không lấy được thức ăn. Từ đó kết luận hành vi tạo tác của chuột đã tác động đến môi trường xung quanh.

3.1.2. Thuyết Củng cố động lực

Thuyết Củng cố động lực được xây dựng bởi Skinner, hay còn được biết đến là điều kiện hóa từ kết quả [điều hòa hoạt động], nhằm lý giải hành vi của con người tương ứng với môi trường hoặc các tác nhân kích thích xung quanh nó. Điều kiện hóa từ kết quả tập trung vào việc sử dụng hình thức củng cố hoặc trừng phạt để làm gia tăng hoặc giảm thiểu hành vi. 

Thông qua phương pháp thực nghiệm, Skinner đã đưa ra kết luận rằng sự xuất hiện của một tác nhân gây kích thích có thể khiến con người sinh ra phản ứng. Mặt khác nếu các phản ứng này có điều kiện củng cố gây ra bởi các tác nhân củng cố tích cực hoặc tiêu cực sẽ gây ảnh hưởng lên hành vi hoặc phản ứng của đối tượng được quan sát, từ đó có thể tăng cường hoặc ức chế [cho phù hợp] . Skinner cho rằng hành vi được duy trì từ tình huống này sang tình huống khác với điều kiện là các củng cố không thay đổi hoặc ta phát hiện được “quy tắc” logic trong khi lặp lại hành vi đó nhiều lần. Kết quả là, cả hành vi của con người và động vật đều có thể được điều hòa hoặc sửa đổi bằng cách sử dụng một loạt những kích thích mà đối tượng có thể cho là thỏa đáng hoặc không.

Nói một cách đơn giản hơn, thuyết củng cố động lực nhấn mạnh rằng một người có nhiều khả năng lặp lại một hành vi được củng cố tích cực, cũng như có nhiều khả năng lặp lại những hành vi có liên quan đến kích thích hoặc củng cố tiêu cực.

3.2. Về phát minh khoa học 

3.2.1. Hộp Skinner [Skinner Box]

Khi còn trẻ, Skinner đã phát minh ra nhiều thiết bị khác nhau và ông đã ứng dụng những thiết bị này rất nhiều trong các nghiên cứu sau này về điều kiện hóa từ kết quả. Skinner tạo ra một thứ gọi là Hộp điều kiện hóa từ kết quả [còn được gọi là Hộp Skinner] là một thiết bị phòng thí nghiệm được sử dụng trong phân tích thí nghiệm về hành vi của động vật. Hộp này về cơ bản là một cái hộp có thể nhốt các con vật nhỏ như chuột hay bồ câu. Hộp này cũng có một then chắn hay chốt sắt mà con vật nó thể nhấn để nhận được phần thưởng. Như đã được Skinner sử dụng, chiếc hộp có một đòn bẩy [dành cho chuột] hoặc một chiếc đĩa trong một bức tường [dành cho chim bồ câu]. Nhấn vào “thao tác” này có thể đưa thức ăn cho con vật thông qua một khe hở trên tường và các phản ứng được củng cố theo cách này tăng tần suất. Bằng cách kiểm soát sự củng cố này cùng với các kích thích phân biệt như ánh sáng và âm thanh tín hiệu, hoặc các hình phạt như điện giật, các nhà thí nghiệm đã sử dụng hộp quan sát để nghiên cứu nhiều chủ đề, bao gồm lịch trình củng cố, kiểm soát phân biệt, phản ứng [khả năng nhớ] chậm, hình phạt,… Bằng cách hướng việc nghiên cứu theo những lối này, buồng điều hòa hoạt động đã có đóng góp to lớn đến công cuộc nghiên cứu động vật học và các ứng dụng của nó. Nó khiến cho việc triển khai các vấn đề cực kỳ hiệu quả khi mà chúng đã có thể được nghiên cứu bằng cách đo đạt tốc độ, xác suất hoặc lực tác động của một phản ứng đơn giản, một phản ứng có thể tái diễn.

3.2.2. Máy ghi tích lũy [Cumulative Recorder]

Máy ghi tích lũy tạo một bản ghi bằng bút mực cho các phản hồi đơn giản được lặp lại nhiều lần. Skinner đã thiết kế nó cho việc sử dụng ở buồng quan sát [operant chamber] để tiện ghi lại và xem xét tốc độ các phản hồi như ấn vào cần gạt hoặc một cái nút mổ [a key peck]. Trong chiếc máy này, một tờ giấy dần dần được giàn ra từ trong một chiếc ống hình trụ. Mỗi câu trả lời làm nhích một cây bút nhỏ ghi trên mặt giấy, đầu tiên là từ một mép bên giấy trước; khi bút chạm đến mép bên kia, nó nhanh chóng di chuyển về lại mép ban đầu. Độ dốc của đường mực kết quả biểu thị cho tốc độ phản hồi; ví dụ: những câu trả lời nhanh cho ra đường xiên dốc trên giấy, còn câu trả lời chậm làm cho lằn vẽ có độ dốc thấp. Máy ghi tích lũy là một công cụ trọng yếu được Skinner sử dụng trong phép phân tích hành vi của ông, và sau này nó đã được các nhà thí nghiệm khác áp dụng rộng rãi.

3.2.3. Máy dạy học [Teaching machine]

Máy dạy học là một thiết bị dạy học được lập trình sẵn theo chương trình học. Máy là hiện thân của các yếu tố chính trong lý thuyết học tập của Skinner, và có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục nói chung và giảng dạy tại lớp nói riêng.

Cỗ máy là một chiếc hộp chứa danh sách các câu hỏi và có thể xem từng câu hỏi qua một ô cửa nhỏ. Bên trong hộp được thiết kế một loại máy móc mà người học có thể trả lời cho mỗi câu bằng máy này. Khi đưa ra một câu trả lời đúng, người học sẽ được nhận thưởng.

Skinner ủng hộ việc sử dụng máy dạy học cho nhiều đối tượng học sinh [ví dụ: từ mẫu giáo đến người lớn] và các mục đích giảng dạy [ví dụ: đọc và âm nhạc].

Máy dạy học, mặc dù có hơi thô sơ, nhưng nó không hề là một công cụ dạy học cứng nhắc. Chúng có thể được điều chỉnh và cải tiến theo thành tích biểu hiện của người học sinh. Ví dụ: nếu một học sinh đưa ra nhiều câu trả lời không chính xác, máy có thể được lập trình lại để đưa ra những lời nhắc hoặc câu hỏi ít nâng cao hơn – ý tưởng là học sinh có được hành vi hiệu quả nhất khi họ mắc càng ít lỗi. Các dạng bài tập trắc nghiệm không phù hợp với máy dạy học vì chúng có xu hướng làm học sinh mắc nhiều lỗi hơn, và các trường hợp củng cố ngẫu nhiên ta không kiểm soát được cho lắm.

4. Một số chỉ trích về lý thuyết của B.F.Skinner

Chủ nghĩa cực đoan của Skinner và sự phủ nhận tất cả các lý thuyết đã gây nên những phản đối gay gắt chống lại thuyết hành vi của Skinner. Bên cạnh đó những người phản đối ông khẳng định rằng không thể quy tất cả các lý thuyết về con số không. Vì các chi tiết của thực nghiệm cần được hoạch định từ trước, nên điều đó đã chứng minh cho việc xây dựng chí ít là một lý thuyết đơn giản nhất. Người ta cũng nhận thấy rằng ở mức độ nào đó, việc Skinner chấp nhận những nguyên tắc nền tảng hình thành phản xạ có điều kiện với tư cách là cơ sở cho hoạt động của mình cũng là việc làm mang tính lý luận. Có người lên án rằng ông đã loại bỏ bản chất con người, thậm chí loại bỏ con người trong các công trình nghiên cứu của mình. Phạm vi hạn hẹp những nghiên cứu hành vi trong các phòng thí nghiệm của ông cũng không tránh được phê phán. Những người phản đối lý thuyết của Skinner đã khẳng định rằng cách tiếp cận này đơn giản đã bỏ qua nhiều khía cạnh của hành vi.

Mặc dù vướng phải nhiều ý kiến trái chiều, B.F.Skinner vẫn là một nhà tiên phong, một người khởi xướng và là một người anh hùng của tâm lý học hành vi – nhất là trong 30 năm đầu của nền Tâm lý học Mỹ. Những đóng góp của Skinner cho nền móng của tâm lý học là không thể bàn cãi, bởi rất nhiều những lý thuyết tâm lý học hiện nay đã được hình thành dựa trên các công trình nghiên cứu của Skinner hơn bất cứ công trình nào của nhà tâm lý học nào khác. 

5. Lời kết 

Theo ông, kẻ xấu làm những việc xấu vì điều xấu chính là phần thưởng của họ. Người tốt làm những việc tốt vì điều tốt là phần thưởng đối với họ. Sẽ không bao giờ có những phẩm chất hoàn hảo một cách tuyệt đối, nó luôn được củng cố và được trao thưởng trong quá trình con người tồn tại. Ngay trong lúc này, những tác nhân củng cố cho những hành vi tốt hay xấu thật ra rất khó xác định và vượt ra khỏi những tiêu chuẩn kiểm soát của chúng ta. Đa số các việc làm của Skinner đều mang tính thử nghiệm ở phòng thí nghiệm, tuy nhiên, một số người khác đã sử dụng ý tưởng của ông trong giảng dạy, các vấn đề quản lý con người và lập kế hoạch xã hội.

Thời bấy giờ đã có nhận xét cho rằng “Ít có nhà tâm lý học Mỹ nào lại có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển tâm lý học và sự định hướng đối với những nhà khoa học trẻ triển vọng đến như vậy”. Những đóng góp của Skinner cho tâm lý học hành vi đã, đang và sẽ còn được ứng dụng trong dạy học và giáo dục. 

Nội dung: Gia Bảo, Huyền Diệu, Kim Hoa, Tuyết Nhung.

Thiết kế hình ảnh: Hữu Nhơn, Thị Bích, Xuân Nhi.

Tài liệu tham khảo

1. Cherry, K.. [2014]. Tiểu sử BF Skinner [1904-1990]. Truy xuất ngày 30/01/2022 từ: //vi.reoveme.com/tieu-su-bf-skinner-1904-1990/ 

2. Nguyễn Hoàng Vũ, Nguyễn Thị Hương, La Thị Anh Thư, Lâm Thị Hồng, Lê Thị Mỹ An, Trần Dương Phong, Tô Hồng Tuấn & Thạch Vũ Mai Phương. “Skinner – Tiểu sử và thành tựu”. [Bài giữa kì môn Lâm sàng 2, Đại học KHXH&NV]. Truy xuất ngày 08/02/2022 từ: //tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com/2018/10/lam-sang-2-skinner-giua-ky-v2.pdf.

3. Sainte Anastasie. Lý thuyết củng cố của B.F. Skinner. Truy xuất ngày 30/01/2022 từ: //vi.sainte-anastasie.org/articles/psicologa/la-teora-del-reforzamiento-de-b-f-skinner.html

4. Thanhbinh Psy Website. Burrhus Frederic Skinner Là Ai?. Truy xuất ngày 30/01/2022 từ: //thanhbinhpsy.com/burrhus-frederic-skinner-la-ai/

5. The Biography.com website.[02/04/2014].Burrhus Frederic Skinner. Truy xuất ngày 30/01/2022 từ: //www.biography.com/people/bf-skinner-9485671.

6. Wikipedia. Burrhus Frederic Skinner. Truy xuất ngày 31/01/2022 từ: //en.m.wikipedia.org/wiki/B._F._Skinner

Chủ Đề