Bao nhiêu ngày kể từ 3/9/2002

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN NGÔ ĐỒNG


LỊCH SỬ

ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN

THỊ TRẤN NGÔ ĐỒNG

[1930-2010]

Xuất bản - năm 2015

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN

THỊ TRẤN NGÔ ĐỒNG - HUYỆN GIAO THỦY

[1930 - 2010]


BAN CHỈ ĐẠO

- Nguyễn Hồng Kiên: Bí thư Đảng ủy,

Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thị trấn.

- Doãn Công Kỳ : Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy.

- Phùng Thế Truyền : Phó Bí thư Đảng ủy,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị trấn.

- Nguyễn Ngọc Thông : Ủy viên Thường vụ Đảng ủy,

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị trấn.

BIÊN SOẠN

Nguyễn Ngọc Phan

BIÊN TẬP

Nguyễn Chi Yến

CUNG CẤP TƯ LIỆU

Phùng Hữu Hãn

Phan Văn Hiến

Nguyễn Văn Minh

Phan Phi Hồng

Phan Văn Thìn

Doãn Hỗ

Phùng Hữu Hùng

Nguyễn Văn Thư
LỜI GIỚI THIỆU

Ngô Đồng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của huyện Giao Thủy, nơi tập trung các đầu mối giao thông quan trọng và các cơ quan đầu não của huyện nhà. Thị trấn có lịch sử hình thành khá sôi động, phong phú, là một trong những mảnh đất được hinhh thành sớm nhất trong huyện Giao Thủy. Qua quá trình phát triển và nhiều lần tách, nhập về hành chính, đến nay Thị trấn gồm 3 làng Hoành Đông, Diêm Điền, Hoành Nhị. Thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị 14-CT/TU ngày 22/4/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nam Định và chỉ đạo của Huyện ủy Giao Thủy; để ghi lại quá trình hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn qua các thời kỳ cách mạng, rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo; làm cơ sở để tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, Đảng bộ Thị trấn đã quyết định triển khai sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn, xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Ngô Đồng từ 1930 đến 2010.

Cuốn sách gồm 5 chương, ghi lại quá hình thành, phát triển từ khi mở đất cùng với các phong trào cách mạng sôi động của nhân dân Thị trấn trong các thời kỳ cách mạng từ khi Đảng ta ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập trong cách mạng Tháng 8/1945; sau đó tiến hành 2 cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp [1945-1954], chống Mỹ [1954-1975] giành thắng lợi, thực hiện thống nhất đất nước và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội từ 1975 đến nay.

Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị trấn về việc cung cấp tư liệu, đóng góp ý kiến, ủng hộ về tinh thần, vật chất, giúp cho việc tái hiện lịch sử địa phương thêm sinh động, phong phú.

Với tinh thần lao động nhiệt tình, trách nhiệm, Ban Biên tập đã hết sức cố gắng để sưu tầm, biên soạn, tái hiện được những nét cơ bản nhất của quá trình hình thành, phát triển cùng những thành tựu to lớn đạt được của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn qua các thời kỳ, đảm bảo tính trung thực, khách quan. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, kết tinh giá trị trí tuệ, công sức của cả tập thể Đảng bộ và nhân dân Thị trấn. Các đánh giá, kết luận rút ra đều được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, do đó có giá trị khoa học, tính phản ánh và giáo dục cao.

Tuy nhiên, do điều kiện hạn hẹp về thời gian, trình độ biên soạn có hạn và công tác bảo quản tài liệu trước đây còn nhiều hạn chế, tư liệu nhiều chỗ không đầy đủ, cuốn sách khó tránh được những thiếu sót. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị trấn mong tiếp tục nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn đọc gần xa để khi tái bản cuốn sách sẽ hoàn thiện và đáp ứng tốt hơn.

Ban Chấp hành Đảng bộ xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ và cộng tác nhiệt tình, trách nhiệm của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nam Định, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Giao thủy, các đồng chí cán bộ, đảng viên, các đồng chí trong Ban Biên tập và nhân dân đã cung cấp tư liệu, góp ý, giúp đỡ và biên soạn, góp phần nâng cao chất lượng cuốn sách. Cuốn sách là tài liệu quan trọng để cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức, hiểu biết hơn về lịch sử đấu tranh, phát triển của Đảng bộ Thị trấn, từ đó tự hào với truyền thống vẻ vang của Đảng bộ và cố gắng nỗ lực vươn lên, phấn đấu xây dựng Thị trấn ngày càng giầu mạnh, văn minh.

Nhân dịp kỷ niệm 84 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [3/2/1930-3/2/2014], thay mặt Ban Chấp hành Đảng bộ, chúng tôi xin giới thiệu với các đồng chí và bạn đọc cuốn Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Ngô Đồng 1930-2010.

BCH ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN NGÔ ĐỒNG


Chương I

NGÔ ĐỒNG - MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYÊN THỐNG YÊU NƯỚC

*****

1. Sự hình thành mảnh đất, con người của Thị trấn

Thị trấn Ngô Đồng là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của huyện Giao Thủy; được thành lập theo Quyết định số 34/HĐBT ngày 01/4/1986 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng [nay là Thủ tướng Chính phủ], gồm: làng Hoành Đông, một phần làng Hoành Nhị và một phần của làng Diêm Điền. Phía đông bắc của Thị trấn giáp tỉnh Thái Bình [sông Hồng là ranh giới] và xã Hồng Thuận; phía đông nam giáp xã Bình Hòa và xã Giao Hà, [sông Cồn Nhất là ranh giới]; phía tây bắc giáp xã Xuân Phú [Xuân Trường]; phía tây nam giáp xã Hoành Sơn [sông Bến gánh là ranh giới]. Thị trấn có diện tích tự nhiên là 271,1 ha, trong đó đất nông nghiệp là 114,05 ha[[1]]; có tỉnh lộ 489 chạy từ Bắc xuống Nam và huyện lộ 482 chạy từ Đông sang Tây. Dân số tính đến năm 2010 là 6.846 nhân khẩu, gồm 1.809 hộ.

Với hệ thống giao thông thủy, bộ đa dạng, Ngô Đồng là đầu mối giao lưu trong huyện, có thị trường trao đổi hàng hóa thuận tiện trong tỉnh và với tỉnh Thái Bình, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.

Quá trình hình thành thị trấn Ngô Đồng gắn liền với lịch sử hình thành huyện Giao Thủy. Từ hàng ngàn năm trước, vùng đất Giao Thủy còn là biển cả, rồi hàng năm được phù sa từ thượng nguồn sông Hồng bồi tụ tiến dần ra biển khơi [[2]] hình thành nên những dải đất này, được con người từ sâu trong nội địa tiến ra khai phá, cấy trồng, tạo dựng nên những xóm làng từ mấy trăm năm trước.

Chỉ tính từ thời Hậu Lê, thời Lê Cảnh Hưng [1740-1786], năm Canh Ngọ, tổng Hoành Nha được thành lập đã có các làng Hoành Nhất, Hoành Nhị. Hai làng này được hình thành vào hàng sớm nhất trong huyện Giao Thủy. Trước đây làng Hoành Nhất giáp với làng Nguyệt Giám [Kiến Xương - Thái Bình] [[3]]. Thời gian đó, dòng sông Hồng Hà từ thượng nguồn chảy qua cửa Hà Lạn rồi đổ ra biển Đông ra cửa Hà Lạn [[4]]. Các làng Hoành Nhất, Hoành Nhị, khi đó nằm ở bên tả ngạn sông Hồng. Do biến động của tự nhiên Ba Lạt phá hội [[5]] [1786], sông Hồng Hà, làng Hoành Nhất bị chia cắt, một phần đất đai từ đó chuyển từ tả ngạn sang hữu ngạn. Cửa Ba Lạt cũng lùi dần ra phía biển từ Cồn Nhât, Cồn Nhì, Cồn Ba, Cồn Tư, Cồn Năm rối Cồn Lu, Cồn Mờ ngày nay. sông từ cửa Ngô Đồng đến cửa Hà Lạn ngày một thu nhỏ dần. Do lắm tôm nhiều cá, nghêu, sò, ốc hến nên có tên gọi là sông Sò.

Hàng trăm năm trước, trên mảnh đất này tự nhiên mọc lên cây ngô đồng to lớn, tươi tốt. Nhân dân coi đó là điềm lành với nhiều huyền thoại còn lưu truyền. Ba Lạt phá hội, dòng sông hung dữ đã cuốn mất cả cây ngô đồng. Hình ảnh cây ngô đồng mãi mãi là biểu tượng không phai mờ trong dân gian, được thể hiện trong những câu ca trữ tình[[6]]. Từ đó hai tiếng Ngô Đồng được gắn liên với các địa danh: Đền Cửa Ngô[[7]], Chợ Ngô Đồng, Đồn Đoan Ngô Đồng

Đất đai của huyện Giao Thủy do lượng phù sa bồi đắp ngày một mở rộng ra phía biển. Để khai khẩn mở rộng địa giới, dưới triều Tự Đức thứ bẩy [1858] một số người có thế lực ở Xuân Trường và Giao Thủy đã nhờ cụ Đặng Kim Toán quê ở Hành Thiện, lúc đó đương là Tổng đốc tỉnh Nghệ An [còn gọi là cụ Thượng Nghệ] dâng sớ xin Triều đình cho khai khẩn vùng đất mới ở Giao Thủy; được triều đình phê chuẩn [năm 1861], lập thành 8 ấp [5 ấp thuộc Xuân Trường [[8]] 3 ấp thuộc Giao Thủy là: ấp Hoành Đông, Hoành Nha, Hoành Tân.

Đến triều Thành Thái [1889 - 1907], cụ Cử nhân Trần Công Dương người làng Hoành Đông làm Tri phủ Thuận Thành [Bắc Ninh], dâng sớ lên triều đình xin khai khẩn một phần đất phía nam huyện Giao Thủy và được triều đình chuẩn y. Cụ Trần Công Dương ủy thác cho các cụ Nguyễn Viết Phiên, Phạm Hữu Cảm, Phạm Viết Tuận đứng ra chiêu mộ người các nơi đến khai khẩn lập làng Lạc Nông [Giao Nhân]. Để tỏ lòng tri ân những vị có công, dân làng Lạc nông đã lập đền thờ, tạc bia tri ân công đức của các cụ [bia đá ngày nay vẫn còn lưu giữ tại Đền] và suy tôn cụ Trần Công Dương là Thành hoàng làng Lạc Nông.

Khi nhân dân đến khai khẩn lập nghiệp ở ấp mới, phần lớn là những người nghèo, ai cũng được chia một phần ruộng đất. Nhưng vốn liếng ít, họ chủ yếu dựa vào sức lao động để sản xuất, sinh sống. Cuộc sống của người dân khi đó thường xuyên bị thiên tai, hạn hán đe dọa. Điển hình là trận Hồng Thủy [còn gọi là sóng thần] ngày 12 tháng 5 năm Quý Mão [1903] Theo các cụ già làng kể lại rằng giữa lúc trời yên biển lặng, bỗng có một tiếng nổ dữ dội tư ngoài biển khơi, đất trời rung chuyển, trong lúc mọi người còn bàng hoàng ngơ ngác, không biết điều gì xảy ra thì cơn sóng thần dâng nước cao hơn ngọn tre từ biển ầm ầm đổ vào. Nước cuốn hết nhà cửa, hoa mầu, cây cối. Hàng ngàn người chết và mất tích. Sau trận sóng thần, khó khăn chồng chất, những người còn sống sót thì mất sạch nhà cửa, hoa màu, đất đai bị nhiễm mặn không sản xuất được, bệnh tật hoành hành, đời sống khốn khó, nhiều người trụ không nổi phải bán đất đai nơi ấp mới để trở về quê cũ làm ăn[[9]] . 26 năm sau, tai họa thiên nhiên lại ập đến. Trận siêu bão trên cấp 15 16 ngày 24 tháng 6 năm Kỷ Tỵ [30/7/1929][[10]] ].Theo các cụ kể lại, đây là cơn bão to chưa từng thấy. Diễn biến của cơn bão bắt đầu từ sáng sớm ngày hôm đó. Sau đó mưa gió ngớt dần, trời yên biển lặng và hửng nắng. Tưởng bão đã tan, mọi nhà quét dọn, phơi phóng đồ đạc. Không ngờ đến giữa giờ ngọ [12 giờ trưa], tự nhiên trời đất tối sầm, bão gió ầm ầm đổ về, nhà cửa, cây cối đổ gẫy, nước biển tràn qua đê, nhiều người chết và mất tích.

Dân gian có thơ rằng:

Đang cơn giông tố đại phong,

Nhà xiêu cây đổ hãi hùng lo toan.

Bây giờ cất gió đã khoan,

Nghĩ rằng vô sự bình an cả rồi.

Nào ngờ qua Ngọ sang Mùi,

Nhà đổ cây gẫy trời ơi hỡi trời.

Đền, chùa, đình, quán mọi nơi,

Đổ tường ném gạch kéo ngang cả tòa.

Một làng là mấy trăm nhà,

Nhà nào khéo chống may ra mới còn.

Nước dâng cao tựa núi non,

Biết bao làng mạc chẳng còn một ai.

Thuyền đinh ba chục thước dài,

Một cơn sóng gió bêu ngoài ngọn đa.

Dưới chính thể thực dân, phong kiến, bộ máy cai trị, dưới tỉnh có phủ, dưới phủ có huyện, sau đó chúng bỏ cấp phủ vì cơ cấu chồng chéo. Năm 1933, huyện lỵ Giao Thủy và đồn Đoan được xây dựng trên đất Ngô Đồng. Từ đó nới đây trở thành trung tâm chính trị, kinh tế của huyện Giao Thủy. Nhiều quan chức của chế độ đó đến định để đến nhiệm sở làm việc như Hàn Sinh [Hàn Lâm], Nghị Chức [Nghị viên], Lục Tạo [Lục sự], Thừa Thái, Thừa Thân [Thừa phái], nho lại. Nhiều người từ các nơi đến kinh doanh, buôn bán, hình thành khu phố huyện, phố Cầu Diêm; đặc biệt phố Ngô Đồng nhiều của hàng, cửa hiệu mọc lên, có cả những nhà buôn bán lớn như hiệu Vĩnh Thịnh, Đồng Lợi, Tập Thái Hòa ... Với địa thế nằm trên trục đường 54 mở rộng, xe cộ qua lại thuận tiện. Đường thủy trên bến, dưới thuyền đò ngang, đò dọc xuôi ngược thông thương tới Nam Định, Hà Nội [[11]]. Chợ búa đông đúc sáng chiều, phố xá hai bên bờ sông kẻ buôn người bán diễn ra tấp nập, đông vui [[12]], có nhà thơ từng ca ngợi:

Ngô Đồng nguyệt hướng hoài trung chiếu

Dương liễu phong lai điện thường suy.

Tạm dịch:

Bóng trăng chiếu hoài, hướng vào Ngô Đồng

Từ hàng dương liễu gió sinh ra, tưởng như cung điện trong mơ.

Tính từ thời Hậu Lê các cụ Tổ làng Hoành Nhị, Hoành Nhất sau đổi là Hoàng Đông[[13]] đưa con cháu về đây khai khẩn lập ngoài phần đất cựu, còn phần lớn là đất tân bồi nên sông ngòi kiến tạo dọc ngang, chằng chịt, lắm tôm nhiều cá. Thời điểm đó, một số bà con làm nghề chài lưới từ Thanh Hóa ra, từ Diêm Điền, Trình phổ, phủ Thiên Trường [nay là tỉnh Thái Bình], thường xuyên lui tới đây, đêm đêm đi chài lưới đánh bắt tôm cá, ngày ngày lên bãi Bạch Sa[ Hoành Đông] và Gia Lương[ Hoành Nhị] che lán tạm nghỉ ngơi, phơi chài lưới. Qúa trình tạm trú bà con đã dâm xỉa gieo cấy những cây rau mầu thêm thắt cho bữa ăn hàng ngày. Lúc đầu chỉ vài ba lán đơn sơ, sau số lán cứ tăng dần thành khu dân cư. Rồi bà con dâng sớ lên triều đình, sớ rằng: bà con có công đến đây, khai khẩn quật lập trên mảnh đất này. Từ đó, sự tranh chấp giữa ba làng trở lên rất căng thẳng. Vụ kiện kéo dài vì đất nước loạn lạc[ Trịnh- Nguyễn phân tranh]. Chỉ khi cuộc nội chiến này kết thúc, triều đình nhà Nguyễn được thiết lập, vụ kiện mới khép lại, đất đai làng Diêm Điền chính thức được ghi trong Gia long địa bạ[ 1802-1819][[14]] . Dưới thăng trầm lịch sử, mâu thuẫn giữa ba làng thêm sâu sắc, kéo dài. Chỉ từ sau cách mạng tháng Tám 1945, mối bất hòa mới dần dần phai mờ trong quên lãng. Giờ đây ba làng lại đoàn kết chung sống cùng một đơn vị, hướng về tương lai, xây dựng thị trấn Ngô Đồng ngày một tươi đẹp về nếp sống văn hóa, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng an ninh.

Cuối thế kỉ XIX[ 1890], một sự kiện khác lại xảy ra, trong giới hào lý làng Hoành Đông, bè phái tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Sự bất hòa, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến đòi phân cách, phân chia đất đai, thành lập làng mới Đông Bình, được Chính phủ bảo hộ, phong kiến chuẩn y. Song nhân dân hai làng vẫn thường xuyên lui tới thăm viếng, giỗ, tết cùng nhau. Sau cách mạng tháng Tám 1945, hai làng lại hợp nhất thành xã Đông Hòa[ 1946], Giao Điền Hòa[ 1952]. Cải cách ruộng đất thành hai xã Giao Hòa, Giao Bình, Bình Hòa[ 1968]. Năm 1986 tách một phần địa giới[ khu 4b] của làng Diêm Điền[ Bình Hòa] sát nhập vào thị trấn Ngô Đồng.

Làng Hoành Nhị cũng có quá trình lịch sử lâu đời. Từ cuối thế kỉ XV, thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức [1470]. Đến thế kỷ XVIII[1786], các cụ Tổ họ Phùng, họ Bùi, họ Doãn sau đó là hộ Tô, họ Lê đưa con cháu về đây khai khẩn, lập làng trên vùng bãi bồi do phù sa sông Hồng tạo nên. Năm Minh Mạng thứ IX[ 1829], Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ về thị sát vùng duyên hải, thấy phía nam làng Hoành Nhị, còn một vùng đất hoang sơ, chưa có cư dân ở. Ông đã quyết định cất 120 mẫu đất nơi đây để đưa dân nơi khác đến thành lập làng Khắc Nhất[ nay thuộc về xã Hoành Sơn]. Sau cách mạng tháng Tám 1945, làng Hoành Nhất và Khắc Nhất hợp thành xã Hoành Sơn[ 1946], sau đó đổi thành xã Giao Sơn[[15]] [1952]. Cải cách ruộng đất xã Giao Sơn tách 6 xóm[[16]] phía đông nam của xã để thành lập xã Giao Hà[ địa giới phân định là sông Cồn Nhất trở ra]. Năm 1969, xã Giao Sơn và Giao Hoành hợp nhất thành xã Hoành Sơn. Năm 1986, tách thôn Sơn Thọ tức làng cựu Hoành Nhị sát nhập vào thị trấn lập thành ba khu phố: 5a, 5b và 6, gồm 5 xóm: xóm Đông, xóm Đình, xóm Đá, xóm Cát, xóm Trùm[ xóm Trùm nay thuộc xã Hoành Sơn].

*Bản sắc văn hóa và phong tục tập quán

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các cư dân Việt đã hình thành lên bản sắc văn hóa độc đáo, không bị đồng hóa và hòa tan. Đó là lòng yêu nước thiết tha, tinh thần tự tôn dân tộc "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", tình thương yêu nhân loại "thương người như thể thương thân", "nhiễu điều phủ lấy giá gương/ người trong một nước phải thương nhau cùng", là tình phụ tử nghĩa phu thê "công cha như núi Thái Sơn/ nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", kính già yêu trẻ, tôn sư trọng đạo ... và biết bao nét đẹp văn hóa khác được thể hiện trong hương ước của làng xã. Hàng năm cứ tết đến xuân về, dù đi khắp bốn phương trời, ai nấy đều hướng về quê hương đất tổ, nơi cội nguồn cắt rốn chôn rau, xum vầy cùng nhau, mọi ưu phiền giận dữ đều bỏ qua và tha thứ, cầu chúc nhau hạnh phúc, mạnh khỏe an khang, thịnh vượng.

Vào dịp đầu xuân, ba làng đều mở hội rước thần, tế lễ, cầu cho quốc thái dân an. Ngoài phần lễ, phần hội có các trò vui: hát chèo, ca trù. chầu văn, vật, cờ tướng, thổi cơm thi, thi cỗ yếu, mừng thọ các cụ ở tuổi 60 trở lên. Các dòng họ đều tổ chức lễ khao tổ , con cháu xa gần về hội tụ tri ân tiên tổ và mừng thọ các cụ cao niên. Các gia đình có lễ cầu an, cầu tài, cầu lộc đầu năm.

Hằng năm có ba làng có tục lệ "Hạ điền" tế Thần nông, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Cuối vụ thu hoạch xong, tổ chức lễ "Thượng điền" cúng cơm mới tạ ơn trời đất. Tuy nhiên bên cạn những nét đẹp văn hóa nói trên cũng còn nhiều hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, lệ làng hết sức khắt khe, phiền toái [[17]].

* Bộ máy cai trị của chế độ cũ:.

Dưới thời phong kiến, đất nước chia thành lộ, phủ; thời Nguyễn chia thành tỉnh, huyện; dưới là tổng, xã, thôn, ấp, trại, xóm. Từ khi xâm chiếm nước ta, thực dân Pháp vẫn giữ nguyên bộ máy của chế độ cũ song song tồn tại cùng bộ máy đô hộ mới của chúng. Trung ương có vua quan triều đình nhà Nguyễn và Phủ toàn quyền Đông Dương; tỉnh có Tổng đốc [người Việt] và Chánh sứ [người Pháp], huyện có tri huyện; tổng có Chánh, Phó tổng [[18]] , xã có Lý trưởng, Phó lý, Chưởng bạ [điền địa], Thư ký Hộ lại [hộ tịch], Thủ quỹ và Tuần tráng [trật tự trị an].

Cùng với bộ máy công quyền, xã còn có Hội đồng kỳ mục, gồm những người có chức danh, bằng sắc, phẩm tước [như Chánh, Phó tổng, Lý trưởng, Phó lý] đã mãn nhiệm và đại biểu các dòng họ [gọi là Tộc biểu]. Những người có chức tước cao hơn được cử làm Tiên chỉ.

Năm 1941, Hội đồng kỳ mục lại đổi thành Hội đồng hương chính, có Chánh, Phó Hương hội và bầu Tiên, Thứ chỉ[[19]]. Hội đồng hương chính có nhiệm vụ định ra Hương ước [Lệ làng]. Bên cạnh những mặt tích cực, Hương ước thời gian này cũng quy định nhiều điều phiền toái, như tục khao vọng, mua ngôi, bán chức. Nhiều người phải chạy vạy, vay mượn, cầm cố ruộng đất để mua được một ngôi thứ trong làng xã để khỏi mang tiếng là dân bạch đinh. Hậu quả sau đó là họ phải nai lưng ra làm trả nợ[ được chỗ ngồi trôi chỗ ở]. Khốn khổ nhất là những người đến nhập cư, bị coi là mạt đinh, dân ngụ cư[[20]], họ phải gánh chịu mọi phu phen, tạp dịch gấp đôi, nhưng quyền lợi được hưởng lại không được bằng người dân bản xứ. Sự phân hóa xã hội về đẳng cấp diễn ra ngày càng bất công, sâu sắc.

*Về tôn giáo, tín ngưỡng, từ lâu đời ông cha ta vốn có lòng nhân từ, bác ái, gần gũi với tư tưởng, giáo lý đạo Phật, như từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạnđồng thời kết hợp với đạo Khổng, lấy nhân, nghĩa, hiếu, trung, trí, tínlàm trọng. Ngay từ những buổi đầu xây dựng làng, xã, sau một thời gian ổn định, nhân dân đã xây dựng đền, chùa và các nhà thờ họ để cầu cúng, tưởng niệm tổ tiên, ông bà, cha mẹ, ghi công các vị tiền nhân có công với dân, với nước. Ba làng Hoành Đông, Hoành Nhị, Diêm Điền đều có các đền, chùa, miếu, phủ thờ các vị thành hoàng. Đền làng Hoành Đông thờ đức Đông Hải Đại vương tướng quân Đoàn Thượng [thời Lý], có công chống quân Tống xâm lược[[21]]. Là một làng ở cạnh sông Hồng nên ông cha ta đã xây dựng Đền Cửa thờ Thủy Đế Long Vương [Thánh Thủy] [[22]].

Đền chùa Diêm Điền được xây dựng từ thời Nguyễn, kiến trúc bên trong toàn bằng gỗ lim, rất vững chắc và có dáng vẻ cổ kính. Làng Diêm Điền còn có 1 ngôi đền ở giáp phố huyện, thường gọi là đền Tây [phía Tây làng]. Tháng 3/1950, khi Tùng Lâm Phật giáo ra đời đã biến nơi đây thành Huyện hội Phật giáo. Các tăng ni trong toàn huyện đã về đây khai hội, mở lễ rất đông vui, sau đó đền này bị giặc tàn phá. Đến năm 1961, địa phương xét thấy không có khả năng tôn tạo lại được nữa nên đã nhượng lại cho huyện làm khu vực Bưu điện huyện hiện nay.

Đền làng Hoành Nhị thờ đức Linh Lang Đại vương, tướng quân triều Lý, có công trấn giữ thành Thăng Long.

Ở Ngô Đồng trước đây đạo Thiên chúa ít phát triển. Trong thời gian địch chiếm Giao Thủy, đóng bốt Ngô Đồng [10/1949], để phục vụ cho những lính ngụy theo đạo có nơi cầu nguyện, chúng đã cho dựng một nhà thờ [lúc đầu gọi là nhà nguyện, sau gọi là đền khấn]. Sau khi địch rút đi [7/1954] ngôi đền được giữ gìn, nay được tu tạo lại, phục vụ nhu cầu của nhân dân có đạo trên địa bàn.

Về truyền thống hiếu học, nhân dân ba làng đều có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Qua các triều đại đã có nhiều người đỗ đạt cao, cả văn lẫn võ, được triều đình bổ nhiệm làm quan.

- Làng Hoành Nhất [Hoành Đông], có cụ Trần Công Dương [còn có tên là Trần Ngọc Toàn], đỗ Cử nhân, đã từng làm Tri huyện Yên Mô [Ninh Bình] và Tri phủ Thuận Thành [Bắc Ninh] và có 2 Thiên hộ, 5 lễ sinh, 1 tú tài, 6 nhất trường.

- Làng Hoành Nhị, có, cụ Phùng Gia Công Tự Phúc Nghiễm được triều Nguyễn sắc phong Dực bảo trung hưng, cụ Phùng Gia Công tự Phúc Ninh [con cháu gọi là cụ Điện Ninh] làm quan Giám điện tiền triều Nguyễn; cụ Phùng Hữu Khang làm Tri huyện Đông Quan [Thái Bình] và có một Thiên hộ, 1 tú tài, 2 nhị trường.

- Làng Diêm Điền, có cử nhân võ Nguyễn Văn Cừ, làm trấn ải Tuyên Quang.

Phát huy truyền thống hiếu học của tổ tiên, ngay từ thời xa xưa, cùng với việc xây dựng đền, chùa, ông cha ta còn xây dựng văn chỉ, võ chỉ để hàng năm hội tụ văn, võ đến đây cúng tế, nhằm động viên con cháu học hành và rèn luyện thân thể cường tráng để bảo vệ Tổ quốc. Riêng văn chỉ còn là nơi danh lam thắng cảnh của địa phương, hàng năm các nhà nho thường đến đây tụ hội để bình thơ. Với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, nhân dân ba làng Hoành Đông, Hoành Nhị, Diêm Điền đều lập Văn chỉ thờ đức Khổng Tử-Tổ Sư nền Nho học; dựng bia ghi học hàm, học vị những người đỗ đạt, thành danh[[23]].

Thời phong kiến, việc học hành được coi trọng, sinh đồ qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình để đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Riêng triều Nguyễn học vị Trạng nguyên bị bãi bỏ, chỉ có danh hiệu Tam Nguyên để chỉ những người đỗ đầu trong các cuộc thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thời đó, ở các làng cũng đã có nhiều người thành đạt. Năm 1915 là kỳ thi Hương cuối cùng và từ đó khoa bảng chữ Hán không còn nữa, việc dạy học chuyển sang chữ Nôm [Việt hóa] và chữ Quốc ngữ. Từ năm 1916 1945, ở các làng còn có các thầy đồ, thầy khóa mở lớp tại gia, vừa dạy chữ quốc ngữ và một phần chữ Hán - Nôm. Đến cuối triều Bảo Đại thì chữ Hán, chữ Nôm hầu như không dùng, nên không còn người dạy và người học. Trên các văn bằng chứng chỉ không còn ghi bằng chữ Hán mà ghi bằng Quốc ngữ và Pháp ngữ.

Dưới thời thuộc Pháp, thực hiện chính sách ngu dân, thực dân Pháp rất hạn chế việc mở trường; cả huyện Giao Thủy chỉ có 4 trường tổng sư, chương trình học chỉ hết lớp 3. Ngô Đồng tuy là nơi trung tâm của huyện cũng chỉ có một trường tổng sư, do một giáo viên giảng dạy. Năm 1933, chúng mới cho mở trường Tiểu học công lập, từ lớp 1 đến lớp 4, tại Diêm Điền [do thầy giáo Tiếu và thầy giáo Dương dạy]. Học sinh phần lớn là con cái các quan lại và những nhà khá giả trong khu vực. Những người có điều kiện và muốn học cao hơn thì phải lên Xuân Trường; cả 2 huyện Giao Thủy - Xuân Trường chỉ có một trường tương đương cấp II ở Xuân Trường. Mãi đến năm 1940, do tinh thần đấu tranh của các nhà cách mạng, thực dân Pháp mới cho mở ở mỗi làng một trường hương sư, do một giáo viên ngoài ngạch [tức là không ở trong biên chế nhà nước] dạy. Năm 1943, trường kiêm bị Diêm Điền [trường cấp 1], mới được thành lập, có 2 giáo viên. Vì vậy trong suốt 1 thời gian dài, địa phương chỉ có một vài con nhà khá giả có tiền đi học mới đỗ được bằng xecstipica [hết cấp 1], còn lại hơn 95% nhân dân bị mù chữ.

Sau khi hoàn thành việc xâm lược nước ta, thực dân Pháp và bộ máy tay sai đã khuyến khích các dạng văn hóa đồi trụy. Cùng với sự đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa, dùng rượu cồn, thuốc phiện, sòng bạc làm ngu muội dân chúng, thực dân Pháp còn dung túng, lôi kéo thanh niên đi vào con đường ăn chơi sa đọa, cho phép mở nhà thổ, cô đầu ở phố Cầu Diêm và phố huyện, duy trì những hủ tục lạc hậu, truyền bá nọc độc văn hóa, kìm hãm sự phát triển dân trí để dễ bề cai trị như: Mở sòng bạc, nhà thổ, cô đầu, con hát, mê tín dị đoan để mê hoặc nhân dân.

Người dân Ngô Đồng trước đây chủ yếu là sống bằng nghề làm ruộng, chỉ có một số ít người làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt, chạy chợ và nấu rượu. Thực dân Pháp không những độc quyền về muối mà còn độc quyền cả về rượu [rượu cồn]. Chúng xây dựng nhà máy rượu Nam Định, đặt chi nhánh tại phố huyện Giao Thủy để dễ bề kiểm soát và triệt để cấm nấu rượu trong nhân dân, rượu của dân nấu chúng cho là rượu lậu. Đồn đoan Ngô Đồng có Chánh, Phó đoan người Pháp, cai đội lính khố xanh người Việt và bọn tay sai gian ác như Vũ Văn Chắt [Quản Chắt] và Vũ Văn Nghị. Bọn này thường xuyên rình mò vào các dong xóm để thám thính. Khi phát hiện thấy nhà nào khả nghi là chúng tới xục xạo, nếu thấy có đồ nghề nấu rượu hoặc trong nhà có chút ít rượu là chúng bắt phạt tiền; ai không nộp thì chúng tịch thu gia tài và phạt tù. Khi chúng muốn cướp tiền hoặc thù oán ai, chúng cho tay chân ngầm dấu vào nơi ở, thậm chí cả mảnh ruộng ngoài đồng của gia đình đó, rồi đến khám xét bắt phạt vạ [nhân dân gọi đó là hành động hỏa quang hay tiêu xưng]. Căm ghét bọn chúng, nhân dân trong vùng đã làm tờ rơi vạch mặt bọn chúng, dán khắp phố Ngô Đồng và phố huyện:

Tôi Quản Chắt phố Ngô Đồng,

Ỷ vào thế Tây, bóc lột dân mình.

Tôi Vũ Nghị, em Quản Chắt,

Chó săn sục sạo, rình bắt đồng bào.

Trong khi hầu hết người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông, đất đai lại đều là công điền công thổ. Sự phân chia ruộng đất trong xã hội lại rất bất bình đẳng. Mỗi khi cấp ruộng, bọn hương lý, kỳ hào, những kẻ có chức có quyền đều gành những bờ sôi ruộng mật. Những phần ruộng hạ đẳng điền, năng suất thấp, ruộng xa, ruộng xấu mới cấp cho dân bạch đinh, mà cũng ít khi dân nghèo được cấp đủ phần suất. Được mùa hay mất mùa, người dân đều phải nộp đủ sưu thuế [thuế thân và thuế điền], ngoài ra còn các khoản phụ thu, lạm bổ vô lý khác. Chúng còn dành một số ruộng để đấu giá lấy tiền chè chén hàng năm. Phụ nữ không được cấp ruộng, những người chồng chết trẻ, mồ côi cũng chỉ được cấp một phần, gọi là ruộng cô nhi quả phụ; riêng người dân ở nơi khác đến [ngụ cư] chỉ được cấp 1/3 hoặc nửa suất. Ngoài ra còn biết bao thứ ruộng: ruộng lưu trù, ruộng thần từ, phật tự, tộc điền, lệ điền, yến điền, nhạc điền, bút điền Những thứ ruộng này khi đấu lại lọt vào tay những người giàu, có thế lực như cường hào, địa chủ. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và trắng trợn, bọn địa chủ kỳ hào đã tìm mọi cách để bóc lột nhân dân đến tận xương tủy. Chúng dùng tiền đấu ruộng, rồi cho nông dân cầy cấy để thu tô, có người đã đấu tới 2- 3 chục mẫu ruộng. Với các xã quanh vùng, các địa chủ lớn dùng cách cho vay nặng lãi, rồi phát canh thu tô, bóc lột nhân công, sau đó lợi dụng lúc người nông dân túng thiếu, cùng quẫn thì mua với giá rẻ hoặc chiếm dụng ruộng đất. Bằng cách đó, ruộng đất của nông dân từng bước bị chiếm đoạt, người nông dân dần trở thành tay trắng phải đi làm thuê kiếm ăn, cuộc sống vô cùng đói khổ.

Nhiều người túng bấn chỉ còn cách bán ruộng hoặc vay nợ lãi để lấy tiền nộp sưu thuế, tô tức, chỉ còn hai bàn tay trắng, không một tấc đất cắm dùi, hàng năm phải đi cày thuê cuốc mướn bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để trang trải cuộc sống gia đình. Càng ngày họ càng lún sâu vào con đường phá sản, bần cùng, có người phải rời bỏ quê hương đi Tân Thế giới hoặc đồn điền cao su Phú Riềng[[24]].

Chính quyền thực dân phong kiến còn đặt ra hàng trăm thứ thuế để vơ vét, bóc lột nhân dân như: thuế thân, thuế điền, thuế thổ.

Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt,

Rút dần dân như thắt chỉ xe.

Mỗi suất thuế là 5 đồng mà giá thóc ngoài chợ có 0,2 đồng/thùng [11 kg], nhân dân không có tiền để nộp thuế, phải bán vợ, đợ con. Xóm thôn ngày đêm diễn ra cảnh bọn tuần đinh cùng với lính huyện săn lùng bắt người thiếu thuế. Nhiều người đã bỏ quê hương ra đi không bao giờ trở lại. Có người bị chúng bắt trói, kìm kẹp ở sân đình, tiếng khóc than thảm thiết. Ở Hoành Nhị, Hoành Đông, bọn lý trưởng còn dỡ nhà, bắt đồ đạc người thiếu thuế, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết.

Nửa đêm thuế thúc trống dồn,

Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy.

2. Đời sống kinh tế- xã hội và truyền thống đấu tranh của nhân dân thị trấn trước năm 1930.

Có áp bức, tất có đấu tranh; càng khổ cực về vật chất, bị đầu độc, chèn ép về tinh thần, nhân dân càng vùng lên đấu tranh mạnh mẽ. Nhiều người đã hăng hái tham gia các cuộc khởi nghĩa do các sĩ phu yêu nước hoặc những người nông dân lãnh đạo. Năm 1821 - 1827 nhiều người dân trong vùng đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành [tức Phan Bá Vinh] nổi dậy ở làng Minh Giám, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình[[25]]. Tiêu biểu như ông Doãn Ké làng Hoành Nhị đã làm tướng cho nghĩa quân Phan Bá Vành [sau bị bắt và bị chém đầu].

Ngay từ khi thực dân Pháp vào xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương, cử nhân Trần Công Dương[[26]]- Tri phủ Thuận Thành[ Bắc Ninh] đã cùng với các sĩ phu yêu nước treo ấn từ quan, trở về địa phương mưu sự nghiệp chống Pháp để cứu nước cứu nhà. Cụ đã cùng với cụ Nghè Tam đăng Phạm Văn Nghị, Cử nhân Lê Quả Dục [Hoành Nha], Phó bảng Trần Xuân Sắc [Thái Bình] và học trò Vũ Văn Lợi [nghè Rao Cù] gia nhập phong trào Cần Vương. Cuối năm 1884, sau khi triều đình nhà Nguyễn đã kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt, nước ta hoàn toàn rơi vào tay Pháp, chủ trương của các nhà lãnh đạo Văn thân lúc này là bí mật quyên tiền trong nhân dân để xây dựng nghĩa quân, đánh chiếm lại thành Nam Định. Vì có nội phản[[27]], công việc bại lộ, thực dân Pháp đã bắt được cụ nghè Rao Cù, chúng đã hành hình Cụ ngay đêm 30 tết năm 1885.

Thương xót người sĩ phu yêu nước đồng thời là người học trò tin cậy, cụ Trần Công Dương đã làm bài thơ viếng:

Ngã quốc Đại Nam quân Hàm Nghi,

Ta tai thành quách thập toàn phi,

Quân rỹ khứ niên trừ tịch khứ,

Ngã rỹ khứ niên trừ tịch bi,

Sư đệ thốn tình ta rỹ hỹ,

Quân thần đại nghĩa nại hà chi,

Ngã lai nhất chước bằng phong điếu,

Đỗng khốc phi quân cánh vị thùy [[28]].

Dịch thơ:

Đất nước từ Hàm nghi đến nay,

Còn đâu thành quách, ôi đổi thay,

Trừ từ tịch qua người vắng mãi,

Trừ từ tịch ấy đau lòng này,

Sư đệ tình riêng đành đứt đoạn,

Quân thần nghĩa cả tính sao đây?

Viếng đưa một chén nhờ hương gió,

Chẳng khóc thương người, thương khóc ai [[29]].

Mưu lớn chưa thành, lại bị quân Pháp truy lùng gắt gao, cụ Nghè Tam đăng Phạm Văn Nghị phải bí mật rút vào động Hoa Lư [Ninh Bình] và qua đời ở đó. Trước tấm lòng tận trung với đất nước, Triều đình đã tổ chức lễ tang cụ theo nghi lễ quốc gia. Cụ Trần Công Dương, người bạn cùng lý tưởng đã đến dự lễ tang cụ Phạm Văn Nghị và có câu đối viếng:

Tích yên nghĩa lộ nhân can, độc bộ ba đào câu nô sắc,

Kim dữ nghiêm sương hàn lộ, Hoa lư thảo thụ đối sầu nhan.

Dịch nghĩa:

Năm xưa chèo nghĩa buồm nhân, độc bộ cồn cồn sóng giận,

Hôm nay băng đống sương giá, Hoa lư ảm đạm cây sầu [1].

Từ khi thực dân Pháp xâm lược, đô hộ nước ta, chúng đã dựng lên bộ máy chính quyền tay sai để đàn áp, bóc lột nhân nhân ta. Nhưng lòng yêu nước của nhân dân ta vẫn còn nung nấu và cháy bỏng không thể nào dập tắt được. Các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước của các sỹ phu và nông dân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX liên tiếp nổ ra từ Bắc đến Nam. Ở vùng Giao Thủy lúc ấy có một người nông dân tự xưng là Quận Cơ đã chiêu mộ nghĩa quân lập căn cứ ở Giáo Phòng [xã Hồng Thuận] để chống Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Hưởng ứng phong trào này, nhiều nông dân thuộc địa phận Ngô Đồng đã tham gia nghĩa quân[[30]]. Điều đó đã biểu hiện của tinh thần yêu nước thiết tha, ý chí quật cường bất khuất chống chế độ thực dân, phong kiến, giành độc lập, dân tộc của nhân dân trong vùng.

Các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp trong cả nước liên tiếp diễn ra một cách sôi nổi nhưng vì thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn nên không thu được thắng lợi và bị thực dân Pháp lần lượt đàn áp, cuối cùng đều thất bại.

3. Phong trào đấu tranh cách mạng tiến tới giành chính quyền từ 1930 đến 1945 tại địa phương

Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã lần lượt dìm các phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta trong biển máu và cơ bản hoàn thành việc xâm lược Việt Nam, thực hiện chính sách thực dân, nô dịch và bắt đầu tiến hành việc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Chúng ra sức khai thác hầm mỏ, vơ vét tài nguyên khoáng sản đưa về làm giàu ở chính quốc. Một mặt, chúng thiết lập hệ thống thuế khóa với bao hình thức sưu cao, thuế nặng, bóc lột đến tận xương tủy nhân dân ta[[31]] mặt khác, chúng ra sức đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, cách mạng.

Trong những năm đầu thế kỷ XX, Ngô Đồng cũng chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, cách mạng như Đông Du, Đông kinh Nghĩa thục, phong trào đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, đòi để tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1925, hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập ở Trung Quốc, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Năm 1927, Hội đã ảnh hưởng về tới Nam Định và ảnh hưởng tới các huyện, trong đó có Giao Thủy. Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng được đẩy mạnh trong cả nước.

Các sự kiện trên cùng với việc đấu tranh của công nhân dệt Nam Định đã tác động mạnh mẽ, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân Ngô Đồng. Một số thanh niên, học sinh, trí thức, trong đó có cả con em thuộc các gia đình hào, lý có tư tưởng tiến bộ đã hướng đến con đường cứu nước, cứu dân, lên án tội ác của thực dân Pháp.

Cuối năm 1927, đầu năm 1928, đồng chí Nguyễn Xuân Lầm [người Tự Lạc], là công dân nhà máy dệt Nam Định đã về cùng thầy giáo Nguyễn Trường Thúy[[32]] tổ chức các hoạt động tuyên truyền cách mạng ở địa phương Giao Thủy, nhất là trong các học sinh và một số nho sỹ. Cuối năm 1928, ở Tự Lạc - Lạc Nghiệp đã hình thành một tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên, gồm 5 người. Đây là một trong những tổ chức Cách mạng nòng cốt của huyện Giao Thủy. Sau này, hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên huyện Giao Thủy đã mở rộng tổ chức ra các vùng Quất Lâm, Hà Cát, Định Hải, Diêm Điền.

Tại Giao Thủy, nghề làm muối đã có từ lâu đời. Thực dân Pháp nhận thấy nghề làm muối ở đây giá nhân công rẻ mạt, đầu tư ít nhưng có thể mang lại lợi nhuận lớn, vì thế chúng chiếm đoạt hết ruộng muối của dân và khai phá mở rộng thêm diện tích trên 200 ha, biến người diêm dân trở thành công nhân diêm nghiệp làm việc theo ca kíp, thẳng tay đàn áp đánh đập thúc ép công nhân lao động. Sản phẩm làm ra thừa không được tính, nhưng thiếu thì bị trừ vào lương. Sự áp bức, bóc lột dã man đó đã tạo ra ngòi nổ của các cuộc đấu tranh của công nhân muối đánh tây đoan, chống đàn áp, đòi tăng lương, giành thắng lợi, gây được tiếng vang lớn, thúc đẩy phong trào cách mạng trong huyện, trong đó có Thị trấn Ngô Đồng.

Những tội ác chồng chất đã gây bao cảnh đau thương, oán thù dồn nén trong nhân dân ta. Người dân Giao Thủy nói chung và thị trấn Ngô Đồng nói riêng luôn nung nấu ý chí căm hờn, sẵn sàng đứng lên đánh đổ quân xâm lược và tay sai bán nước.

Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất tại Ma Cao [Trung Quốc], đã chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết đòi Dân tộc, dân chủ. Trước tình hình mới, Quốc tế Cộng sản cũng đã có sự nhìn nhận và quan điểm mới về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tại Hội nghị TW Đảng tháng 7/1936, Đảng ta nhận định Mục tiêu trước mắt của cuộc cách mạng là tập trung lực lượng, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình[[33]].

Những năm 1936-1939, Mặt trận dân chủ Đông Dương ra đời được các tầng lớp nhân dân yêu nước, nhất là tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, kể cả tư sản dân tộc, nhân sỹ tiến bộ ủng hộ. Phong trào cách mạng dần dần hồi phục và có bước chuyển biến mới, mọi hoạt động cách mạng được bán công khai và công khai, nhất là lĩnh vực sách báo tiến bộ nở rộ, để tuyên truyền Cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng. Phong trào cách mạng ở Giao Thủy đã nhen nhóm và phát triển. Các sách báo cách mạng từ Vũ Tiên, Tiền Hải [Thái Bình]; từ Nam Định chuyển về Định Hải, Hà Cát [Hồng Thuận] đã lan ra các xã trong huyện. Các hội quần chúng cách mạng biến tướng được thành lập dưới nhiều hình thức phù hợp, như: hội Khuyến học, hội Thanh niên Tú văn, Học sinh Đoàn, hội Tương tế Ái hữu, đội Âm nhạc, đội Sư Tử, trống Ngũ Lôi

Trong điều kiện thuận lợi đó, nhóm Hội viên Mặt trận dân chủ Đông Dương Ngô Đồng được thành lập, gồm: Thầy giáo Nguyễn Quý Huỳnh và thầy Dương dạy học ở trường Tiểu học Diêm Điền, thầy Phùng Hữu Cường dạy trường Tư thục Hoành Nghị cùng thầy Phạm Dũng[[34]]. Các thầy lợi dụng danh nghĩa dạy học để tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân và học sinh. Cùng với việc tuyên truyền trực tiếp, sách báo từ các nguồn đưa về cũng được nhiều quần chúng đón đọc, nhất là tầng lớp thanh niên.

Để thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5/1938, nhóm hội viên Mặt trận dân chủ Thị trấn đã bí mật tổ chức treo cờ Đảng trên cây đa phố huyện Giao Thủy[[35]], nơi trung tâm chính trị huyện lỵ lúc đó, gây tiếng vang lớn trong nhân dân, khiến kẻ thù hoảng sợ. Sau sự việc đó, bọn mật thám lồng lộn sục sạo tìm những đối tượng nghi vấn. Chúng bao vây khám xét trường học, nơi ở của thầy Huỳnh, nhưng với tinh thần cảnh giác, trước khi treo cờ các tài liệu đã được cất giấu kỹ. Mặc dù không tìm được chứng cứ, nhưng chúng vẫn đổi thầy Huỳnh đi nơi khác, đưa thầy Dương về thay thế [thầy Dương cũng cùng chí hướng với thầy Huỳnh].

Phong trào cách mạng trong huyện, nhất là ở Hà Cát, Hoành Nha, Tự Lạc phát triển mạnh dưới nhiều hình thức, khiến kẻ thù lo sợ. Chúng ra sức khủng bố, lùng sục gắt gao ở Hà Cát, Ngô Đồng và một số nơi. Thầy Dương bị chúng bắt, thầy Phùng Hữu Cường lâm bệnh qua đời, thầy Phạm Dũng phải lánh đi nơi khác. Phong trào đấu tranh ở Ngô Đồng tạm thời lắng xuống.

Ngày 01/9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ; đế quốc Pháp tham chiến, các nước thuộc địa của chúng trong đó có Việt Nam cũng lâm vào tình thế có chiến tranh. Để phục vụ chiến tranh, một mặt Pháp ra sức vơ vét tài nguyên, của cải; mặt khác, chúng ban bố lệnh tổng động viên thời chiến. Hàng loạt thanh niên bị bắt đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng[[36]]. Chúng còn ra sức đàn áp phong trào cách mạng; các quyền lợi tối thiểu mà nhân dân ta giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương đều bị xóa bỏ. Khi Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp sụp đổ, Chính phủ phản động do Đalađiê làm Thủ tướng lên cầm quyền, các hình thức phường hội hợp pháp, báo chí tiến bộ đều bị nghiêm cấm. Tháng 9/1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, thâu tóm quyền lực, loại bỏ dần vai trò thế lực của thực dân Pháp.

Trước tình thế đó, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, chĩa mũi nhọn cách mạng vào kẻ thù dân tộc là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít, hội nghị TW Đảng lần thứ 6, tháng 11/1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và chủ trương thành lập Mặt trận phản đế Đông Dương[[37]]; thay khẩu hiệu Chính quyền công nông bằng Chính phủ cộng hòa dân chủ Đông Dương. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vị trí hàng đầu cấp bách. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Cán sự Đảng tỉnh Nam Định chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền và chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh, phát triển các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng bán vũ trang[[38]]. Từ đó phong trào cách mạng được phục hồi và đẩy mạnh ở nhiều địa phương như Hà Cát, Hoành Nha và lan rộng đến nhiều nơi như Hoành Nhị, Hoành Đông, Diêm Điền, hình thành 2 tổ Việt Minh ở phố huyện và phố Ngô Đồng[[39]].

Đầu năm 1941, Chi bộ Hà Cát chỉ đạo rải truyền đơn hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, đòi quyền lợi cho dân cày. Truyền đơn được rải về cả vùng Hoành Nhị, Diêm Điền, Tự Lạc, Ngô Đồng. Một số người dân đi làm ăn ở vùng Ngô Đồng đã nhặt được đem về các địa phương và truyền tay nhau đọc. Truyền đơn đã khuấy động phong trào cách mạng của huyện nhà. Nhiều người sau khi đọc truyền đơn trong lòng háo hức như có 1 luồng gió mới. Khoảng tháng 4/1941, nữ đồng chí Loan được cử về Hà Cát phổ biến chủ trương kỷ niệm Hai Bà Trưng và tổ chức mít tinh, có hàng trăm chị em đến dự. Ngày 20/8/1941, nhân kỷ niệm ngày mất của người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Tỉnh uỷ Thái Bình cử đồng chí Lương Quang Chất sang chỉ đạo và tổ chức cuộc mít tinh tại sân chùa Hà Cát, có khoảng 500 người dự. Đây là cuộc mít tinh lớn nhất từ trước đến nay, có tác động mạnh mẽ đến tinh thần của nhân dân ở trong vùng[[40]].

Ngô Đồng là trung tâm huyện lỵ, có mối quan hệ giao lưu với nhiều nơi, phong trào cách mạng phát triển và lan tỏa rộng rãi. Các cuộc đấu tranh diễn ra sôi nổi, như chống phụ thu, lạm bổ ở làng Hoành Nhị, rải truyền đơn ở Ngô Đồng, Diêm Điền, Hoành Nhị... Các tổ chức quần chúng như Thanh niên, Nông dân, Phụ nữ, Đội tự vệ Cứu quốc, đã nhen nhóm phát triển ở nhiều cơ sở trong huyện. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp chiếm Đông Dương, khiến cho tình hình diễn biến hết sức khẩn trương. Chúng dựng lên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp từ tỉnh đến cơ sở[[41]], đồng thời bố trí những tên thân Nhật nắm giữ những vị trí quan trọng. Để mị dân chúng còn lập ra Ủy ban phụng sự quốc gia, Đoàn thanh niên xã hội, Bạch xỉ tiên cừu, Đại Việt duy tân và ra sức tuyên truyền cho thuyết Đại Đông Á và nền Độc lập giả hiệu ở Việt Nam.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", kịp thời chỉ đạo các địa phương trong toàn quốc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, sẵn sàng chủ động giành chính quyền khi có điều kiện.

Ở Giao Thủy, chỉ 11 ngày sau khi Nhật đảo chính, ngày 20/3/1945, hai tên hiến binh Nhật có vũ trang đã về tước vũ khí và bắt tên Lơ-ve người Pháp, Đồn trưởng đồn Ngô Đồng và giao cho Phán Bằng làm Đồn trưởng. Ít lâu sau Phán Bằng lại bị đổi đi nơi khác, Phán Huỳnh được giao làm Đồn trưởng Ngô Đồng.

Tại huyện lỵ, chúng biến đội lính cơ coi giữ huyện đường cũ thành Bảo an đoàn và lập Đoàn Thanh niên xã hội. Lợi dụng hình thức này, ta bí mật bố trí một số người trong nhóm Việt Minh ở phố huyện, phố Ngô Đồng đứng ra lập Đoàn Thanh niên xã hội để nắm và khống chế hoạt động của tổ chức này; đồng thời tổ chức phong trào thể dục thể thao, lập đội bóng đá, bóng chuyền hợp pháp để tập hợp thanh niên. Phong trào đã thu hút được thanh niên các xã lân cận tham gia hưởng ứng rất đông[[42]].

Sau khi hất cảng Pháp, Nhật ráo riết thi hành chính sách cai trị kiểu phát xít, chúng thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương và ra sức vơ vét nhân tài, vật lực, bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu; tăng cường vơ vét thóc gạo để nấu cồn thay xăng phục vụ cho cuộc chiến phi nghĩa.

Năm Giáp Thân [1944] mùa màng mất trắng do bệnh vàng lụi, cộng với chính sách vơ vét kinh tế của phát xít Nhật[[43]] đã gây ra nạn đói trầm trọng vào đầu năm 1945. Người dân phải đào cả củ chuối, rau má, quả sú vẹt. để ăn; đồ đạc trong nhà [kể cả bát hương thờ gia tiên] cũng đều phải đưa đi bán. Xóm làng xơ xác, tiêu điều trong cảnh cha bỏ con, vợ bỏ chồng, nhiều người phải bỏ quê hương đi tha phương cầu thực, bỏ xác nơi đầu đường xó chợ. 17 ngàn người dân Giao Thủy, trong đó có hàng ngàn người dân vùng Ngô Đồng bị chết đói thê thảm, có gia đình chết đói cả nhà không còn ai sống sót[[44]].

Trước tình hình đó, nhóm Việt Minh phố huyện và Ngô Đồng lợi dụng danh nghĩa Đoàn Thanh niên xã hội đề nghị Huyện trưởng báo lên trên về tình hình dân chết đói và yêu cầu phải cấp thóc ngay để cứu đói cho dân. Phát xít Nhật buộc phải chấp nhận và cho phép lấy một số thóc tại kho Đò Chè [Nam Định] để cấp cho dân. Các đồng chí Tô Sung Ngô, Nguyễn Xuân Khuyến, Phạm Công Trị, Nguyễn Xuân Mai được phân công đi lấy được hai thuyền thóc về phát cho dân. Cùng lúc đó, các xã thúc ép hương lý bẩm báo lên huyện trưởng Nguyễn Duy Liễn, cấp 16 tấn thóc tại kho Cồn Nhất, kịp thời phân phát, góp phần cứu sống được nhiều người đang bị đói.

Đầu năm 1945, phát xít Nhật liên tiếp thua trận và có nguy cơ bị tiêu diệt. Tình hình cách mạng trong cả nước hừng hực lên cao. Tháng 5/1945, Ban Cán sự tỉnh Nam Định họp tại Quần Liêu [Nghĩa Hưng], nghiên cứu Chỉ thị: Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta và đề ra nhiệm vụ trước mắt, đi sâu vào quần chúng, nhanh chóng phát triển lực lượng, phát động phong trào kháng Nhật cứu nước, chủ động đón thời cơ khởi nghĩa.

Từ giữa năm 1945 đến tháng 8/1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến. Nhóm Việt Minh phố huyện, phố Ngô Đồng đã tìm mọi cách đưa truyền đơn đến các đối tượng, kêu gọi quan lại, hào lý hướng về cách mạng, ủng hộ Việt Minh, chống Nhật cứu nước; bố trí người bí mật đặt truyền đơn vào bàn giấy của Huyện trưởng tại huyện đường[[45]]. Nhiều sách báo có nội dung tiến bộ đã được lưu truyền rộng rãi. Truyền đơn được rải khắp phố và các làng xung quanh; cờ đỏ được treo trên cây đa ở chợ Ngô Đồng. Những hoạt động trên có ảnh hưởng tích cực trong nhân dân, tác động và làm phân hóa tầng lớp hào lý ở địa phương. Một số người đã giác ngộ đi theo cách mạng, hoặc có cảm tình với Việt Minh, bọn phản động cũng không dám hành động chống đối.

Đại chiến thế giới lần thứ hai dần bước sang giai đoạn két thúc. Sau khi đánh bại quân Đức ở phía tây, Hồng quân Liên Xô quay sang đánh bại quân Nhật ở phía đông[[46]], tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa ở châu Á vùng lên giành chính quyền.

Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Chớp thời cơ đó, Đảng ta triệu tập Hội nghị Quốc dân đại biểu ở Tân Trào [Tuyên Quang] và phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn Quốc. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thành công ở Hà Nội; ngày 25/8/1945, thành công ở Sài Gòn.

Ở Nam Định, ngày 17/8/1945, Ban Cán sự họp và ra quyết định Khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Sau khi chiếm huyện lỵ Trực Ninh, Ban Cán sự cử cán bộ về lãnh đạo giành chính quyền ở các huyện, trong đó có Giao Thủy. Chỉ trong 1 tuần từ 17 đến 22/8/1945, chính quyền trong toàn tỉnh đã thuộc về tay nhân dân.

Riêng tại Giao Thủy, sau khi giành chính quyền ở huyện Trực Ninh thành công, Ban Cán sự cử đồng chí Đoàn Trần Phong về Xuân Trường, Giao Thủy truyền đạt chủ trương chỉ đạo của tỉnh. Tối ngày 19/8/1945, các đồng chí lãnh đạo của Giao Thủy và Xuân Trường đã thống nhất triệu tập cuộc họp liên tịch giữa hai huyện tại Tự Lạc[[47]], thành phần gồm các đồng chí đảng viên và hội viên Việt Minh. Ở huyện Xuân Trường có các đồng chí ở Hành Thiện, Đông An, Xuân Bảng, Lạc Nghiệp. Ở huyện Giao Thuỷ có các đồng chí ở Hà Cát, Hoành Nha, Tự Lạc, Hoành Đông, Diêm Điền, Hoành Nhị, phố Ngô Đồng. Theo kế hoạch, ngày 20/8/1945 sẽ huy động sức mạnh đông đảo quần chúng tham gia chiếm đồn Lạc Quần, sau đó về giành chính quyền ở huyện lỵ Giao Thủy và Xuân Trường. Ngoài vũ khí thô sơ tự tạo, ở Giao Thủy duy nhất chỉ có một khẩu Sten và một khẩu súng hai nòng của đồng chí Đinh Văn Giao; ở Xuân Trường có một khẩu súng trường và một khẩu súng lục. Để có thêm vũ khí, các đồng chí lãnh đạo ở Giao Thủy quyết định cử đồng chí Nguyễn Xuân Khuyến và đồng chí Đinh Văn Quỳnh ngay tối hôm đó [19/8] về trực tiếp gặp ông Phán Huỳnh, Đồn trưởng đồn Ngô Đồng[[48]], nói rõ tình thế cách mạng và kế hoạch khởi nghĩa của huyện nhà, yêu cầu ông giao trước cho đoàn quân khởi nghĩa một số vũ khí hiện có của đồn. Đồn trưởng chấp thuận ngay, giao nộp cho cách mạng 5 khẩu súng trường.

Sau cuộc họp, ngay đêm hôm đó, các đồng chí lãnh đạo ở Giao Thủy là Phạm Văn Yêng[[49]], Phạm Cương, Nguyễn Xuân Lầm đã về Hoành Nha và Tự Lạc huy động quần chúng tham gia đoàn quân khởi nghĩa để sáng ngày hôm sau [20/8/1945] cùng phối hợp với đoàn khởi nghĩa của Xuân Trường hợp quân ở dốc Xuân Bảng [Xuân Trường] lên chiếm đồn Lạc Quần. Trên đường đi, nhân dân gia nhập đoàn ngày một đông với khí thế ngút trời, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh, Việt Nam độc lập muôn năm Đến đồn Lạc Quần, sau khi được thuyết phục, Đồn trưởng đồn Lạc Quần đã giao nộp đồn và vũ khí cho quân khởi nghĩa. Theo yêu cầu của cách mạng, quân khởi nghĩa đã vận động anh em binh lính cũ ở đồn Lạc Quần tham gia vào quân đội cách mạng. Đồn trưởng Vũ Đức Xuân và hầu hết binh lính trong đồn đều tự nguyện xin gia nhập vào hàng ngũ quân cách mạng. Ông Vũ Đức Xuân[[50]] đã được cách mạng giao cho quản lý đồn và chỉ huy Chi đội bộ đội đóng ngay tại đồn Lạc Quần.

Sau khi ổn định tình hình ở đồn Lạc Quần một cách suôn sẻ, mặc dầu trời đã quá trưa, đoàn quân khởi nghĩa của Giao Thủy tiếp tục tiến về huyện đường Giao Thủy. Đến dốc Hoành Nha, đông đảo nhân dân, nhất là thanh niên Hoành Nha và Tự Lạc ra đón, tiếp tế quà, nước uống và số đông thanh niên đã gia nhập đoàn. Đến phố Ngô Đồng, đoàn dừng lại, cử một bộ phận vào tiếp quản đồn Ngô Đồng. Cũng như ở Lạc Quần, sau khi giao nộp đồn và vũ khí cho cách mạng, hầu hết binh lính ở đây đã tự nguyện gia nhập hàng ngũ cách mạng và tiếp tục được giao giữ đồn.

Nghe tin khởi nghĩa, quần chúng nhân dân các xã xung quanh huyện lỵ đã tự động kéo đến thành rừng người hân hoan chờ đón đoàn khởi nghĩa của huyện tiến về. Đúng 16 giờ ngày 20/8/1945, Huyện trưởng Nguyễn Duy Liễn cùng các lục sự, thừa phái, nho lại và binh lính đã tề tựu trước cổng huyện đường. Sau ba phát súng chỉ thiên báo hiệu giờ phút cáo chung của chế độ cũ ở huyện nhà, được sự ủy nhiệm của Ban lãnh đạo khởi nghĩa, đồng chí Nguyễn Xuân Khuyến đọc tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân, phong kiến; thiết lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân ở Giao Thuỷ; đồng thời công bố 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Sau lời tuyên bố, tiếng vỗ tay hoan hô, hòa lẫn tiếng hô khẩu hiệu Việt Nam độc lập muôn năm vang dậy như sấm.

Ngay đêm hôm đó, Ban Cán sự huyện họp mở rộng tại từ đường họ Tô ở Hoành Nhị để đánh giá kết quả bước đầu cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương và định hướng những nhiệm vụ tiếp theo, quyết định nhân sự Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện Giao Thủy để ra mắt đồng bào và điều hành công việc. Trong Ủy ban cách mạng lâm thời đầu tiên của huyện có hai người con của Thị trấn, đó là đồng chí Phùng Trọng Sỹ được cử giữ chức ủy viên thư ký, đồng chí Tô Quảng Giáp [[51]] giữ chức ủy viên Tài chính.

Ngày 21/8/945, Ủy ban khởi nghĩa huyện quyết định cử cán bộ về các địa phương họp mặt nhân dân, tuyên bố giải thể chính quyền cũ của thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Tại các điểm gặp mặt, già trẻ, gái trai tề tựu đến dự rất đông, các cuộc họp mặt đã biến thành các cuộc mít tinh quần chúng lớn. Khi nghe đồng chí đại diện Ủy ban khởi nghĩa huyện tuyên bố giải thể bộ máy chính quyền thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng dân chủ, nhân dân lâm thời và mười chính sách của Mặt trận Việt Minh, tiếng hoan hô, tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên không ngớt.

Sau đó các địa phương đã bầu ra Ủy ban cách mạng lâm thời, bằng hình thức biểu quyết giơ tay[[52]].

* Ủy ban Cách mạng lâm thời xã Hoành Đông, gồm:

- Ông Phan Văn Thiêm: Chủ tịch [Nguyên Trưởng bạ].

- Ông Phạm Hữu Thi: Phó Chủ tịch [Nguyên Thư ký hộ lại].

- Ông Phạm Công Phiếm: Ủy viên Tài chính [Nguyên Thủ quỹ].

- Ông Phan Văn Nga: Ủy viên Địa chính.

* Ủy ban Cách mạng lâm thời xã Hoành Nhị, gồm:

- Ông Doãn Đình Điềm: Chủ tịch [Nguyên Phó tổng].

- Ông Phùng Hữu Thoại: Phó Chủ tịch [Nguyên Thư ký hộ lại].

- Ông Phùng Hữu Bỉnh [tức Tôn]: Ủy viên điền địa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945 đã huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân nổi dậy thành một đội quân chính trị hùng mạnh. Với tinh thần yêu nước, chỉ với vũ khí thô sơ, nhưng dưới đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, sự hưởng ứng của nhân dân, đã tạo nên cơn bão táp cách mạng, lật đổ ách thống trị thực dân đế quốc gần trăm năm, chế độ phong kiến hàng ngàn năm, thiết lập nên chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng đã đưa nhân dân ta từ thân phận người dân mất nước, sống cuộc đời nô lệ đầy tủi nhục trở thành người chủ một đất nước độc lập có chủ quyền.

Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thị trấn Ngô Đồng bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến bộ xã hội; tiếp tục bước vào một chặng đường mới đầy gian nan thử thách nhưng vẻ vang, oanh liệt.


Chương II

CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN, TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG, CHI BỘ ĐẢNG ĐƯỢC THÀNH LẬP LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC [ 1945- 1954]

1. Giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng chính quyền và tổ chức quần chúng vững mạnh, xây dựng tiềm lực mọi mặt, sẵn sàng đối phó với kẻ thù xâm lược.

Đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, củng cố, xây dựng tiềm lực mọi mặt, sẵn sàng đối phó với kẻ thù xâm lược [9/1945-12/1946]

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta từ thân phận người dân mất nước trở thành người dân một nước độc lập, có chủ quyền. Song kẻ thù ngoan cố không cam chịu thất bại, chúng cấu kết với nhau, quyết tâm tiêu diệt nhà nước Cộng hòa non trẻ của ta vừa ra đời. Kinh tế xã hội bị vơ vét trong chiến tranh càng thêm suy thoái, kiệt quệ, thiên tai lại xảy ra liên miên. Năm 1945 diễn ra nạn lũ lụt lớn chưa từng thấy ở 9 tỉnh miền Bắc; đê điều nhiều nơi bị vỡ, cuốn đi mùa màng của cải của nhân dân. Đời sống nhân dân vô cùng đói khổ. Với bao khó khăn chồng chất, chính quyền cách mạng ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc.

Núp dưới danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật; ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch [Trung Quốc] ồ ạt kéo vào. Bám chân chúng là bọn phản động Việt quốc, Việt cách lưu vong ở nước ngoài cũng theo về. Bọn này hoạt động rất trắng trợn, chống phá ta quyết liệt. Chúng tung tay chân về chắp nối với bọn phản động tại địa phương. Ở Giao Thủy, tên Ký Thủy và Bạ Bộ [Ngưỡng Nhân] đã ngầm cấu kết, móc nối với một số phần tử trong bộ máy chính quyền của chế độ cũ ở Thị trấn, bí mật lập đảng phản động dưới cái tên là Duy dân Tân Việt. Chính quyền đã phát hiện kịp thời, vô hiệu hóa tổ chức này ngay khi chúng vừa nhen nhóm.

Ở Nam Bộ, chỉ vài ngày sau khi ta giành chính quyền toàn quốc thì ngày 23/9/1945, núp sau quân đội Anh - Ấn với danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật, thực dân Pháp đã trắng trợn nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cho việc xâm lược nước ta lần thứ hai.

Khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ; với tinh thần Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, không thế lực nào có thể chia cắt được, nhân dân cả nước, trong đó có nhân dân Ngô Đồng cùng đồng bào Nam Bộ đều quyết tâm đứng lên đánh Pháp. Tháng 10/1945, một Chi đội Nam Tiến [tương đương một tiểu đoàn] của Nam Định được tổ chức. Cùng với nhân dân trong tỉnh, trong huyện, Thị trấn đã có nhiều người con của quê hương hăng hái tình nguyện gia nhập đoàn quân Nam Tiến. Ở Hoành Nhị có các ông: Phùng Hữu Tạo, Nguyễn Văn Thông, Phùng Hữu Tĩnh, Mai Cao Xạ, Phùng Hữu Tư. Ở Hoành Đông có các ông: Phan Văn Lật, Phạm Công Tiếp. Ở Diêm Điền có các ông: Phạm Văn Cửu, Nguyễn Văn Đản, Nguyễn Văn Hốc, Nguyễn Văn Khúc.

Trước đây, khi Nhật đảo chính Pháp, ở biên giới phía bắc có hơn 3.500 quân Pháp chạy trốn sang Hoa Nam [Trung Quốc], đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chúng đã quay lại âm mưu tái chiếm Lai Châu và giúp bọn phỉ Đèo Văn Long nổi dậy gây rối tại huyện Phong Thổ. Tháng 12/1945, một Chi đội Tây Tiến [Hà Nam] đã hành quân lên đường đi Sơn La tiễu phỉ. Thị trấn cũng có một số con em tham gia đội quân này[[53]].

Quân Tưởng và một số đảng phái phản động khi vào Nam Định đã gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng hoạt động của chúng chủ yếu vẫn chỉ ở phạm vi thành phố, còn toàn bộ vùng nông thôn rộng lớn chúng chưa với tới được, vẫn thuộc quyền kiểm soát của ta. Chúng ta tranh thủ mọi điều kiện xây dựng, củng cố chính quyền và phong trào cách mạng, tập trung giải quyết những vấn đề hệ trọng về xã hội và đời sống nhân dân. Với tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, Quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập [[54]] .

Đứng trước những nguy cơ, thách thức to lớn của đất nước, trong phiên họp Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt:

- Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói.

- Mở một phong trào chống nạn mù chữ.

- Tổ chức tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội bằng phổ thông đầu phiếu.

- Cần, kiệm, liêm, chính và bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân, phong kiến để lại, bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

- Tự do tín ngưỡng và thực hiện lương giáo đoàn kết.

Tiếp đó, trong thư gửi nông dân toàn quốc Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Hiện nay chúng ta có hai nhiệm vụ quan trọng nhất: Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam[[55]]. Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc và khẳng định cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đồng thời nêu rõ kẻ thù chính của chúng ta lúc này là: Thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng[[56]].

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Chống giặc đói, mặc dù trong nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần đoàn kết thương yêu lá lành đùm lá rách, phong trào nhường cơm sẻ áo, tương thân tương ái được phát động rộng rãi. Các hình thức lập quỹ nghĩa thương, hũ gạo cứu đói, quyên góp lương thực diễn ra sôi nổi, đã cứu đói cho nhiều gia đình ở địa phương. Cùng với việc cứu đói trước mắt, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng còn vận động phong trào tăng gia sản xuất tự cứu, tận dụng số đất đai hiện có, không để đất hoang, thực hiện tấc đất tấc vàng để trồng rau màu, cây lương thực. Theo tinh thần Thông tư ngày 20/11/1945 của Chính phủ, chính quyền đã tuyên bố xóa nợ và giảm 25% địa tô, ra lệnh nghiêm cấm triệt để nạn đầu cơ tích trữ lương thực, nạn nấu rượu bằng gạo. Nhờ đó, nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân đỡ khó khăn, có phần được cải thiện. Khẩu hiệu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư do Hồ Chủ tịch đề ra được cán bộ và nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Tình trạng lãng phí, xa hoa được hạn chế. Các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại như: Cô đầu, nhà thổ, cờ bạc, nghiện hútbị cấm triệt để và nghiêm trị. Những hủ tục lạc hậu, lỗi thời được xóa bỏ, thay bằng những thuần phong mỹ tục, đời sống mới từng bước được thực hiện.

Nền tài chính quốc gia trước đó đã bị thực dân Pháp và phát xít Nhật vơ vét để phục vụ cho chiến tranh; khi ta giành được chính quyền, ngân khố hầu như trống rỗng. Để phục vụ cho công cuộc bảo vệ nền độc lập và tái thiết quốc gia, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh lập Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng từ ngày 17 đến 29/9/1945, được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Chỉ trong 1 tuần, nhân dân huyện Giao Thủy đã ủng hộ được 140 lượng vàng. Riêng ở Thị trấn, những gia đình khá giả ủng hộ ít nhất là một chỉ vàng, gia đình bà Khán Thoại [Diêm Điền] đã ủng hộ nửa cây vàng.

Song song với nhiệm vụ diệt giặc đói, dưới sự chỉ đạo của chính quyền cách mạng, các đoàn thể quần chúng, phong trào học chữ được dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi trong các thôn xóm. Với tinh thần người biết chữ dạy người không biết chữ, chồng biết bảo vợ, anh biết bảo em, cha mẹ chưa biết thì con bảo, chỉ sau 1 thời gian ngắn, nhiều lớp bình dân học vụ đã được mở ra ở khắp các xóm, thôn, cả sáng, chiều, tối tại đình, chùa, miếu, phủ, từ đường họ. Nhiều cụ già 60 - 70 tuổi cũng tích cực đến lớp học chữ, có tác dụng động viên con cháu và khí thế học tập trong nhân dân. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh với nhiều hình thức sôi nổi, sinh động như khảo chữ ở chợ Hoành Đông, Hoành Nhị, phát thanh, diễn kịch, sáng tác thơ ca, hò vè để động viên tỉnh thần hăng hái học tập, như:

Cô kia áo trắng yếm hồng

Nếu không biết chữ thì chồng chẳng yêu.

Và sáng tác những câu ca để dễ học, dễ nhớ:

I, t có móc cả hai,

i ngắn có chấm, t dài có ngang.

o, a hai chữ khác nhau,

Bởi a có cái móc câu bên sườn.

o tròn như quả trứng gà,

ô thời đội nón, ơ thời thêm râu.

Nhờ đó chỉ trong thời gian ngắn đến cuối năm 1946 đã có tới 40% số dân địa phương thoát nạn mù chữ.

Thực hiện Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 06/01/1946, cả nước tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước và trong cuộc bầu cử, công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục đích, nội dung, nghĩa vụ quyền lợi của cử tri được triển khai rộng rãi. Tiểu sử từng ứng cử viên do Mặt trận Việt Minh giới thiệu được niêm yết danh sách ở những nơi công cộng. Các phương tiện thông tin tuyên truyền, các hình thức phát thanh bằng loa tay, thiếu niên cổ động, kẻ khẩu hiệu, treo cờ, dựng cổng chào, diễn kịch, sáng tác thơ ca diễn ra sôi nổi. Căn cứ nội dung, bộ phận tuyên truyền đã sáng tác thành thơ ca để cử tri dễ nhớ tên ứng cử viên khi bỏ phiếu:

Đức, Tín, Trân, Đoan, Tuệ, Sắc, Thành,

Tứ, Khiêm, Âu, Mẫn, Trắc, Anh, Trọng, Thiều [[57]].

Quốc dân yêu nước bao nhiêu,

Dồn cho Quốc hội bấy nhiêu phiếu bầu.

Trong cuộc Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội lần này, quyền công dân lần đầu tiên được thực hiện, niềm mong ước từ bao đời, nay đã thành sự thật. Nhiều người mặc dầu không biết chữ cũng hồ hởi tới nơi bỏ phiếu, nhờ người viết hộ rồi tự mình bỏ vào hòm phiếu, hoàn thành nghĩa vụ công dân của người dân làm chủ đất nước. Mặc dù các đảng phái phản động, các thế lực thù địch điên cuồng phá hoại bằng mọi thủ đoạn ngấm ngầm và trắng trợn, song do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chuẩn bị mọi mặt chu đáo, chặt chẽ của chính quyền, lại được đông đảo quần chúng nhân dân hết lòng ủng bộ, cuộc bầu cử đã diễn ra an toàn, thắng lợi. Trên 90% cử tri địa phương đã đi bầu cử. Tỉnh Nam Định có 2 đơn vị bầu cử, với 82 ứng cử viên, có 17 người trúng cử, trong đó có ông Vũ Đức Âu người con của quê hương Giao Thủy.

Sau khi tiến hành thắng lợi cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, thực hiện chủ trương của Đảng, các địa phương đều khẩn trương chuẩn bị và tiến hành cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp[[58]] vào ngày 18/3/1946. Bọn phản động tiếp tục gây khó khăn như: Đưa người của chúng ra tranh cử, nói xấu ứng cử viên do Mặt trận Việt Minh giới thiệu, tranh giành cử tri, gây lộn xộn nơi bỏ phiếu. Song dưới sự chỉ đạo của Đảng và chính quyền địa phương và sự ủng hộ của nhân dân, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã đã đạt kết quả tốt. Tại thị trấn Ngô Đồng, nhân dân đã lựa chọn được những người tiêu biểu, nhiệt tình cách mạng vào Hội đồng nhân dân và bầu ra ủy ban hành chính xã[[59]]. Những phần tử thuộc đảng phái phản động, bọn cơ hội đã bị loại khỏi bộ máy chính quyền. Thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã đã tạo thêm sức mạnh và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chính quyền cách mạng.

Ngay khi vào Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng quân Tưởng Giới Thạch đã tỏ rõ thái độ thù địch[[60]]. Hiểu rõ ý đồ, dã tâm của chúng, căn cứ vào Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc của Trung ương, ta hết sức tránh va chạm với chúng, đồng thời với phương châm mềm dẻo, ta nêu khẩu hiệu Hoa Việt thân thiện và kiên quyết giữ vững chủ quyền dân tộc.

Sau 6 tháng đóng quân ở Bắc Bộ, quân Tưởng vẫn không thực hiện được âm mưu đen tối của chúng[[61]]. Ngày 28/02/1946, quân Tưởng đã thỏa thuận cho Pháp vào miền Bắc thay chúng giải giáp quân đội Nhật. Cùng thời gian này Mỹ và Anh đã thỏa thuận rút quân đội Anh, Ấn, nhượng cho thực dân Pháp đóng chiếm miền Nam, từ vĩ tuyến 16 trở vào.

Tuy ta đã khéo léo đẩy được quân Tưởng, Anh, Ấn ra khỏi đất nước, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trên các mặt, nhất là về tiềm lực kinh tế và quân sự. Do đó, để phá âm mưu cấu kết của thực dân, đế quốc và để ta có thời gian hòa hoãn, củng cố xây dựng lực lượng, chuẩn bị tốt cho cuộc chiến đấu mới; với chủ trương Hòa để tiến, ngày 06/3/1946, Chính phủ ta ký với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ, nhường cho Pháp một số quyền lợi, cho phép Pháp được đóng quân tại 8 điểm ở Bắc Bộ[[62]]. Sau đó để cứu vãn hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh đổ máu, ngày 14/9/1946, tại Phông-ten-nơ-bờ-lô, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ký Tạm ước với Chính phủ Pháp, nhưng quân Pháp vẫn cố tình bội ước, ra sức lấn chiếm, mở rộng chiến tranh ở Nam Bộ, gây rối, khiêu khích ở nhiều nơi[[63]]. Trước tình hình đó, ngày 19/12/1946, Đảng ta quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào chiến sỹ cả nước đoàn kết, ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, quân dân Giao Thuỷ đã chuẩn bị lương khô, góp tiền mua sắm thêm vũ khí chi viện cho mặt trận Nam Định. Nhiều làng xã đã đóng góp rơm rạ vận chuyển về Nam Định để chi viện cho Nam Định tiêu thổ kháng chiến, trích 2 kg thóc trên một đầu mẫu góp phần xây dựng quỹ quốc phòng. Nhiều gia đình và cá nhân còn đem các đồ vật quý ủng hộ kháng chiến. Cùng với các hoạt động chi viện về vật chất, các xã còn tích cực triển khai xây dựng các tiểu đội dân quân, các tổ bạch đầu quân, hội uý lão chiến sỹ. Trên cơ sở các Uỷ ban bảo vệ, các địa phương đều thành lập các Uỷ ban Kháng chiến. Mặt trận Việt Minh và chính quyền khẩn trương xây dựng lực lượng dân quân du kích. Các thôn cử những người có năng lực ra chỉ huy lực lượng du kích. Mỗi thôn thành lập 1 trung đội dân quân tự vệ.

Trong tình thế chiến tranh ngày càng mở rộng, Đảng chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân yêu nước bao gồm Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể quần chúng, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nhân sỹ tiến bộ. nhằm tăng cường lực lượng chống kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Tháng 10/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam [gọi tắt là Liên Việt] được thành lập, đã thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia[[64]].

2. Chi bộ Đảng được thành lập, lãnh đạo nhân dân trong công cuộc kháng chiến kiến quốc.

Sau khi chúng ta giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945, các thế lực thù địch đã điên cuồng chĩa mũi nhọn chống phá cách mạng. Trong tình thế cực kỳ khó khăn, vì lợi ích sống còn của dân tộc, không để kẻ thù lấy cớ chống Đảng, chống phá cách mạng, tháng 11/1945 Đảng ta tuyên bố tự giải tán, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật và tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam .

Trong quá trình hoạt động trước và sau cách mạng tháng Tám 1945 ở Thị trấn đã xuất hiện nhiều quần chúng thanh niên ưu tú, năng nổ, nhiệt tình. Thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 29/7/1947 của Ban Chấp hành TW Đảng về đợt phát triển lớp Đảng viên Tháng 8, địa phương đã cử nhiều thanh niên ưu tú đi dự các lớp cảm tình Đảng và nhiều người trong số họ đã được kết nạp vào Đảng. Xét thấy đủ điều kiện để thành lập tổ chức Đảng cơ sở, đầu năm 1947, Ban Cán sự Đảng huyện Giao Thủy [Huyện ủy] đã ra quyết định thành lập Chi bộ chung [gọi là Chi bộ ghép] cho cả 3 xã Diêm Điền, Hoành Sơn, Đông Hòa, do đồng chí Nguyễn Chiểu, ủy viên Ban Cán sự huyện phụ trách khu vực, trực tiếp làm Bí thư Chi bộ lâm thời. Sau đó Huyện ủy chỉ định đồng chí Phạm Ngọc Viên [Diêm Điền] làm Bí thư Chi bộ.

Việc thành lập chi bộ là một sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng yêu cầu cách mạng đặt ra của địa phương, đồng thời đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng trong những ngày kháng chiến ác liệt sắp tới. Từ đây ở địa phương có chi bộ trực tiếp lãnh đạo.

Đầu năm 1948, số đảng viên được kết nạp vào Đảng đã đủ điều kiện thành lập Chi bộ riêng ở từng xã, Huyện ủy Giao Thủy quyết định tách Chi bộ ghép và thành lập các Chi bộ mới.

- Chi bộ Diêm Điền, gồm: Đ/c Phạm Ngọc Viên-Bí thư, đ/c Nguyễn Văn Thản, đ/c Nguyễn Văn Rung là đảng viên.

- Chi bộ Hoành Sơn, gồm: Đồng chí Tô Sung Ngô-Bí thư, đồng chí Phùng Hữu Kiền, đồng chí Phùng Hữu Tờn là đảng viên. Năm 1949 đồng chí Tô Sung Ngô chuyển công tác khác, đồng chí Phùng Hữu Kiền làm Bí thư.

- Chi bộ Đông Hòa, gồm: Đồng chí Trần Bá Kiêu-Bí thư, đồng chí Nguyễn Ngọc Tộ [Nguyễn Phan], đồng chí Phan Quang Cảnh là đảng viên.

Khi kẻ thù gây hấn, mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc của Đảng, với khí thế sục sôi cách mạng, ý chí căm thù sâu sắc, mọi tầng lớp nhân dân đều hướng ra mặt trận. Nhiều thanh niên, có cả nhà tu hành[[65]], với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, đã hăng hái gia nhập bộ đội, vệ quốc đoàn, xông ra tiền tuyến giết giặc cứu nước. Những người ở lại địa phương, với tinh thần Toàn dân là lính, hầu hết thanh niên đều hăng hái tham gia các đơn vị dân quân, du kích; những người cao tuổi gia nhập các đơn vị Bạch đầu quân. Nhà nhà, người người đều hướng vào công cuộc kháng chiến với khí thế sôi động chưa từng thấy. Cả ba làng đều trích quỹ, đấu cố ruộng lưu trừ, vận động nhân dân ủng hộ tiền bạc, mua sắm vũ khí; thuê thợ Vân Chàng [Nam Trực] về đánh dao găm, kiếm, mã tấu...trang bị cho các đơn vị. Huyện đội đã cử cán sự về huấn luyện quân sự; mời thầy từ Trà Lũ [Xuân Trường] về dạy võ rất sôi nổi. Thực hiện chỉ đạo của huyện lực lượng vũ trang của huyện và một số xã như Hoành Nha, Tam Thiện, Tân Dân, Hải Yến, Quất Hải, Diêm Điền, Đông Hào đã lần lượt lên phối hợp với bộ đội, tự vệ bao vây đánh địch trong thành phố Nam Định và các vị trí của địch ngoài thành phố để học tập rút kinh nghiệm chiến đấu[[66]].

Thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến, địa phương đã trưng dụng hàng chục thuyền của nhân dân, cùng hàng trăm thuyền của các xã, chở rơm rạ lên chi viện cho thành phố Nam Định để bộ đội ta hỏa công đánh địch. Số thuyền đó khi trở về lại chất đầy đá hộc, thuyền nọ giằng buộc vào thuyền kia và được đánh chìm ngoài cửa Ba Lạt để ngăn cản tầu định. Các cửa sông Cồn Nhất, Ngô Đồng đều hạ những cây to kéo xuống sông, dùng cọc đóng có dây cáp buộc các cây với nhau để ngăn ca-nô địch xâm nhập. Nhân dân địa phương cùng các xã trong huyện đã san bằng huyện lỵ Giao Thủy, đồn đoan Ngô Đồng, các nhà cao tầng ở phố Ngô Đồng, phố huyện[[67]], phá sập cầu Ngô Đồng, Cầu Diêm, Bến Gánh, xẻ đường, đắp ụ ngăn xe cơ giới địch. Các làng đều có rào để bảo vệ, có giao thông hào để tác chiến. Các dong xóm có cổng rào kiên cố, ngày đêm canh phòng cẩn mật.

Đầu năm 1947 theo lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận Nam Định, một đơn vị bộ đội được lệnh về xây dựng trận địa pháo 75 ly tại Cồn Nhất, Hoành Đông. Nhân dân trong vùng rất phấn khởi, mỗi ngày hàng trăm người đã đến trận địa cùng bộ đội vận chuyển đất đá xây dựng pháo đài, đào hầm công sự, đưa quà đến thăm hỏi, động viên bộ đội.

Ngày 06/3/1947, 2 tầu chiến, 4 ca-nô của địch từ ngoài biển, vượt qua vật cản cửa Ba Lạt tiến vào sông Hồng. Khi chúng đến giữa đoạn sông Cồn Nhì, Cồn Ba [Hà Cát] thì bị pháo của quân ta bắn trúng, tầu địch bốc cháy ngay từ loạt đạn đầu tiên. Nhân dân ven sông hai bên bờ Nam Định [Giao Thủy: Hoành Đông, Đông Bình, Hà Cát] và Thái Bình hò reo hoan hô vang dội, hòa cùng tiếng trống với bao âm thanh khác làm náo động cả một vùng. Bọn địch phải cho tầu lùi ra xa, dùng súng các loại trên tàu bắn xối xả vào trận địa pháo của ta, gọi phi cơ về oanh tạc. Qua hơn một giờ giao chiến, địch đã vượt qua được phòng tuyến của quân ta, theo sông Hồng tiến thẳng lên thành phố Nam Định, chi viện cho quân của chúng đang bị quân ta vây hãm trong nội thành. Phía ta chiến sỹ Vũ Đình Lan đã hy sinh và một số bị thương.

Sau trận đánh, trên nhận định địch sẽ trở lại đánh phá trận địa của ta. Để bảo toàn lực lượng và khí tài, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chỉ huy mặt trận, đồng chí Tô Quang Giáp, Ủy viên Ủy ban kháng chiến huyện Giao Thủy đã điều động dân quân du kích tháo dỡ pháo, khí tài, đạn dược, dùng thuyền chuyển đi cất dấu ở xã Quần Long [Giao Long], sau đó theo đường biển chở vào khu 4 an toàn. 3 ngày sau, ngày 09/3/1947 tầu chiến, ca-nô địch có máy bay yểm trợ từ Nam Định xuống dội bom, đánh phá trận địa của ta. Không thấy quân ta phản ứng gì, chúng cho quân đổ bộ lên dùng thuốc nổ phá bệ pháo và các công sự, rồi tiến vào trại cát Hoành Đông đốt nhà, sát hại một số người dân, cướp phá tài sản, gia súc, rồi xuống tầu xuôi ra biển.

Sau 86 ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân dân trong tỉnh đã đồng tâm, hợp lực đánh địch, kiềm chế, giam chân một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp tại thành phố Nam Định, bảo toàn lực lượng. Dân quân du kích địa phương trưởng thành và có thêm nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu và độc lập tác chiến sau này, góp phần làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng và có thêm thời gian củng cố, xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ.

Để phát triển chiến tranh nhân dân sâu rộng, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng [4/1947] đã quyết định: Cấp tốc tiến hành việc tổ chức, huấn luyện, vũ trang và lãnh đạo dân quân. Yêu cầu mỗi xã phải cử ngay đảng viên hoặc cán bộ Việt Minh có năng lực đảm nhiệm việc phát triển dân quân. Các Ủy ban dân quân được đổi thành: Tỉnh đội dân quân, Huyện đội dân quân, xã đội dân quân. Từ đó, việc xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương được đẩy mạnh. Ở mỗi xã đều có ít nhất một trung đội, một số xã có 3-4 trung đội như Diêm Điền, Đông Hòa[[68]]. Các trang thiết bị của ta ban đầu hầu hết bằng vũ khí thô sơ tự tạo, như: dao găm, kiếm, mã tấu.; sau được nhân dân ủng hộ và trích tiền công quỹ, đã mua sắm thêm nhiều vũ khí, mìn, lựu đạn.

Để lên dây cót tinh thần cho quân lính và bọn tay sai phản động, đêm ngày 25/4/1947, Pháp cho hai tầu chiến và ca-nô đưa 2 tiểu đoàn Âu - Phi bất ngờ tổ chức cuộc hành quân thọc sâu vào vùng tự do của ta. Tầu chiến địch từ Nam Định xuôi xuống đổ bộ lên Ngô Đồng và Cồn Nhất, rồi chia thành hai mũi tiến quân theo đường 54 và 56, hợp quân ở Hà Lạn [Quất Lâm], tiếp tục hành quân qua huyện Hải Hậu, Trực Ninh, Nghĩa Hưng, nhằm thăm dò lực lượng quân chủ lực của ta, gây hoang mang trong nhân dân, rồi rút về Nam Định. Cũng buổi sáng ngày hôm đó, một bộ phận quân địch từ tầu chiến tràn lên thôn Hoành Đông, càn quét, cướp bóc lợn gà, giết hại một số người dân[[69]], rồi rút xuống tầu về thành phố Nam Định.

Sau thất bại ở Việt Bắc, chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch bị phá sản, chúng quay về bình định đồng bằng với chiến lược vết dầu loang, mở rộng vùng chiếm đóng, lấn sâu vào các vùng tự do của ta.

Từ cuối năm 1947, đầu năm 1948, thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban Kháng chiến-Hành chính [KCHC] huyện, các xã đã tiến hành rào làng kháng chiến, chống địch mở rộng chiến tranh. Nhân dân các địa phương đã hăng hái tham gia đào giao thông hào, ổ tác chiến. Các lối vào dong xóm đều được rào kín, có cổng kiên cố, ngày đêm bố trí người canh gác, phòng gian bảo mật, báo động khi có máy bay, tầu chiến qua lại trên sông Hồng để nhân dân sơ tán. Lực lượng dân quân du kích thường xuyên mai phục, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ xóm làng.

Mặc dù địa phương còn nhiều khó khăn, Chi bộ, chính quyền, các đoàn thể quần chúng vẫn luôn quan tâm chăm lo, nuôi dưỡng sức dân. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, đầu năm 1947, chính quyền 2 xã Hoành Sơn, Đông Hòa đã tiến hành cấp lại ruộng đất cho nhân dân, đồng thời, thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, phát động phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, tự lực cánh sinh. Phụ nữ lần đầu tiên được cấp phần ruộng đất ngang bằng nam giới[[70]]. Trên mặt trận văn hóa, giáo dục, phong trào bình dân học vụ vẫn tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh. Đến năm 1948, nạn mù chữ cơ bản được xóa xong; việc giáo dục phổ thông được chú trọng, bước đầu ở từng thôn đã có trường Tiểu học phổ thông và bổ túc văn hóa. Cuộc vận động xây dựng đời sống mới được đẩy mạnh, từng bước đẩy lùi các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan.

Những kết quả bước đầu trên đã làm cho đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân địa phương phần nào được cải thiện, có tác dụng động viên mọi người hăng hái trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Từ đó, chính quyền dân chủ nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể ngày càng được củng cố, phát triển vững mạnh, được nhân dân ủng hộ và bảo vệ.

Trong công tác xây dựng Đảng, sau đợt phát triển lớp Đảng viên tháng Tám, tại hội nghị cán bộ mở rộng giữa năm 1948, để đẩy mạnh mọi mặt thi đua Ái Quốc phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc, nhằm xây dựng Đảng thành một Đảng quần chúng vững mạnh, Liên Khu ủy khu 3 đã phát động đợt thi đua phát triển Đảng. Đối tượng là những quần chúng ưu tú, tiên tiến, đã qua rèn luyện thử thách, hăng hái hoàn thành nhiệm vụ, trung thực, tán thành chủ nghĩa cộng sản, làm cho sự lãnh đạo của Đảng ở nông thôn thêm vững mạnh. Từ khi phát động, không khí thi đua trên mọi mặt ở địa phương khá sôi nổi, đã kết nạp được nhiều Đảng viên mới có chất lượng[[71]]. Chỉ tính từ giữa năm 1948 đến tháng 9/1949, số đảng viên được kết nạp vào Đảng khá nhanh[[72]]. Song trong công tác phát triển Đảng, chúng ta cũng phạm những sai lầm, như chạy theo chỉ tiêu số lượng, thiếu điều tra nghiên cứu, bỏ qua các bước công tác [điều tra, tuyên truyền giác ngộ, tổ chức kết nạp], vi phạm nguyên tắc, thủ tục. Do đó, dẫn đến tình trạng phát triển ồ ạt, đưa cả một số người kém chất lượng vào Đảng, thậm chí kết nạp nhầm cả những phần tử xấu, cơ hội[[73]] . Trước tình hình đó, nhằm uốn nắn những sai lầm khuyết điểm trên, tháng 9/1950, Trung ương Đảng quyết định ngừng phát triển Đảng để tiến hành củng cố tổ chức. Liên Khu ủy III cũng đề ra kế hoạch hai tháng củng cố Đảng để chỉ đạo các địa phương thực hiện.

Đối với thị trấn, từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến tháng 10/1949, tuy đôi lần địch có đổ quân lên càn quét sát hại một số người nhưng vẫn là vùng tự do. Tranh thủ điều kiện thuận lợi đó, ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và củng cố hậu phương, mặt khác động viên sức người, sức của thi đua ái quốc, hoàn thành mọi nhiệm vụ trước mắt của công cuộc kháng chiến, kiến quốc, ra sức chăm lo bồi dưỡng sức dân đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc. Tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, tạm giao tậm cấp ruộng lưu trữ, quân cấp lại ruộng đất[ lần đầu tiên phụ nữ được cấp ruộng như nam giới]. Những việc làm trên đây thu được kết quả, nhân dân phấn khởi tin tưởng nhờ đó khơi dậy được lòng yêu nước, hăng hái tham gia mọi phong trào do Đảng đề xướng như: đóng công lương, công trái quốc gia, sôi nổi nhất là cuộc vận động mua: "Công phiếu kháng chiến" nhiều người đã bán thóc, vàng nhà cửa để lấy tiền mua công phiếu như gia đình ông Nguyễn Ngọc Thát[ thôn Hoành Đông] đã bán ngôi nhà gỗ năm gian được 5.000 đồng mua cả công phiếu kháng chiến, nhiều người cũng giành dụm để mua ít nhất một công phiếu, mệnh giá 200 đồng[4].

Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, ngày 20/8/1949 về "Bán thóc khao quân" nhân dân Đông Hòa, Hoành Sơn nhiệt liệt hưởng ứng bước đầu mỗi nơi mua được hơn mười tấn thì địch chiếm đóng Giao Thủy[ số thóc mua được gửi trong nhà dân, địch phát hiện, chúng tịch thu mất phần lớn số thóc này].

Qua 4 năm, chính quyền dân chủ nhân dân và phong trào cách mạng địa phương đã được xây dựng và phát triển sâu rộng. Nhân dân nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, đẩy lùi giặc dốt, giặc đói, xây dựng cuộc sống mới, tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi.

2. Chống địch chiếm đóng, kiên trì bám đất, bám dân, phục hồi, xây dựng cơ sở bí mật từ thấp đến cao, từ hợp pháp đến bất hợp pháp, tiến lên phá tề trừ gian, mở rộng khu du kích [10/1949 - 12/1952]

Năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có bước phát triển mới. Thực hiện chủ trương Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, quân dân ta đã liên tiếp mở nhiều chiến dịch giải phóng nhiều đất đai, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch. Thắng lợi của quân dân ta và các nước bạn Lào Cămpuchia trên khắp các chiến trường, cùng với sự kiện quân giải phóng Trung Quốc ào ạt đánh xuống Hoa Nam, sát biên giới Việt Trung đã đặt quân đội viễn chinh Pháp trước nguy cơ. Chiến lược dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng hệ thống cứ điểm nhỏ và đội quân cơ động ứng chiến để mở rộng lấn chiếm, bình định của chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại.

Lợi dụng tình thế thực dân Pháp sa lầy, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam. Chúng thúc ép Pháp phải trao trả độc lập giả hiệu cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại, thành lập ngụy quân do Mỹ trực tiếp trang bị vũ khí, khí tài, huấn luyện và đài thọ tiền của.

Để xoay chuyển tình thế, ngày 13/5/1949, tướng Rơ-ve, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp được cử sang Đông Dương và đề ra kế hoạch mới mang tên Rơ-ve, với nội dung: Phong tỏa biên giới Việt Trung, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Tăng cường xây dựng quân ngụy, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập trung quân Âu - Phi để xây dựng lực lượng cơ động càn quét, mở những đợt tiến công lớn. Củng cố và đề cao ngụy quyền làm công cụ thực hiện chính sách dùng người Việt đánh người Việt[[74]].

Trong âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng đồng bằng Bắc bộ, địch chọn trọng điểm đột phá là 6 huyện miền nam Nam Định[[75]].

Thực hiện kế hoạch Rơ-ve, giữa tháng 10/1949, quân Pháp tập trung 3 binh đoàn cơ động mở cuộc hành quân Angtơraxít:

- Sáng 16/10/1949, 17 máy bay vận tải và máy bay chiến đấu yểm trợ thả 300 quân dù, cùng vũ khí, xuống Phát Diệm [Ninh Bình].

- Ngày 18/10/1949, 6 tầu chiến, 2 ca-nô từ thành phố Nam Định chở 2 tiểu đoàn quân đổ bộ lên Hạc Châu, Liêu Đông [Xuân Trường], tiến vào đánh chiếm Hành Thiện - Bùi Chu. Cùng ngày, một đơn vị quân địch từ tầu chiến đổ bộ lên đóng bốt Hà Nam [Giao Thủy].

- Ngày 22/10/1949, tầu chiến địch đổ quân lên đóng bốt Ngô Đồng, tiếp sau đó đóng thêm bốt Đông Bình và chùa Tùng Lâm[[76]]. Cùng thời gian này, bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo kích động giáo dân các xứ họ đạo trong huyện nổi dậy nhận vũ khí của địch, chống phá phong trào cách mạng, chia rẽ lương giáo, gây bao cảnh thương tâm nồi da nấu thịt.

Kể từ khi cuộc hành binh Angtơraxít từ ngày 16/10/1949 đến kết thúc cuộc hành binh Phuđơrơ [7/1950], với hàng trăm trận càn quét lớn nhỏ, mở rộng vùng chiếm đóng, quân địch đã thiết lập được một hệ thống chính quyền bù nhìn tay sai ở các địa phương.

Với chiêu bài tử vì đạo, giải phóng đất Thánh, bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo đã lập ra bộ máy ngụy quyền tay sai, tự xưng là tỉnh tự trị Bùi Chu, gồm 4 huyện phía Nam: Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu và một phần của 2 huyện Nghĩa Hưng và Nam Trực. Chúng đã biến các nhà thờ, thánh thất, nơi tôn nghiêm ở các xứ họ đạo thành đồn bốt, biến các gác chuông thành lô cốt, nhà tù giam cầm, ngày đêm tra khảo, đánh đập, sát hại những người kháng chiến, người dân yêu nước, với bao cực hình dã man, tàn bạo. Các tên cha cố đội lốt tôn giáo như Lương Huy Hân, Ngô Xuân Hảo, Nguyễn Đình Tôn...đã cởi bỏ áo choàng đen, mặc áo nhà binh, cầm súng trực tiếp chỉ huy các cuộc càn quét đẫm máu, với khẩu hiệu giết sạch, đốt sạch, cướp sạch. Có lần linh mục Nguyễn Đình Tôn [Giao Xuân] đã thúc ép giáo dân và bọn tề dõng, tràn sang các thôn lương vây bắt cán bộ, cướp phá tài sản, bắn giết du kích; bị nhân dân các xã đánh trả, chúng bỏ chạy về Ngưỡng Nhân, Ngô Đồng; lại bị du kích Diêm Điền, Hoành Nhị chặn đánh, bắt sống hàng chục tên. Nguyễn Đình Tôn phải chui vào chuồng gà nhà dân mới trốn thoát.

Ngay sau khi các huyện phía nam tỉnh bị chiếm đóng, các đảng phái phản động thân Pháp trước đây như Quốc dân Đảng, Đại Việt duy dân lại ngóc đầu dậy cấu kết với giặc chống phá Cách mạng. Nguy hiểm hơn cả là đảng Liên hiệp dân chúng, bọn này có khuynh hướng thân Mỹ, đã luồn vào ngụy quyền các cấp để hoạt động chống phá.

Quyết tâm bám đất, bám dân, phục hồi cơ sở, tiến lên phá tề trừ gian, mở rộng khu du kích

Đầu năm 1949, Trung ương Đảng đã nhận định và chỉ thị phải tích cực chuẩn bị mọi mặt để đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh của địch. Nhưng do chủ quan mất cảnh giác với âm mưu mới của địch, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Giao Thủy lần thứ hai [Quý II - 1949] lại chỉ chủ yếu bàn về chương trình cải tổ kiến thiết hương thôn, như mở mang đường sá, đặt số nhà, xây dựng đời sống mới, coi đó là trung tâm công tác vùng tự do. Tuy có đề ra nhiệm vụ, phương hướng đối phó với âm mưu của địch, nhưng thiếu cụ thể, vẫn cho là địch chỉ quấy rối vùng tự do, chứ chưa có khả năng mở rộng chiến tranh. Một thiếu sót nữa là ta chưa lường hết âm mưu lợi dụng đạo Thiên chúa giáo của chúng. Đến khi chiến sự lan tới thì lúng túng bị động, cho sơ tán hầu hết các cơ quan của huyện. Kể cả cơ quan đầu não cũng đã sơ tán sang vùng tự do Thái Bình. Việc lúng túng và đi sơ tán đã làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hoang mang dao động, một số người cũng chạy theo. Vì thế kẻ thù đã mặc sức hoành hành, khủng bố phong trào[[77]].

Tình hình địa phương lúc này hết sức căng thẳng. Hàng ngày binh lính địch từ Ngô Đồng tràn vào các xóm trại cướp bóc, chặt cây cối về xây dựng đồn bốt. Bọn phản động ở xứ Ngưỡng Nhân có vũ trang lại thường xuyên kéo đến thôn Hoành Đông đe dọa, thúc ép nhân dân lập tề, nếu không chúng sẽ triệt hạ làng. Trước sức ép của địch, số đảng viên còn lại của chi bộ đã chủ trương cùng những người cao tuổi cử ra một số người để lập tề, nhằm che mắt địch và đảm bảo an toàn cho xóm làng. Sau khi nghe báo cáo về chủ trương lập tề nhằm che mắt địch, Huyện ủy đồng ý và giao đồng chí Lê Kim, cán bộ Công an huyện trực tiếp gặp những người dự định đứng ra lập tề để xác định trách nhiệm của họ với cách mạng, với nhân dân. Đồng thời Huyện ủy quyết định cử đồng chí Nguyễn Ngọc Tộ [tức Nguyễn Phan][[78]] cùng một số đảng viên khác chưa tản cư, ở lại nằm vùng, bám đất, bám dân, tiến hành phục hồi phong trào cơ sở[[79]].

Tại thôn Hoành Nhị, khi bọn phản động xứ Ngưỡng Nhân nổi dậy thì bọn phản động họ giáo Hoành Nhị cũng nổi dậy lập tề dõng có võ trang, do Phùng Chí Lý làm Xã ủy, Nguyễn Tường Chánh làm bảo an và một số tên tay sai khác. Bọn này cấu kết với bọn phản động Ngưỡng Nhân hàng ngày xục xạo vào nhà của từng cán bộ, đảng viên; chúng đã bắt và giết đồng chí Phùng Đậu, đồng thời phát thanh đe dọa bắt cán bộ này, đảng viên kia để khủng bố tinh thần quần chúng. Trước hành động táo tợn, gây nhiều tội ác với nhân dân của chúng, chính quyền cách mạng đã nhiều lần giáo dục, răn đe và cảnh cáo, một số tên đã sợ hãi chạy trốn hoặc bỏ việc. Để xoa dịu sự bất bình trong nhân dân, bọn ngụy quyền ở Giao Thủy buộc phải cho lập Ban xã ủy mới thay thế. Chi bộ đã khéo léo lãnh đạo, gạt được những tên tay sai phản động ra khỏi ban tề, đưa những người ủng hộ cách mạng vào ban tề mới. Từ đó việc phục hồi và phát triển cơ sở của ta đã giảm bớt khó khăn.

Trước tình hình đó, để nhanh chóng ổn định tình hình, phục hồi phong trào cơ sở, ngày 06/01/1950, Tỉnh ủy Nam Định đề ra nhiệm vụ: Gấp rút phục hồi tổ chức Đảng, chính quyền, cơ sở quần chúng ở vùng địch mới chiếm đóng. Chống âm mưu bình định vùng tạm chiếm, chống tuyển mộ binh lính của địch; phá tề, trừ gian và các đảng phái phản động; tranh thủ giáo dân, phá âm mưu lợi dụng đạo Thiên chúa của địch. Đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị Tổng phản công; phát triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang; tăng cường địch vận, đẩy mạnh đấu tranh vùng địch hậu; ổn định đời sống nhân dân, đào tạo cán bộ chuẩn bị tổng phản công ở từng địa phương.

Hội nghị còn đề ra một số biện pháp cụ thể như: Mỗi huyện thành lập một trung đội tuyên truyền vũ trang, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục nhân dân; chắp nối cơ sở bị đứt liên lạc; trừng trị những tên tay sai có nhiều tội ác. Nhân lúc địch chiêu hồi dân chúng hồi cư, cán bộ đảng viên, dân quân du kích phải trở về bám đất, bám dân, phục hồi cơ sở. Các chi bộ Đảng phải tự động hoạt động, tập trung lãnh đạo tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng[[80]].

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy Giao Thủy triệu tập các cán bộ chủ chốt của các ban, ngành của huyện và xã đang tản cư tại tỉnh Thái Bình, họp tại làng Văn Tường, huyện Kiến Xương [Thái Bình] để phổ biến Nghị quyết của Tỉnh ủy. Huyện ủy đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh chống địch thời gian qua; đồng thời, phê phán tư tưởng hữu khuynh, sợ địch, thủ tiêu đấu tranh, cầu an bảo mạng, chạy dài không dám trở về hoạt động trong vùng địch chiếm đóng, không dám phá tề trừ gian, hoặc ra trình diện, đầu thú làm tay sai cho địch. Hội nghị quyết định tất cả cán bộ, đảng viên phải nhanh chóng trở về bám đất, bám dân, phục hồi cơ sở.

Sau Hội nghị ở Văn Tường, hầu hết cán bộ đã trở về theo hai đường bí mật và hợp pháp [theo dân tản cư trở về][[81]]. Số đảng viên của cả ba chi bộ Hoành Sơn, Đông Hòa và Diêm Điền chỉ còn có một số ít đồng chí quan điểm lập trường vững vàng, có ý chí và tinh thần chiến đấu, không sợ gian khổ, hy sinh, tiếp tục lặn lội bám đất, bám dân, phục hồi cơ sở.

Khi nhân dân tản cư đã trở về, để ngăn ngừa và khống chế sự hoạt động của ta, hàng ngày cứ tối đến là chúng bắt tất cả những cán bộ kháng chiến, dân quân du kích để tập trung quản thúc ở các điếm canh do bọn dân vệ canh giữ, kiểm soát. Lợi dụng những khi tập trung, ta đẩy mạnh tiếp xúc, tuyên truyền giáo dục, ổn định tinh thần cho cán bộ, đảng viên.

Để mở đường dây bí mật đưa cán bộ vào vùng tạm chiếm, sau khi nắm tình hình mọi mặt, đồng chí Nguyễn Phan đã gửi báo cáo, do chị Phan Thị Liên, giao thông viên, giả là người buôn bán hàng đi chợ Gốc, Thái Bình, chuyển tới trạm liên lạc của Văn phòng Huyện ủy Giao Thủy. Nhận được báo cáo, Huyện ủy giao đồng chí Đặng Việt Châu, Trưởng trạm giao thông và đồng chí Đinh Văn Hội, giao thông viên của huyện, lợi dụng đêm tối từ Thái Bình vượt sông Hồng mang chỉ thị của Huyện ủy đến liên lạc với đồng chí Nguyễn Phan để tổ chức nơi đặt trạm giao liên, tổ giao liên, đưa đón cán bộ bí mật vào vùng và bố trí cơ sở nuôi giấu cán bộ[[82]]. Một số hầm bí mật được đặt tại gia đình ông Phan Văn Phỏng, Nguyễn Ngọc Vãn và từ đường họ Trần [Hoành Đông, do ông Trần Văn Đóa coi giữ][[83]].

Khi mọi công việc đã được khẩn trương chuẩn bị xong, đồng chí Đinh Văn Hội trở lại Thái Bình, báo cáo tình hình và sự chuẩn bị cơ sở mọi mặt của ta, sẵn sàng chờ đón cán bộ bí mật trở về. Sau đó, các đồng chí Đinh Văn Hà [tức Bái] ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Trưởng miền 3; đồng chí Lê Văn Lễ, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến huyện, kiêm Chánh văn phòng Huyện ủy; đồng chí Hoàng Bội, Huyện ủy viên, Huyện đội trưởng dân quân, đã trực tiếp về kiểm tra tình hình và chỉ đạo nhiệm vụ phục hồi cơ sở, đồng thời trao Quyết định của Huyện ủy chỉ định đồng chí Phan Quang Đãi trực tiếp làm Bí thư Chi bộ Đông Hòa[[84]]. Ít ngày sau, vì điều kiện sức khỏe [bệnh mãn tính], đồng chí Phan Quang Đãi không thể đảm đương được nhiệm vụ trong hoàn cảnh địch hậu đầy khó khăn đã được Huyện ủy đồng ý miễn nhiệm và cử đồng chí Nguyễn Phan làm Bí thư Chi bộ Đông Hòa.

Tiếp đó, đồng chí Đinh Văn Hà cùng các đồng chí khác đến thôn Hoành Nhị bắt liên lạc với đồng chí Phùng Hữu Xuyến, đồng chí Phùng Hữu Hùng [tức Thành]. Sau khi nắm tình hình chung, đồng chí Đinh Văn Hà trao Quyết định của Huyện ủy khai trừ Đảng đối với Bí thư Chi bộ cũ [cầu an đào nhiệm]; đồng thời chỉ định đồng chí Phùng Hữu Hùng làm Bí thư Chi bộ Hoành Sơn.

Ở Diêm Điền, sau khi đồng chí Phạm Ngọc Viên nhập ngũ, đồng chí Lê Hào được Huyện ủy chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Năm 1950, vì lý do gia đình ông Hào xin ra khỏi Đảng.

Từ khi quê hương bị chiếm đóng, mặc dù kẻ địch ra sức đàn áp, khủng bố, nhưng dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, với lòng yêu nước, căm thù giặc, quần chúng nhân dân đã bất chấp hiểm nguy, hết lòng, ủng hộ cách mạng. Từ một vài cơ sở ban đầu, chỉ trong thời gian ngắn đã phát triển được nhiều cơ sở sinh tử. Hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, bộ đội có ở khắp các thôn xóm. Những gia đình ở sát bốt Ngô Đồng như gia đình bà Nguyễn Thị Bạch, Nguyễn Thị Giá, ông PhạmVăn Năm, Phạm Văn Khoa cũng là cơ sở Cách mạng. Gia đình bà Bùi Thị Tăng [Diêm Điền] là trạm giao liên, bản thân bà và các con đều là giao liên và là cơ sở nuôi dưỡng, bảo vệ nhiều cán bộ, bộ đội. Có cơ sở như gia đình ông Trần Văn Ngao có hầm bí mật đang nuôi giấu cán bộ, bị bọn chỉ điểm theo dõi báo cho địch bao vây xục xạo, tìm bới mãi vẫn không thấy được gì. Chúng bắt vợ chồng ông Ngao đánh đập, tra khảo hết sức dã man, nhưng với tinh thần dũng cảm, kiên quyết bảo vệ cán bộ, vợ chồng ông vẫn khẳng khái trả lời không có gì hết, nếu có tôi xin chịu tội. Bất lực, chúng liền bắt em Trần Thị Dâu, em gái ông Ngao, còn đang tuổi vị thành niên ra dụ dỗ, kể cả dùng vũ lực đe dọa, nhưng cũng không lay chuyển được em, mặc dầu em biết dưới hầm có cán bộ đang ẩn nấp. Cuối cùng, chúng đành phải rút đi và để lại những lời hăm dọa.

Để bảo vệ an ninh, nhân dân còn tự nguyện tham gia tổ chức thập ngũ gia liên bảo, cứ 5 - 10 nhà hợp thành một liên gia, mỗi khi có biến động, như địch từ vị trí xuất quân ra hướng nào, hoặc có người lạ mặt vào dong xóm là theo dõi, có ám hiệu nhà nọ báo cho nhà kia biết để đề phòng. Nhờ có mạng lưới đó và ý thức bảo vệ cán bộ của nhân dân mà suốt thời kỳ địch chiếm đóng tại địa phương, tất cả các cơ sở nuôi giấu cán bộ đều được đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Thời điểm này, tình hình ở Giao Thủy nói chung, ở địa phương nói riêng diễn biến hết sức phức tạp. Với tính chất cực kỳ phản động của cái gọi là tỉnh tự trị Bùi Chu, địch ra sức thực hiện âm mưu Ba hóa.

- Một là: Phản động hóa, lôi kéo được nhiều người vào tổ chức phản động, đảng Duy dân Tân việt và đảng Dân chủ Liên hiệp, chống lại Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Hai là: Chỉ điểm hóa, bằng thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo những phần tử lưu manh, côn đồ, bất mãn, phản bội làm quân báo chỉ điểm cho địch ở địa phương.

- Ba là: Công giáo hóa toàn địa phận Bùi Chu, với các thủ đoạn: mua chuộc, dụ dỗ và đe dọa, ép buộc nhân dân bỏ lương tòng giáo. Nếu ai phản đối thì chúng bắt, giam cầm, vu cho là Việt Minh, Cộng sản.

Trước sức ép đó, ở nhiều làng xã trong huyện, nhân dân phải bỏ lương tòng giáo, trong đó có một số người dân Đông Bình đã phải dẹp bỏ bàn thờ ông bà, cha mẹ để thờ ảnh Chúa, phá chùa Đông Bình, cắm thánh giá lên nóc chùa, bỏ tượng Phật thay bằng tượng Chúa, biến chùa thành giáo đường. Trong khi đó, chúng vẫn rêu rao vu cáo rằng: Cộng sản cấm đạo, phá đạo.

Trên đường dây đưa đón cán bộ, bộ đội ra vào vùng tạm chiếm, từ vùng tự do Thái Bình qua đường Cống Chúa [Hoành Đông], với thời gian ngắn, hàng trăm cán bộ quân, dân, chính của huyện, xã, đội vũ trang tuyên truyên và cán bộ tổng phản công tỉnh tăng cường cho địa phương đã qua đường dây này an toàn. Tuy vậy, địch cũng gây cho ta những tổn thất. Trong một đêm giữa năm 1950, địch bất ngờ phục kích bắt 7 cán bộ, trong đó có 3 đồng chí cấp ủy huyện[[85]]. Từ đó, đường dây này thường xuyên bị địch phục kích, phải chuyển địa điểm mới tại trạm Nguyệt Giám [Thái Bình] qua trạm Phú Ân [Xuân Trường]. Trong một chuyến đưa đồng chí Nguyễn Tất Thắng, Bí thư Huyện ủy Giao Thủy vừa nhận nhiệm vụ cùng một số cán bộ khác vào vùng tạm chiếm, trong đêm tối, vừa qua sông thì được tin báo đường dây bị địch phục kích không thể đi được. Đoàn cán bộ phải nằm lại nhờ cơ sở ở Xuân Tân [Xuân Trường] và bị cơ sở phản bội báo cho địch. Ngày hôm sau, đoàn bị địch bao vây, tất cả đều chạy ra cánh đồng lúa. Đồng chí Nguyễn Tất Thắng bị chúng bắn chết, đồng chí Vũ Thụy, Bí thư Huyện đoàn thanh niên bị chúng bắt được, đánh đập và giam tại nhà tù Lục Thủy [Xuân Trường][[86]], chỉ một số người chạy thoát, trong đó có nhân viên văn phòng Huyện ủy Phạm Bá Trạch người làng Diêm Điền và Nguyễn Vẻ- giao thông viên dẫn đường.

Tháng 4/1950, trên đường dây nội địa, đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Trung đội trưởng Bộ đội địa phương huyện cùng đồng chí Nguyễn Lục, liên lạc đơn vị, đang trên đường đi làm nhiệm vụ từ thôn Hoành Đông sang thôn Hoành Nhị, bị tên Trần Toán là quân báo phòng nhì Bùi Chu chỉ điểm, chúng đã phục kích và bắt hai đồng chí.

Nhằm phát triển chiến tranh nhân dân, với tinh thần xã nào cũng đánh giặc, giặc đi đến đâu cũng bị đánh, tháng 7/1950, Tỉnh ủy Nam Định chủ trương mở cuộc vận động lương giáo đoàn kết thi đua giết giặc, phá tề trừ gian, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của địch. Để giáo dục, thuyết phục, răn đe; đồng thời trừng trị một số tên ngoan cố đã gây nhiều tội ác, từng địa bàn tiến hành phân loại bọn phản động tay sai ở địa phương. Hình phạt tội trạng từng tên phải được Tòa án nhân dân tỉnh quyết định; nghiêm cấm việc giết ẩu. Xét thấy tên Trần Toán, quân báo phòng nhì Bùi Chu là một tên tay sai nguy hiểm, đã gây nhiều tội ác, bị nhân dân oán ghét; gia đình y lại cư ngụ tại Miếu Bắc [Hoành Nhị] là một trở ngại lớn trên đường dây qua lại hoạt động của cán bộ, bộ đội, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định tuyên phạt Trần Toán mức án tử hình. Sau vụ xử lý tên Trần Toán, địch ra sức khủng bố, vây ráp, bắt một số đảng viên của ta, trong đó có đồng chí Trần Đình Điềm, Phan Đức Long, Trần Trọng Tấn, Phan Văn Cừu, Nguyễn Phan và một số quần chúng ở Hoành Sơn[[87]]. Sau khi đồng chí Nguyễn Phan [Bí thư Chi bộ Đông Hòa] bị địch bắt, Huyện ủy quyết định cử đồng chí Phan Văn Toại [tức Thọ] làm Bí thư Chi bộ Đông Hòa.

Nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày cách mạng Tháng Tám thành công, Huyện ủy phát động các xã đồng loạt hoạt động với nhiều hình thức như treo cờ, dựng cổng chào, khua âm thanh, đốt điếm canh của địch, hành quân thị uy, kết hợp với đấu tranh vũ trang, trừng trị những tên chỉ điểm, thám báo, phản động để gây thanh thế. Đội tuyên truyền vũ trang công an, biệt động của ta đã đột nhập vào các nhà bọn tề, giáo dục, răn đe, khiến bọn chúng hoang mang lo sợ[[88]]. Mặc dù đã có chỉ thị cấm giết ẩu, nhưng trong quá trình thực hiện, cũng đã xảy ra 1 vụ giết ẩu ở chi bộ Đông Hòa[[89]]. Để đề cao tính nghiêm minh của Pháp luật và kỷ cương của Đảng, Huyện ủy quyết định giải tán Ban chi ủy và kỷ luật nghiêm khắc với những đảng viên phạm sai lầm trong vụ việc trên; đồng thời chỉ định Ban chi ủy mới của Chi bộ Đông Hòa gồm: Đồng chí Nguyễn Hoài Phong, Bí thư Huyện đoàn Thanh niên Cứu quốc Giao Thủy, trực tiếp làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Nguyễn Ngọc Thố, Bí thư xã Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Chi ủy viên; đồng chí Phan Văn Quyền, Xã đội trưởng dân quân, Chi ủy viên.

Cuối năm 1950, chiến thắng Biên giới của ta giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm chuyển biến cục diện chiến trường, tạo điều kiện để quân và dân ta tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi trong những năm tiếp theo. Để cứu vãn tình thế, ngày 16/12/1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ-lát Đờtátxinhi, Tư lệnh lục quân khối Tây Âu làm Tổng chỉ huy quân đội Viễn chinh, kiêm chức Cao ủy Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch gồm 4 điểm:

- Gấp rút tập trung binh hỏa lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược và ra sức phát triển ngụy quân.

- Xây dựng tuyến phòng thủ cắt ngang miền Bắc bằng con đường số 18, bên ngoài hệ thống này là một vành đai trắng bao vây quanh vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, ngăn chặn giữa vùng tạm chiếm và vùng tự do.

- Tập trung lực lượng bình định, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ, coi đây là cái chốt ở Đông Nam Á.

- Phá hoại các vùng tự do và chuẩn bị mở cuộc tấn công ra vùng tự do của ta, hòng gây thanh thế, lấy lại tinh thần cho binh lính địch sau thất bại Biên giới, hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường[[90]].

Tại địa phương lúc này, sau nhiều cố gắng, nỗ lực, cơ sở mọi mặt được phục hồi và phát triển tương đối vững mạnh. Ta đã giành thế chủ động ban đêm, từng lúc chủ động được cả ban ngày. Để tránh bị tiêu diệt, địch phải rút bỏ vị trí Tùng Lâm và nhiều đồn bốt nhỏ lẻ khác trong huyện.

Trước đó, địch đã đặt ra nhiều thứ thuế để bóc lột nhân dân, ngoài thuế ruộng đất, thuế môn bài, thuế thuyền chài, thuế muối, chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý như thuế lập tỉnh Bùi Chu, thuế nuôi dưỡng.đánh vào người dân từ 16 đến 60 tuổi, kể cả nam và nữ. Nay thừa cơ, ta đã phát động nhân dân đấu tranh đòi giảm thuế và khất thuế. Nhân dân Hoành Đông còn đấu tranh buộc địch phải để nhân dân xẻ đê hạ Cống Chúa để lấy nước chống hạn, tiêu nước chống úng[[91]].

Để đào tạo nguồn bổ sung, các đồng chí có quan điểm lập trường vững vàng, có phương pháp công tác trong vùng địch chiếm đóng bổ sung vào lực lượng cán bộ tổng phản công tại chỗ, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, trường tổng phản công của tỉnh đã trực tiếp mở lớp huấn luyện cho từng huyện. Riêng huyện Giao Thủy đã tiến hành mở lớp tại vùng tự do xã Đức Long, huyện Vũ Thư [Thái Bình]. Huyện ủy quyết định cho mỗi xã được cử từ một đến hai cán bộ đi dự lớp này[[92]], thời gian một tháng, với nội dung:

- Tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng.

- Chiến lược Tổng phản công của Đảng.

- Công tác vùng địch chiếm đóng.

- 6 tiêu chuẩn của người cán bộ tổng phản công.

Sau chiến thắng Biên giới, Trung ương mở tiếp chiến dịch Quang Trung [chiến dịch Hà Nam Ninh] nhằm tiêu hao một bộ phận sinh lực địch. Sau chiến dịch Quang Trung, địch tập trung càn quét, đánh phá các làng kháng chiến ở các huyện miền bắc tỉnh, lập phòng tuyến sông Đào, gây rất nhiều khó khăn cho các huyện miền nam tỉnh trong việc đi lại từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do. Chúng đưa một số đơn vị ứng chiến Âu Phi ở các nơi về khu vực Bùi Chu, hỗ trợ cho bọn ngụy quân, ngụy quyền trong vùng tăng cường đánh phá, bình định, o ép nhân dân. Để đối phó, thực hiện chỉ đạo của tỉnh, huyện; cán bộ, đảng viên của ta phải kiên trì bám đất, bám dân, luồn tránh, đánh địch một cách linh hoạt, chống các biểu hiện cầu an, ỷ lại, thủ tiêu đấu tranh, hoặc manh động, lạc quan tếu, giữ vững cơ sở, đồng thời chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu phản công địch khi có thời cơ.

Bọn địch vô cùng tàn ác, dùng nhiều thủ đoạn, cực hình man rợ như treo ngược đầu, dìm nước, tẩm dầu đốt, mổ bụng, moi gan, chôn sốngđể lung lạc tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Nhiều người bị chúng tra tấn cực kỳ dã man vẫn kiên quyết không khai báo. Thời gian này, quân địch thường xuyên tiến hành các vụ bao vây, bắt bớ nhiều người đưa đi Bùi Chu tra tấn hoặc giam ở nhà tù Máy chai. Mặc dù hết sức tàn ác, chúng vẫn không khuất phục được tinh thần bất khuất, quyết tâm đánh giặc cứu nước của nhân dân ta.

Cuối năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tiến hành từ ngày 11 đến 19/12/1951, đề ra phương hướng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến toàn thắng, đồng thời quyết định đổi tên Đảng cộng sản là Đảng Lao động Việt Nam.

Theo phương hướng chiến lược đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 27/9 đến 05/10/1951 đã đề ra 3 nhiệm vụ lớn để đưa cuộc kháng chiến, kiến quốc đến thắng lợi, đó là:

- Tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến lên giành ưu thế quân sự, phá kế hoạch phòng ngự của địch ở Trung du và Bắc bộ.

- Phá tan kế hoạch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch.

- Củng cố phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, giáo dục tư tưởng kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi; bồi dưỡng lực lượng, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân; xây dựng căn cứ địa và củng cố hậu phương để phục vụ tiền tuyến, phục vụ kháng chiến, kiến quốc[[93]].

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội II của Đảng, Trung ương chủ trương tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế về quân sự, phá tan kế hoạch phòng ngự của địch ở Trung du và Bắc bộ[[94]], đồng thời đưa một bộ phận quân chủ lực vào vùng địch hậu, phối hợp với quân dân các địa phương mở rộng các khu du kích.

Tháng 11/1951, địch tập trung 20 tiểu đoàn đánh ra Hòa Bình; ở 6 huyện miền nam Nam Định, lực lượng của chúng còn lại rất mỏng. Ở huyện Giao Thủy, vị trí Ngô Đồng, Thức Hóa chỉ còn trên 500 quân. Tỉnh ủy chỉ đạo cho 6 huyện miền nam tỉnh đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá tề, trừ gian, diệt viện, đưa chính quyền ta ra hoạt động công khai. Các địa phương đã chủ động tiến công đánh địch, thu nhiều thắng lợi. Bộ đội địa phương và du kích xã Quất Hải đã bao vây bức hàng bốt dân vệ xứ Quất Lâm, thu 20 súng. Trung đội dân vệ của địch ở xứ Đại Đồng cũng bị bộ đội địa phương và dân quân du kích bức hàng. Tình hình Giao Thủy có nhiều chuyển biến mới. Huyện ủy, Ủy ban KCHC huyện sơ tán tại Thái Bình đã chuyển về huyện nhà để trực tiếp chỉ đạo mọi mặt. Cuối năm 1951 là thời kỳ ta quét tề mạnh, nhiều vùng tề bị phá vỡ. Bọn tề, dõng chỉ còn lại ở một số thôn mà chúng đã xây dựng thành đồn bốt kiên cố. Cũng thời gian này Đội công an xung phong đặc nhiệm phối hợp với xã đội đột nhập vào nhà các tên phản động ác ôn thuyết phục và cảnh cáo, buộc chúng phải làm cam đoan không được bắt lính, thu thuế cho địch, nhũng nhiễu nhân dân, làm hại cách mạng. Đầu tháng 2/1952, hai đơn vị trung đoàn 52 và 64 của Bộ và Quân khu từ Hải Hậu đã hành quân sang Quất Hải, Hải Yến, về đóng quân tại Hoành Nha. Sự có mặt của bộ đội chủ lực đã tạo điều kiện cho quân dân Giao Thủy nói chung và Ngô Đồng nói riêng đẩy mạnh các hoạt động vũ trang đánh địch.

Trước sự phối hợp hoạt động mạnh của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích nên khu du kích được mở rộng; các xã đồng loạt tịch thu sổ sách, giải tán ngụy quyền, tước vũ khí của bọn tề, dõng. Chính quyền nhân dân công khai ra hoạt động. Bọn tề dõng ở các xã lần lượt ra trình diện và nộp vũ khí, sổ sách; những tên ngoan cố có nhiều tội ác đều trốn chạy lên Bùi Chu. Thời kỳ đen tối 2 năm 4 tháng [10/1949 - 02/1952] mà bọn địch đã gây bao đau khổ cho nhân dân các huyện miền nam tỉnh đến đây chấm dứt. Riêng địa bàn Thị trấn, một phần là vùng du kích của ta, một phần bốt địch vẫn còn chiếm đóng.

4. Tranh thủ thời cơ mở khu du kích; tích cực chống địch càn quét, tái chiếm lập tề; bao vây bức rút bốt Ngô Đồng, quê hương hoàn toàn giải phóng [02/1952 - 7/1954]

Chống địch càn quét, giữ vững khu du kích

Sau thất bại ở chiến trường Hòa Bình, địch tiếp tục quay lại bình định đồng bằng Bắc Bộ. Ngay trước khi chiến dịch Hòa Bình kết thúc, Ban Bí thư TW đã có Chỉ thị số 02-CT/TW ngày 25/01/1952 chỉ rõ: Giặc Pháp đang lúng túng to, nhưng sức địch còn mạnh, cần phải sẵn sàng chống lại tất cả các cuộc càn quét lớn nhỏ của địch mà bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra[[95]].

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy phát động rộng rãi phong trào nhân dân chuẩn bị chống càn quét; dù gian khó đến đâu cũng phải bám đất, bám dân, chiến đấu bảo vệ khu du kích, vận động nhân dân đào hầm hố tránh phi pháo, cất giấu lương thực, tài sản

Đầu tháng 10/1952, nhằm gỡ thế bị bao vây uy hiếp; phá thuế nông nghiệp, phá hoại kinh tế, mùa màng, làm suy yếu vùng du kích và căn cứ du kích; làm lu mờ chiến thắng của ta, lấy lại tinh thần cho ngụy quân, ngụy quyền và gây ảnh hưởng trong giáo dân[[96]], tướng Salăng đã sử dụng một lực lượng lớn, có phi pháo yểm trợ đánh vào khu vực Hà Nam Ninh. Cuối tháng 11/1952, địch rút quân cơ động từ Tây Bắc và các chiến trường khác, với lực lượng tập trung lớn, gồm 21 tiểu đoàn, 50 khẩu pháo các cỡ, 50 xe lội nước, 50 xe vận tải, 8 tàu chiến và ca-nô, 22 máy baytổ chức cuộc càn Bretagne vào các khu du kích và căn cứ du kích phía nam tỉnh Nam Định. Cuộc càn này do tướng Salăng và Nguyễn Văn Hinh tỉnh trưởng ngụy Nam Định trực tiếp chỉ huy, thời gian diễn ra trong một tháng, từ 01 đến 31/12/1952 và chia làm 3 đợt:

- Đợt 1: Từ 01 đến 11/12/1952, càn huyện Nam Trực, Trực Ninh.

- Đợt 2: Từ 13 đến 23/12/1952, càn huyện Xuân Trường, Giao Thủy.

- Đợt 3: Từ 24 đến 31/12/1952. càn huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng.

Sau khi càn quét huyện Xuân Trường, ngày 16/12/1952, địch từ Xuân Trường, vị trí Ngô Đồng, cùng với tầu chiến từ Nam Định xuống, đổ quân lên càn quét các xã miền 1 và một số xã miền 3 của Giao Thủy. Trước khi tiến quân đến điểm nào, pháo địch từ Bùi Chu, Hành Thiện, Ngô Đồng đã đồng loạt bắn cấp tập để uy hiếp, dọn đường cho quân bộ tiến vào [nhân dân gọi là đại bác chùm]. Trên bầu trời, máy bay địch gầm rú và bắn phá. Quân bộ đi đến đâu là chúng đốt phá nhà cửa, bắn giết, cướp thóc lúa; trâu bò, lợn gà của nhân dân. Nhiều thanh niên, đa phần là người công giáo, đã bị chúng bắt đi lính. Trong trận càn này, tại địa phương, do bọn tay sai phát hiện và chỉ điểm, địch đã bắt một số người, trong đó có đồng chí Doãn Đình An [khu 5A] là Xã đội phó và Nguyễn Văn Thành [khu 4B] là du kích. Để khủng bố tinh thần nhân dân, địch tra khảo, đánh đập hai người cực kỳ tàn bạo. Không tra hỏi được gì, cuối cùng chúng hành quyết bằng hình thức vô cùng man rợ như treo cổ, cắt tiết, xẻo da thịt.

Trong trận càn Bretagne từ 16 đến 22/12/1952 tại Giao Thủy nói chung, Thị trấn nói riêng, quân địch cũng đã thực hiện được một phần âm mưu phá hoại khu du kích của ta. Nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân và Nhà nước đã bị chúng đốt phá và cướp đi; một số người dân bị sát hại và nhiều thanh niên đã bị chúng bắt lính. Tuy nhiên, bọn địch vẫn không thực hiện được mục tiêu tìm diệt lực lượng bộ đội ta, không dựng lại được bộ máy ngụy quyền tay sai. Khi chúng rút đi thì bọn tề dõng cũng phải chạy theo; khu du kích vẫn được giữ vững.

Sau trận càn này của địch, trên nhận định địch có thể càn quét trở lại để tiếp tục thực hiện ý đồ còn bỏ dở. Tỉnh ủy chủ trương bổ sung nhiệm vụ chống địch càn quét, với phương châm: Chuẩn bị chống càn và liên tục chống càn. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vũ trang nơi địch tái lập tề. Củng cố cơ sở, tranh thủ quần chúng nhân dân. Tranh thủ phá tề, trừ gian ở những nơi địch tái lập tề.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã tổ chức Hội nghị mở rộng, kiểm điểm rút kinh nghiệm, khắc phục những thiếu sót trong việc chỉ đạo chống càn vừa qua và đề ra một số nhiệm vụ cụ thể sau:

- Giáo dục cho cán bộ, đảng viên, bộ đội địa phương, dân quân du kích thấy rõ âm mưu thâm độc của địch, nâng cao tinh thần cảnh giác, tinh thần chiến đấu, chống tư tưởng cầu an, bi quan dao động, sợ hy sinh gian khổ, bật đất, thủ tiêu đấu tranh.

- Chấn chỉnh lực lượng vũ trang, bán vũ trang, chuẩn bị chu đáo kế hoạch và phương án tác chiến, chống địch càn quét.

- Chuẩn bị mọi mặt bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân, Nhà nước, nhất là bảo vệ thanh niên, chống địch bắt lính.

- Xác định nhiệm vụ trực tiếp của cấp ủy, đồng chí Bí thư Huyện ủy, Bí thư Chi bộ xã trực tiếp làm chính trị viên huyện đội và xã đội[[97]].

Sau cuộc càn Bretagne, địch tiếp tục thực hiện âm mưu bình định đồng bằng Bắc bộ hòng tái chiếm lại những vùng đã mất ở 6 huyện miền nam tỉnh Nam Định. Chúng mở chiến dịch Tarangtedơ [tên 1 Thánh tử vì đạo], một mặt dùng lực lượng nhỏ từ một đến hai tiểu đoàn cơ động càn đi, quét lại dài ngày ở Xuân Trường từ đầu tháng 01 đến 27/5/1953, mặt khác dùng đội quân thứ hành chính lưu động đi sau làm nhiệm vụ tuyên truyền lừa bịp để tái lập tề dõng và dụ dỗ thanh niên [chủ yếu là thanh niên gốc giáo vùng du kích ở các huyện] trốn lên Bùi Chu đi lính cho địch; thành lập được 3 tiểu đoàn khinh quân và 13 chi đội địa phương quân.

Khi đã xây dựng được lực lượng khinh quân và địa phương quân, chúng dùng lực lượng này càn quét xuống Giao Thủy, gồm 2 tiểu đoàn cơ động, 2 tiểu đoàn khinh quân, 3 chi đội địa phương quân, một đại đội Gamô. Các đơn vị vừa làm nhiệm vụ chiếm đóng vừa càn quét. Một tiểu đoàn khinh quân khác chiếm đóng lại vị trí Đại Đồng. 3 vị trí Ngô Đồng, Đại Đồng, Thức Hóa, hình thành nên thế chân vạc, uy hiếp ở cả 3 vùng trong huyện. Bọn địa phương quân phối hợp cùng với lực lượng cơ động càn đi, quét lại, làm chỗ dựa cho bọn tề dõng lưu vong trước đây đã chạy trốn lên Bùi Chu nay theo về cấu kết với bọn phản động nằm lại để tái lập tề.

Khi quân địch càn quét nhỏ mấy tháng trời ở Xuân Trường, mặc dù Huyện ủy đã nhắc nhở chỉ đạo sát sao, nhưng do lâu không thấy địch hành động gì ở Giao Thủy, nên nhiều người nảy sinh tư tưởng chủ quan, cho rằng địch chỉ càn quét Xuân Trường nhằm gỡ thế bị uy hiếp để bảo vệ Bùi Chu, chứ chưa có khả năng mở rộng càn quét chiếm đóng lúc này. Vì thế việc chuẩn bị chống càn ở địa phương tuy có tiến hành nhưng thiếu tích cực, đến khi địch chuyển hướng càn xuống Giao Thủy thì bị động, lúng túng. Bọn địch càn quét ngày càng ác liệt, bọn tề dõng vừa được tái lập cũng điên cuồng chống phá cơ sở phong trào kháng chiến, nhất là ở các xã miền 2 và các xã ven vị trí địch chiếm đóng[[98]].

Các thôn Hoành Đông, Hoành Nhị và Diêm Điền đều ở sát bốt Ngô Đồng, hàng ngày bị địch o ép, khủng bố; một bộ phận cán bộ, đảng viên, du kích hoang mang, dao động đã bật đất sang Thái Bình; nhân dân [trừ một số ông bà già] đều tản cư ra cuối xã, xa bốt giặc. Tên Phan Văn Điềm, ở Hoành Đông, trước đây đã tòng giáo, nay tập hợp một số tên lập tề dõng, dựa vào quân giặc, hàng ngày về làng xục xạo, tối đến lại chạy vào đền khấn sát bốt Ngô Đồng ẩn tránh.

Trước tình hình đó, Huyện ủy đã kịp thời uốn nắn những biểu hiện tư tưởng lệch lạc, xác định quan điểm lập trường, kiên định bám đất, bám dân chống càn quét, giữ vững khu căn cứ du kích; đồng thời quyết định tăng cường cán bộ huyện về trực tiếp làm Bí thư Chi bộ ở một số xã xung yếu mà phong trào đang có nhiều khó khăn. Thời gian này, năm 1952 Huyện ủy quyết định hợp nhất xã Giao Hòa và Diêm Điền thành xã Giao Điền Hòa. Đồng chí Nguyễn Ngọc Tộ [tức Nguyễn Phan] cán bộ Văn phòng Huyện ủy, được điều về trực tiếp làm Bí thư Chi bộ kiêm Chính trị viên xã đội Giao Điền Hòa. Đồng chí Phùng Hữu Hùng [tức Thành] cán bộ Văn phòng Huyện ủy về trực tiếp làm Bí thư Chi bộ kiêm Chính trị viên xã đội Giao Sơn.

Trong trận càn quét dài, suốt 59 ngày đêm đối với xã Giao Điền Hòa và Hoành Sơn, địch đã tái lập được tề dõng ở Hoành Đông, nhưng chỉ là hình thức. Bọn này ban ngày theo giặc về làng xục xạo, tối đến lại chạy lên đồn trú ẩn. Song, chúng cũng gây cho địa phương một số thiệt hại như đốt nhà, cướp lợn gà, thóc lúa và thóc thuế nông nghiệp Nhà nước gửi trong nhân dân. Bọn địch từ vị trí Đại Đồng cùng bọn tề, dân vệ tái lập ở xứ Thuận Thành, Giao Hồng cũng thường tràn sang càn quét, cướp phá ở trại bể Hoành Đông. Trong các trận càn đó, bọn chỉ điểm đã nhận mặt, báo cho địch bắt được đồng chí Nguyễn Như Loan, Trưởng ban thông tin tuyên truyền xã. Chúng đã tra khảo, đánh đập đồng chí Loan cực kỳ dã man và bắn chết đồng chí ngay tại chỗ.

Để hạn chế bọn địch từ phía Ngưỡng Nhân tràn sang, du kích Hoành Sơn đã phối hợp với Bộ đội địa phương huyện, bố trí các trận địa gài bom, chông, mìn ở phía Chùa nổi Hoành Nhị và phục kích tiêu diệt. Trong một trận, khi quân địch lọt vào trận địa, quân ta nổ súng bất ngờ khiến chúng hoảng loạn chạy tháo thân quay trở lại. Một số tên trúng mìn và bị ta bắn tiêu diệt, tên trung sỹ Quyết bị bắt sống; quân ta thu một trung liên và 8 súng trường. Dân quân du kích xã Giao Điền Hòa cũng thường xuyên chống trả bọn địch từ vị trí Ngô Đồng kéo ra càn quét. Nhiều lần chúng định vượt sông Cồn Nhất tràn sang càn quét thôn Diêm Điền nhưng đều bị du kích của ta chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải rút lui.

Phối hợp với chiến trường chính bao vây bức rút vị trí Ngô Đồng, giải phóng quê hương

Kết thúc chiến dịch Tarangterơ, địch cố đóng lại một số vị trí, tái lập được tề dõng ở một số xã miền 2[[99]] và xung quanh khu vực Đại Đồng, Thức Hóa, Ngô Đồng. Khi quân cơ động rút đi, bọn khinh quân[[100]] được giao làm nhiệm vụ đóng chốt, nhưng đều ở thế bị cô lập, ngày càng bị bao vây khốn đốn, bọn tề dõng cũng tan rã bỏ chạy theo.

Sau tám năm tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nước Pháp đã hao người tốn của; tâm lý thất bại, mệt mỏi đã xuất hiện không chỉ trong binh lính mà còn ở cả trong chính giới và nhân dân Pháp. Phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương ngày càng lan rộng trong nước Pháp và nhiều nước trên thế giới.

Trước tình thế đó, Pháp được Mỹ viện trợ gấp 5 lần so với năm 1950[[101]] nhằm cố sức tạo ra sự thay đổi cục diện trên chiến trường có lợi cho chúng. Tháng 5/1953, Pháp cử tướng Nava, Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương [Natô] làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, với nhiệm vụ tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị mới[[102]]. Chúng hy vọng sẽ giành lại được thế chủ động chiến lược trên khắp các chiến trường chỉ trong vòng 18 tháng[[103]].

Căn cứ vào cục diện chiến trường Đông Xuân 1953-1954 trên cả nước, Trung ương Đảng đề ra phương châm chiến lược là: Tập trung tiến công vào những hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối yếu; giải phóng một phần đất đai, buộc địch phải phân tán lực lượng, đối phó với ta trên những điểm xung yếu, tạo điều kiện để tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường và vùng sau lưng địch, nhằm giam chân quân cơ động và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch[[104]].

Thực hiện chủ trương tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, trong những tháng đầu năm 1954, quân ta đã liên tiếp mở những đợt tiến công lớn ở Lai Châu, Tây Nguyên và cùng với bộ đội nước bạn đánh mạnh ở Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia...giành nhiều thắng lợi lớn, làm cho kế hoạch tập trung lực lượng cơ động ở đồng bằng Bắc bộ của Nava từng bước bị phá sản.

Chiến dịch Điện Biên phủ diễn ra ngày càng quyết liệt, buộc địch phải rút phần lớn lực lượng cơ động tinh nhuệ ứng cứu cho chiến trường chính, làm phá sản từng bước kế hoạch bình định 18 tháng của chúng. Phối hợp với chiến trường chính, du kích Giao Điền Hòa, Giao Sơn xiết chặt vòng vây vị trí Ngô Đồng. Để đối phó với ta, quân địch thực hiện lập vành đai trắng, hàng ngày lấn ra phá phách nhà cửa, cây cối, ruộng vườn của nhân dân [khu 1, 2, 3, 5, 6]; cho xe cóc quần nát lúa xung quanh khu vực đồn bốt. Ta đã vận động một số người cao tuổi, dùng lý lẽ thuyết phục để đấu tranh với chúng: Chính phủ quốc gia hô hào dân chúng tôi ở lại với chính nghĩa quốc gia, chúng tôi ở lại chỉ nhờ vào cây lúa, hạt gạo, nay các ông cho xe quần nát lúa, chúng tôi ở lại với các ông thì sống bằng gì. Đoàn người đã kéo xuống ngăn xe của địch, mặc cho chúng bắn thị uy, nhưng vẫn kiên quyết đấu tranh, cuối cùng buộc chúng phải nhượng bộ.

Thời gian này, vòng vây của ta ngày một xiết chặt, trên lại trang bị một số súng bắn tỉa bằng tia hồng ngoại, khiến bọn địch sợ hãi không dám nống ra. Các buổi tối, ta còn dùng loa phóng thanh đưa tin chiến thắng trên khắp các chiến trường, vạch trần âm mưu thâm độc dùng người Việt đánh người Việt của địch, kêu gọi binh lính bỏ hàng ngũ địch về với quê hương, gia đình, người thân; đã có một số lính đảo bỏ ngũ, trốn ra ngoài an toàn. Địa phương còn vận động những gia đình có chồng, con bị địch bắt đi lính, đến thăm hỏi, đòi chồng con. Nhiều anh em đã bỏ ngũ trở về với gia đình.

Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 vang dội, làm nức lòng nhân dân cả nước. Hướng ra tiền tuyến, Đảng bộ Giao Thủy quyết định tổ chức Đội dân công hỏa tuyến, gồm 350 người, trong số đó có nhiều người của Thị trấn tham gia vận chuyển lương thực, thực phẩm, muối, cá khô, thuốc lào, chi viện cho mặt trận Điện Biên phủ [[105]]; đồng thời, phát động quần chúng đẩy mạnh sản xuất, tích cực thi hành chính sách giảm tô, giảm tức, thực hiện vượt mức nghĩa vụ đóng thuế nông nghiệp. Nhân dân phấn khởi trước những quyền lợi do cách mạng đưa lại và thắng lợi dồn dập trên khắp các chiến trường, ra sức lao động sản xuất và tham gia kháng chiến. Để tránh bị tiêu diệt, địch vội vã rút khỏi vị trí Đại Đồng, bọn tề dõng mới được tái lập ở vùng này cũng tan rã theo.

Ngày 07/5/1954, chiến dịch Điện Biên phủ của ta kết thúc thắng lợi, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm tên bại tướng Đờ-cát-tơ-ri. Chiến thắng Điện Biên phủ lừng lấy năm châu, chấn động địa cầu đã giáng một đòn chí tử vào ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, có ý nghĩa quyết định cho sự tiến triển của Hội nghị Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Từ đầu tháng 5/1954, tại các huyện phía nam tỉnh, trừ Bùi Chu, quân địch chỉ còn chiếm đóng Thức Hóa, Ngô Đồng [Giao Thủy] và Đông Biên [Hải Hậu], nhưng đều nằm trong thế bị bao vây, cô lập. Có lúc địch đã phải tiếp tế bằng đường không, nên tư tưởng binh lính hoang mang, dao động cực độ. Với tinh thần thừa thắng xốc tới, đêm 25/5/1954, Trung đoàn chủ lực 48 cùng đơn vị 96 của Bộ đội địa phương và dân quân du kích các xã đã tấn công tiêu diệt địch ở Thức Hóa, diệt hơn 40 tên, bắt sống toàn bộ 630 tên, trong đó có tên Vũ Công Hòa, Quận trưởng ngụy quyền Giao Thủy, tên Bang Tá và 2 tên Linh mục phản động là Thục và Khuê [hai tên này vẫn còn đang đeo lon sỹ quan tuyên úy ngụy]; thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng và nhiều tài liệu quan trọng.

Ngày 04/6/1954, quân ta tấn công vị trí Đông Biên [Hải Hậu] tiêu diệt nhiều tên, bắt sống hơn 500 tên, thu toàn bộ vũ khí, khí tài. Với chiến thắng Thức Hóa, Đông Biên, ta đã đập tan mắt xích cuối cùng của vành đai cứ điểm phòng vệ vùng duyên hải phía nam Nam Định và ý đồ chiếm đóng đồng bằng Bắc bộ của thực dân Pháp và ngụy quyền tay sai.

Để cứu vãn quân đội viễn chinh ở Đông Dương khỏi bị tiêu diệt, từ giữa tháng 5/1954, Pháp chủ trương rút quân khỏi miền nam đồng bằng Bắc bộ, khi cần thiết có thể bỏ Hà Nội rút về Hải Phòng và cần thiết nữa có thể rút xuống phía nam vĩ tuyến 18[[106]].

Ngày 01/7/1954, địch rút toàn bộ theo lối cuốn chiếu khỏi các vị trí: Ngô Đồng, Cầu Xi măng [Hoành Nha], Hành Thiện, Bùi Chu, Lạc Quần, Cổ Lễ và cuối cùng là thành phố Nam Định. Quê hương Nam Định, Giao Thủy nói chung, thị trấn Ngô Đồng nói riêng hoàn toàn giải phóng.

Trải qua 9 năm kháng chiến trường kì đầy khó khăn gian khổ, chống thực dân Pháp xâm lược, nhất là thời kì đen tối 2 năm 4 tháng" [10/1949- 2/1952], tình hình lúc đó hết sức căng thẳng. Kẻ thù điên cuồng chống phá cơ sở cách mạng, thẳng tay đàn áp, khùng bố, sát hại những người kháng chiến, nhân dân yêu nước, chúng gây ra bao cảnh tang tóc đau thương tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Nhưng với tinh thần kiên trung, bất khuất có những cán bộ đảng viên đã kiên trì bám đất bám dân, vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, hy sinh mất mát , lãnh đạo quần chúng nhân dân, phá tề trừ gian phục hồi cơ sở bí mật từ thấp đến cao, từ hợp pháp đến bất hợp pháp, từng bước mở rộng khu du kích và căn cứ du kích, tiến lên giải phóng hoàn toàn quê hương. Góp phần nhỏ bé vào chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 vang dội, đỉnh cao là đại thắng Điện Biên Phủ lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu; đã giáng một đòn chí tử vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Buộc chính phủ Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ, ngày 20/07/1954, công nhận độc lập, chủ quyền. toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam- Lào- Campuchia.

Chương III

KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, TÍCH CỰC CHI VIỆN CHO CHIẾN TRƯỜNG, GÓP PHẦN ĐÁNH CHO MỸ CÚT NGỤY NHÀO, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

[1954-1975]

1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, chống âm mưu cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, tiến hành cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. [1954-1960]

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đi lên xây dựng CNXH; miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh dân tộc dân chủ, tiến tới thống nhất đất nước. Tháng 9/1954, Hội nghị Ban Chấp hành TW [khóa II] đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt là lãnh đạo nhân dân đoàn kết, đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, phục hồi và đẩy mạnh sản xuất; hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất; tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước[[107]].

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Huyện họp hội nghị mở rộng tới Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính, xã đội trưởng các xã và lãnh đạo các ban, ngành của huyện để quán triệt tinh thần Nghị quyết của Hội nghị BCH Trung ương và nhiệm vụ của huyện trong tình hình mới: tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng và toàn dân nhân dân về chiến thắng Điện Biên phủ và Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; động viên nhân dân san bằng đồn bốt địch, thu hồi vũ khí, thu chiến lợi phẩm còn đọng rải rác trong nhân dân; kêu gọi nguỵ quân, ngụy quyền ra trình diện hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà nước; phục hồi sản xuất, thi hành chính sách giảm tô tức, tạo khí thế đón chờ thực hành cải cách ruộng đất; củng cố và kiện toàn bộ máy các ban, ngành, đoàn thể từ huyện tới xã đủ sức đảm đương trọng trách trong tình hình mới.

Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, việc đầu tiên các chi bộ Đảng và nhân dân Ngô Đồng phải giải quyết là khắc phục hậu quả của chiến tranh. Sau 9 năm chiến tranh đã để lại sự tàn phá hết sức nặng nề. Nhiều ruộng đất bị bỏ hoang, nhà cửa bị đốt phá, hố bom, hố đạn nham nhở khắp nơi, đồng ruộng khi thì lụt lội, khi thì khô nẻ khó cày cấy, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân thiếu thốn, bệnh tật phát sinh. Đàn trâu bò sút giảm, không đủ sức kéo, thuyền bè cũ nát, đường giao thông thuỷ, bộ bị phá hoại nghiêm trọng.

Để tập trung cao cho việc ổn định tình hình, chính quyền địa phương đã phát động nhân dân đẩy mạnh phong trào khai hoang, phục hóa, tăng gia sản xuất; phối hợp với bộ đội địa phương huyện tiến hành rà phá bom mìn, thu dọn sắt thép, hàng rào xung quanh vành đai trắng bốt Ngô Đồng. Chi bộ kêu gọi mọi người phát huy tinh thần yêu nước, san sẻ đùm bọc lẫn nhau, thực hiện phong trào bán thóc yêu nước, trồng cây rau màu ngắn ngày để cứu đói cho dân. Ban vận động tương trợ cứu đói của địa phương được thành lập, do đồng chí Bí thư Nông hội xã làm trưởng ban đã phát động mạnh phong trào cứu đói khi giáp hạt, vận động nhà nhà trồng rau mầu ngắn ngày và đoàn kết, tương thân, tương ái đùm bọc lẫn nhau. Thực hiện sự chỉ đạo trên, khắp nơi dấy lên phong trào Hũ gạo tiết kiệm, nhiều cán bộ đảng viên gương mẫu tự rút tiêu chuẩn[[108]] để ủng hộ người bị đói. Các gia đình có điều kiện hơn tự giác tiết kiệm trong ăn uống, ma chay, cưới xin để có lương thực cứu đói cho dân. Đặc biệt, chi bộ, chính quyền xã còn tổ chức động viên nhân dân ra sức khai hoang, phục hóa những ruộng trước đây bị địch tàn phá, đào vét sông ngòi, thau chua, rửa mặn, cấy trồng hết diện tích ở những nơi có nhiều ruộng đất hoang, thực hiện tấc đất, tấc vàng. Các bờ ruộng, ven đường đều được tận dụng để trồng cấy rau màu. Các ngành nghề được tạo điều kiện để phục hồi; phong trào văn hóa văn nghệ diễn ra sôi nổi trong thôn xóm, tạo không khí phấn khởi, hồ hởi. Do những cố gắng đó, đời sống nhân dân dần được cải thiện, ổn định và phát triển.

Chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam.

Mặc dù Hiệp định Giơvenơ đã được ký kết, song kẻ thù vẫn không cam chịu thất bại, vẫn tìm mọi âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Để thực hiện kế hoạch hậu chiến, với bao thủ đoạn nham hiểm, chúng tiến hành tranh dành quần chúng, gây ảnh hưởng xấu, làm mất ổn định ở miền Bắc. Mặt khác, chúng lôi kéo những tên phản động có nhiều tội ác, chạy theo làm tay sai, chống phá cách mạng, cài cắm một số tên tay sai, tìm cách ngấm ngầm phá hoại, gây khó khăn cho việc khôi phục kinh tế của ta. Đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam, tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Chúng tung tin Chúa đã vào Nam, Mỹ sẽ ném bom nguyên tử ở Miền Bắc, gây ra 1 làn sóng di cư ở các vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa [[109]]

Kẻ địch bên ngoài, bọn phản động bên trong ráo riết hoạt động, tuyên truyền xuyên tạc, lừa bịp, dụ dỗ, đồng bào di cư vào Nam. Ngoài khơi tầu địch vào sát vùng biển Quất Lâm, dùng loa công suất lớn hô hào người trốn vào Nam. Máy bay địch thả truyền đơn, tiền giả, giấy thông hành di cư.gây cảnh hoảng loạn trong nông thôn vùng giáo. Nhiều nơi giáo dân đã bán đồ đạc, bỏ sản xuất, lúa chín rũ ngoài đồng cũng không gặt, quyết tâm bỏ cửa nhà ra đi, nhiều xóm thôn trở nên tiêu điều, ảm đạm. Trước tình hình đó Đảng, Nhà nước đã có chỉ thị cho các cấp ủy Đảng vận động, giải thích cho toàn dân thấy được đường lối đúng đắn của Đảng ta. Chi bộ, chính quyền đã phân công các đảng viên phụ trách từng khu vực dân cư theo địa bàn thôn sâu sát nghe ngóng, giải thích, vận động nhân dân không để bị bọn phản động lừa phỉnh, đồng thời phân loại đối tượng, cử các tổ, nhóm đến các gia đình vận động, tổ chức các điểm trên đường đi để tuyên truyền vận động cho nhân dân hiểu. Cùng với việc đi sâu, đi sát để nắm tư tưởng của quần chúng, chi bộ còn vận động một số người cao tuổi, có uy tín trong làng xã tuyên truyền cho nhân dân không nghe theo kẻ xấu dụ dỗ, xuyên tạc. Cách làm sát sao, tích cực đó đã giác ngộ được nhiều người dân công giáo, giúp họ thấy được âm mưu xuyên tạc của kẻ thù, tin tưởng vào đường lối tự do tín ngưỡng của Chính phủ ta, yên tâm ở lại ổn định đời sống. Nhiều gia đình đã gồng gánh ra đi, khi được giải thích họ đã tự nguyện trở về[[110]].

Khi thấy việc cưỡng ép đồng bào đi lẻ tẻ ít hiệu quả, bọn phản động chuyển hướng tập trung nhiều người thành từng đoàn, có tên cầm đầu chỉ huy, sẵn sàng chống lại cán bộ đến vận động, thậm chí còn chửi bới, vu cáo cán bộ ta rồi xông vào gây rối, đồng thời tố cáo với Tổ giám sát quốc tế rằng chính quyền ta vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ về tự do lựa chọn nơi cư trú.

Không để địch kiếm cớ vu cáo, ta nghiêm túc thực hiện Hiệp định, một mặt vận động những người bị dụ đỗ, cưỡng ép; mặt khác với những người cố tình ra đi, ta phối hợp với Tổ giám sát quốc tế, tạo điều kiện cấp giấy thông hành và tổ chức chuyến Ca-nô xuất phát từ bến Ngô Đồng cho 200 người [phần lớn là giáo dân Sa Châu] ra Hải Phòng để di cư vào Nam. Chính giám sát quốc tế khi về Sa Châu và chứng kiến sự giúp đỡ của chính quyền ta đối với những người tự nguyện ra đi, đều thừa nhận ta thực thi nghiêm Hiệp định.

Cuộc đấu tranh giành giật quần chúng, chống lại âm mưu dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam, diễn ra gay go, quyết liệt giữa ta và địch. Mặc dù chúng có thực hiện được một phần âm mưu đưa 1.570 người trong huyện, phần lớn là giáo dân di cư, trong đó có hơn 10 gia đình ở hai họ giáo Hoành Nhị, Diêm Điền và 3 hộ lương ở Hoành Đông [những hộ này đều có người nhà là ngụy quân hoặc ngụy quyền]; còn nhiều người khác khi được tuyên truyền đã giác ngộ, thấy được âm mưu xuyên tạc của kẻ thù, tin tưởng vào đường lối tự do tín ngưỡng của Chính phủ ta, yên tâm ở lại xây dựng ổn định đời sống.

Thực hành cải cách ruộng đất

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân được sống trong hòa bình, tự do, song phần lớn ruộng đất vẫn còn nằm trong tay giai cấp địa chủ, phong kiến. Nhiều nông dân vẫn nghèo túng, vẫn phải đi làm thuê cho địa chủ và phải chịu cảnh bị bóc lột bất công. Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ bảy [khóa II], tháng 3/1955 và lần thứ tám, tháng 8/1955, đặt ra vấn đề người cày có ruộng một cách bức thiết và xác định: Công tác cải cách ruộng đất vẫn là công tác trung tâm[[111]]. Kỳ họp thứ tư Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa [khóa I] từ ngày 20 đến 26/3/1955 cũng đã nhất trí thông qua chính sách cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Tháng 12/1955 cải cách ruộng đất đợt 5 [đợt cuối cùng] được triển khai ở các tỉnh, huyện còn lại, trong đó có Giao Thủy. Đây là niềm vui khôn xiết đối với giai cấp nông dân nói chung và nhân dân Thị trấn nói riêng.

Thực hiện chủ trương trên, tháng 11-1955, Đoàn ủy cải cách số 3 về Giao Thủy. Mỗi làng Hoành Đông, Hoành Nhị, Diêm Điền đều có một đội cải cách ruộng đất, có đội trưởng, đội phó và các đội viên. Các đội viên được phân công xuống từng khu xóm thăm nghèo, hỏi khổ, bắt rễ sâu chuỗi, thực hiện ba cùng là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân. Với phương châm dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ, cường hào ác bá; cải cách ruộng đất tiến hành theo ba bước:

* Bước thứ nhất: Tuyên truyền chủ trương, chính sách cải cách ruộng đất của Đảng, Nhà nước; trên cơ sở đó phát động tư tưởng nông dân vùng lên có khổ nói khổ, vạch trần những hành động bóc lột và tội ác của giai cấp địa chủ. Tiến hành phân định thành phần giai cấp theo tiêu chí cho từng loại đối tượng: địa chủ, phú nông, trung nông, bần, cố nông.

* Bước thứ hai: Sau khi đội cải cách cùng cốt cán nhận xét quy định thành phần giai cấp ở đơn vị cơ sở, được Đoàn ủy cấp trên xét duyệt [về tỷ lệ, thành phần]; Đội cải cách sẽ tiến hành tổ chức hội nghị nông dân đấu tố. Những địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân sẽ bị tòa án tỉnh xét xử [[112]].

Trong bước hai tiến hành quy định thành phần giai cấp: Hoành Đông có: 6 địa chủ, 4 phú nông; Hoành Nhị có: 12 địa chủ, phú nông.

* Bước thứ ba: Tiến hành tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất, tài sản của giai cấp địa chủ, chia cho bần cố nông.

Ngày ra đồng cắm thẻ nhận ruộng nông dân rất phấn khởi. Ngay từ sáng sớm tinh mơ mọi người đã cờ rong, trống mở tưng bừng; già, trẻ, gái, trai hò reo kéo ra đồng, nhiều người xúc động, nghẹn ngào rơi nước mắt khi được đứng trên mảnh đất ruộng của mình mà bấy lâu họ hằng mong ước.

Cải cách ruộng đất đã đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến ở nông thôn, đưa nông dân từ thân phận thấp hèn lên địa vị người chủ nông thôn, ước mơ ngàn đời của người nông dân đã thành hiện thực. Việc hoàn thành cải cách ruộng đất còn góp phần hoàn thành cách mạng dân chủ ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, xây dựng thành hậu phương vững chắc, cùng đồng bào miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước.

Song, bên cạnh thành quả đạt được, cải cách ruộng đất đã áp dụng kinh nghiệm của nước ngoài vào điều kiện Việt Nam một cách máy móc, dẫn đến những sai lầm hết sức nghiêm trọng:

- Khi tiến hành cải cách ruộng đất, Đoàn ủy và Đội cải cách không dựa vào tổ chức Đảng, đã giải tán chi bộ, vô hiệu hóa chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Mọi công việc đều do Đội cải cách toàn quyền quyết định kể cả việc quy tội, ghép tội, khai trừ, kết nạp Đảng viên, đề bạt cất nhắc cán bộ.đã vi phạm về nguyên tắc, điều lệ Đảng. Nhiều Đảng viên hết lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, kiên trung bất khuất với kẻ thù, đã trải qua thử thách trong địch hậu 2 năm 4 tháng vừa qua, cũng bị quy chụp là phản động Quốc dân Đảng, cường hào ác bá như: Phùng Hữu Hùng - Bí thư Chi bộ Giao Sơn, Nguyễn Xuân Đột - Chủ tịch UBND xã Giao Điền Hòa, rồi bị bắt, bị giam cầm, cùm kẹp, tra khảo cực hình.

- Tổ chức chi bộ cũ bị giải tán, hầu hết đảng viên bị xử lý, thay bằng chi bộ mới. Việc kết nạp đảng viên mới, đề bạt, cất nhắc, sắp xếp cán bộ vào cấp ủy, các ngành giới, đều do Đội cải cách quyết định. Mặc khác, do thành phần chủ nghĩa nên hầu hết số đảng viên, cán bộ chủ chốt đều là bần cố nông, trình độ văn hóa thấp kém, lại không được đào tạo bài bản, nên ý thức chính trị kém, năng lực lãnh đạo, tổ chức điều hành công việc lúng túng, khi đội cải cách rút đi, phong trào gặp khó khăn thì rơi rụng, bỏ công việc hoặc phải vận động các đồng chí còn lại tự nguyện rút khỏi chức vụ chủ chốt.

- Do sai lầm mất cảnh giác nên việc phát động nông dân có khổ nói khổ, tổ cáo hành động bóc lột của giai cấp địa chủ, tội ác của bọn cường hào ác bá đã để một số phần tử xấu, bất mãn, bọn cơ hội, bọn tề ngụy cũ bị xử lý trước đây, hoặc mâu thuẫn trong gia đình, lợi dụng cơ hội này dựng chuyện, vu cáo người này, người kia để trả thù. Việc nghe một chiều, không điều tra, nghiên cứu xác minh sai đúng từng sự việc, dẫn đến nhiều trường hợp bị quy sai thành phần giai cấp, quy sai tội lỗi, trong đó có cả cán bộ đảng viên cũng bị xử lý oan sai, gây hậu quả xấu

Những hạn chế trên dẫn đến mâu thuẫn, thành kiến trong nội bộ nhân dân, giữa người tố cáo với người bị oan sai; mâu thuẫn giữa cán bộ, đảng viên cũ với cán bộ, đảng viên mới trong cải cách ruộng đất khá gay gắt. Kẻ địch nhân đó tuyên truyền, kích động khiến cho tình hình nông thôn Giao Thủy nói chung, Thị trấn nói riêng mất ổn định, tư tưởng cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm và đời sống xã hội ở nông thôn.

Tháng 4/1956, khi phát hiện ra những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Đảng ta chủ trương kiên quyết sửa chữa. Ngày 18/8/1956, Hồ Chủ tịch gửi thư kêu gọi đồng bào nông thôn thực hiện sửa sai, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết lần thứ 10 [khóa II, tháng 9/1956], Chính phủ ra Thông cáo về Kế hoạch sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhằm đoàn kết toàn Đảng, toàn dân ổn định nông thôn, đẩy mạnh phát triển sản xuất[[113]].

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và chủ trương của Tỉnh ủy, Ban chỉ đạo sửa sai của huyện được thành lập, do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Trưởng ban. Tháng 01/1957, các đội sửa sai gồm cán bộ tỉnh, huyện được trưng tập, phân công xuống các địa phương tiến hành công tác sửa sai. Với phương châm sai đâu sửa đấy, không sai không sửa, kiên quyết bảo vệ thành quả đã đạt được của cải cách ruộng đất; việc sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất được tiến hành theo các bước:

* Bước thứ nhất: Ổn định tình hình tư tưởng trong Đảng và ngoài quần chúng nhân dân. Thông qua học tập Nghị quyết Trung ương lần thứ 10, thư của Hồ Chủ tịch gửi nông dân nông thôn, khẳng định những thành quả đã đạt được trong cải cách ruộng đất là to lớn, đồng thời cũng chỉ rõ những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo khi tiến hành cải cách ruộng đất. Tiếp đó, tiến hành học tập trong các tổ chức quần chúng, nhân dân, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, nhân dân, tạo sựu tin tưởng vào đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch.

Đi đôi với ổn định tư tưởng, địa phương đã tổ chức tiến hành phục hồi Đảng tịch, chức vụ công quyền cho các đảng viên và những người bị xử lý oan sai; trên cơ sở trình độ, năng lực, uy tín của từng đảng viên, sắp xếp lại cơ cấu, nhân sự cấp ủy, chính quyền; đồng thời củng cố, kiện toàn tổ chức Mặt trận, các đoàn thể quần chúng.

* Bước thứ hai: Tiến hành rà soát lại từng trường hợp về thành phần giai cấp và thực hiện đền bù cho những người bị quy sai. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến quyền lợi chính trị, kinh tế của nhiều người [kể cả người mất tài sản và người được chia tài sản], do đó đã được tiến hành chặt chẽ, thận trọng. Thông qua việc học tập Đường lối nông thôn, chủ trương, chính sách sửa sai của Đảng, Chính phủ, với tinh thần không để một trường hợp nào quy sai mà không sửa, hoặc đã quy đúng lại sửa thành sai, việc sửa sai được thực hiện nghiêm túc. Các nội dung được bàn bạc công khai, dân chủ trong Đảng, ngoài quần chúng nhân dân, chống mọi biểu hiện của tư tưởng lệch lạc tả, hữu khuynh, đồng thời phòng ngừa bọn địa chủ ngoan cố ngóc đầu dậy chống đối, bọn phản động phá hoại. Đối chiếu với tiêu chuẩn, địa phương đã hạ thành phần cho một số địa chủ thường xuống thành phần khác, trong đó có một địa chủ kháng chiến.

Nhờ làm tốt công tác chính trị, tư tưởng trong công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất, quần chúng nhân dân đã tin tưởng hơn vào chính sách và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Những người bị quy sai thành phần, gia tài bị tịch thu, trưng thu, trưng mua đã thông cảm, hiểu hơn về đường lối chính sách của Đảng, vui lòng nhận sự đền bù theo chính sách, người được chia tài sản cũng tự giác trả hoặc nhượng lại phần tài sản được chia.

Đến cuối năm 1957, công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất kết thúc, mối bất hòa trong nhân dân được giải tỏa, nội bộ Đảng đoàn kết, tình làng nghĩa xóm được củng cố, bà con nông dân tiếp tục thông cảm, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng được khôi phục. Tình hình nông thôn ngày càng được cải thiện, ổn định; nhân dân phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất và tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương.

Xây dựng quan hệ sản xuất mới, khôi phục phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội [1958-1960]

Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã ra sức tăng gia, sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội. Trong quá trình người nông dân tiến hành những công việc nặng nhọc, họ có nhu cầu hợp tác, trao đổi với nhau để đạt hiệu quả cao, từ đó phong trào tổ đổi công ra đời. Thời kỳ đầu các tổ đổi công hình thành dưới dạng đổi công từng vụ, từng việc. Ở Giao Điền Hòa và Hoành Sơn trong việc giúp đỡ lẫn nhau, kết quả cho năng suất cao hơn và tạo nên những mối quan hệ đoàn kết trong thôn xóm. Nhờ đó, tính đến "cuối năm 1955 toàn huyện đã xây dựng được 893 tổ đổi công với 11.056 người tham gia[[114]].

Những năm 1956-1957, trong tiến hành cải cách ruộng đất và sửa sai, phong trào xây dựng tổ đổi công bị chững lại. Năm 1957, Tỉnh ủy Nam Định chỉ đạo ra sức củng cố và phát triển tổ đổi công, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực đảm bảo phát triển nông nghiệp toàn diện. Thực hiện chủ trương đó, Huyện uỷ Giao Thuỷ đề ra nhiệm vụ phát triển phong trào tổ đổi công, tự đổi công từng vụ, từng việc đến việc đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm. Huyện uỷ đã tổ chức học tập Chỉ thị 31 và 37 của Ban Chấp hành Trung ương khoá II [tháng 11 năm 1957], sau đó giao trách nhiệm cho các đồng chí Bí thư chi bộ các xã trực tiếp chỉ đạo xây dựng các tổ đổi công và rút kinh nghiệm tìm ra những bài học để duy trì, phát triển tổ đổi công ngày càng có chất lượng hơn.

Thực hiện chỉ đạo của tỉnh và huyện, các chi bộ đã triển khai, chỉ đạo các đảng viên gương mẫu tham gia và đứng ra vận động nhân dân ngay trên địa bàn dân cư của mình, đồng thời phát động các đoàn thể phụ nữ, thanh niên, nông hộiđẩy mạnh xây dựng tổ đổi công. Hàng tháng chi bộ họp đánh giá kết quả, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh. Mô hình tổ đổi công đã có tác dụng thiết thực để người nông dân hợp tác trong sản xuất, giúp đỡ nhau trồng cấy, chăm bón, thu hoạch kịp thời vụ; trao đổi với nhau về kinh nhiệm sản xuất, giúp nhau lúc gặp khó khăn; bước đầu xây dựng nề nếp làm ăn tập thể.

Tháng 11/1958, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa II] chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc là đẩy mạnh cuộc cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh. Đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh, đẩy mạnh phong trào đổi công, hợp tác hóa nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, Hợp tác xã tín dụng [ba ngọn cờ hồng ở nông thôn; trên nguyên tắc: dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi][[115]].

Thực hiện Kế hoạch 3 năm cải tạo kinh tế, văn hoá, xã hội; phong trào xây dựng tổ đổi công phát triển sôi nổi, mạnh mẽ trong huyện nói chung và địa phương nói riêng, trên 70% tổng số hộ nông dân đã tham gia vào tổ đổi công. Các tổ đổi công lúc này thực sự có tác dụng trong việc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo khâu cày, cấy, thu hoạch kịp thời vụ.

Trên cơ sở tổ đổi công, người nông dân ngày càng có nhu cầu hợp tác với nhau hơn trong lao động sản xuất, từ đó hình thành các HTX từ bậc thấp đến bậc cao. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh chỉ đạo xây dựng các HTX thí điểm ở Yên Tiến [Ý Yên] và ở Nam Trực. Huyện Giao Thủy xây dựng thí điểm HTX nông nghiệp đầu tiên tại Hồng Kỳ [Giao Hồng], sau đó chỉ đạo mở rộng thí điểm thêm một số điểm ở từng vùng[[116]] để rút kinh nghiệm. Sau khi xây dựng thí điểm 6 HTX[[117]], Huyện ủy triển khai cho các cấp ủy đảng tổ chức quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương xây dựng HTX theo Nghị quyết 16 của TW. Thực hiện sự chỉ đạo của huyện, phong trào xây dựng HTX nông nghiệp cấp thấp ở các xã diễn ra mạnh mẽ.

Năm 1959, trên cơ sở phong trào tổ đổi công phát triển khá sâu rộng, các xã Giao Điền Hòa, Giao Sơn đã thành lập một số hợp tác xã nông nghiệp [4 HTX]. Trước khi thành lập, các chi bộ đã tổ chức cho nhân dân học tập và phân tích giữa 2 con đường làm ăn cá thể và tập thể để thấy rõ tính ưu việt của con đường làm ăn tập thể. Khi vào HTX, các xã viên cùng đóng góp ruộng đất, nông cụ, trâu bò, cùng bàn bạc sản xuất chung. Việc xây dựng HTX nông nghiệp thực chất là cuộc đấu tranh giữa 2 con đường XNCH và TBCN để xác lập quan hệ sản xuất mới, do đó đã diễn ra không ít khó khăn, phức tạp. Một số người còn mang nặng tư tưởng tư hữu, lừng chừng chưa muốn vào HTX. Các tổ chức đoàn thể như Thanh niên, hội Phụ nữ, hội Nông dân đã tổ chức phát động rộng rãi, đến tận các gia đình để vận động, giải thích, thuyết phục họ vào HTX. Do phát huy được sức mạnh tập thể, sau vụ thu hoạch, năng suất lúa tập thể hơn hẳn các hộ cá thể, đời sống xã viên khá ổn định, nhân dân đã tin tưởng hơn. Từ thí điểm xây dựng các HTX thành công, chi bộ đã tổ chức cho các xóm học tập, rút kinh nghiệm và chỉ đạo xây dựng các HTX tiếp theo. Quá trình xây dựng, phát triển HTX nông nghiệp theo hình thức từ thấp lên cao. Để đẩy nhanh tiến độ phong trào xây dựng HTX, các xã đều tích cực cải tiến kỹ thuật, thâm canh sản xuất có hiệu quả và tổ chức cho quần chúng học tập, nắm vững nguyên tắc xây dựng HTX, trên cơ sở điều kiện phải có tổ đổi công thường xuyên, có bình công chấm điểm, có cốt cán lãnh đạo và quần chúng yêu cầu. Qua học tập, các xã viên đều nhận thấy tính ưu việt của HTX trong việc thâm canh tăng năng suất, cải tiến kỹ thuật, huy động điều tiết nhân lực, giống, phân bón, thủy lợi để tăng năng suất, thu nhập; có điều kiện thực hiện chính sách xã hội; từ đó đoàn kết gắn bó để xây dựng HTX.

Đến cuối năm 1959, phong trào xây dựng hợp tác hóa trong huyện nói chung, địa phương nói riêng có bước tiến dài, từ 6 HTX thí điểm cuối năm 1958, phát triển lên 131 HTX bậc thấp, trong đó Thị trấn có 4 HTX. Các khâu kỹ thuật: nước, phân, giống, bước đầu đã được cải tiến. Do thâm canh tăng năng suất đạt hiệu quả, đời sống được nâng lên, xã viên rất phấn khởi. Song một số HTX cũng bộc lộ những yếu kém trong khâu quản lý, điều hành sản xuất lúng túng, xã viên có nhiều băn khoăn thắc mắc về bình công chấm điểm, khâu ăn chia và tài chính thiếu minh bạch

Cùng với việc trồng lúa, các HTX còn chú trọng phát triển ngành, nghề, tăng thu nhập cho nông dân. Chăn nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi lợn thịt được chú trọng phát triển. Các HTX đều đã chú trọng phát triển các khu chăn nuôi lợn và khuyến khích các gia đình chăn nuôi.

Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nhằm phất cao 3 ngọn cờ hồng[[118]], Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Giao Thủy tháng 12/1958 đã ra nghị quyết đưa 100% nông dân vào HTX Mua bán và HTX Tín dụng. Huyện đã mở các lớp huấn luyện cho các HTX Mua bán và HTX Tín dụng, vì thế phong trào xây dựng HTX Mua bán và HTX Tín dụng ở Ngô Đồng phát triển mạnh mẽ và hoạt động có hiệu quả. Các cửa hàng mua bán ở các chợ Hoành Nhị, Hoành Đông, Cầu Diêm hoạt động nhộn nhịp, cung cấp cho thị trường các nhu cầu yếu phẩm, từ hàng may mặc, dầu hỏa, muối, xì dầu, nước mắm, rau, quả và các vật dụng sinh hoạt khácNguồn hàng chủ yếu từ sự phân phối của Nhà nước. Trong điều kiện đời sống của nhân dân còn thấp và thiếu thốn nên mục đích hoạt động của HTX Mua bán chủ yếu là phục vụ nhân dân, đảm bảo sự phân phối công bằng, giá cả hợp lý, đúng chính sách của Nhà nước. Nhờ hoạt động tốt nên HTX Mua bán đã thu hút xã viên tham gia góp vốn ngày một nhiều. Huyện cũng mở cửa hàng HTX Mua bán và cửa hàng Mậu dịch quốc doanh đầu tiên đặt tại phố huyện, góp phần phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân ngày một tốt hơn.

Nhằm huy động vốn bằng phương thức góp cổ phần để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân, cuối năm 1959, tổ chức HTX Tín dụng đã được thành lập ở địa phương. Trong điều kiện cụ thể và mặt bằng chung, lãi suất cho vay thấp, song HTX cũng đã có nhiều cố gắng sử dụng nguồn vốn hiệu quả, là địa chỉ tin cậy để nhân dân góp vốn hỗ trợ giúp đỡ nhau trong xây dựng nông thôn và cuộc sống mới. Tuy nhiên, phong trào phát triển chưa thật mạnh mẽ, việc tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, mục đích, lợi ích của ba ngọn cờ hồng chưa sâu rộng, nên chưa thu hút được đông đảo nhân dân tham gia góp cổ phần; hoạt động kém hiệu quả so với HTX Nông nghiệp và HTX Mua bán.

Đi đôi với Hợp tác hóa nông nghiệp, các địa phương cũng đồng thời tiến hành cải tạo công thương nghiệp, thủ công nghiệp. Trước đây, do chiến tranh, hầu hết các thương gia có vốn liếng khá ở Thị trấn đều chuyển đi nơi khác, chỉ còn lại những tiểu thương buôn bán nhỏ ở phố huyện và các chợ, nay đã tổ chức vào Hợp tác xã tiểu thương. Một số xã viên HTX này được tuyển dụng thành nhân viên bán hàng của cửa hàng Mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán huyện. Hợp tác xã dịch vụ được thành lập bao gồm thợ cắt tóc, máy khâu, chữa đồng hồ, xe đạp. Đồng thời địa phương cũng thành lập HTX thủ công Bình Thuận chuyên sản xuất vật liệu xây dựng gạch, vôi, ngói.

Công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất, khôi phục phát triển kinh tế, bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ, gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hóa- xã hội. Cả ba thôn Hoành Nhị, Hoành Đông, Diêm Điền đã xây dựng được trường cấp I và các lớp vỡ lòng. Huyện có một trường cấp II quốc lập đặt trên địa bàn Thị trấn, tạo điều kiện cho con em nhân dân đến tuổi đến trường. Phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cũng phát triển khá sôi nổi với khẩu hiệu Sản xuất cho tốt, diệt dốt cho mạnh. Đến cuối năm 1960 địa phương đã căn bản hoàn thành xóa nạn mù chữ. Các đồng chí chi ủy, chủ nhiệm HTX, đội trưởng sản xuất đều được cử đi dự học các lớp BTVH do huyện mở.

Trước đây do nghèo túng, dân trí thấp, nên việc vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân rất kém; chị em sinh nở đều phải nhờ các mụ vườn, nhiều khi không đảm bảo vệ sinh rất nguy hiểm. Theo chủ trương chung của huyện, địa phương đều đã xây dựng các Trạm y tế, nhà hộ sinh. Ở cả ba xã [cũ] đều có một đến hai cán bộ y tế, được đào tạo trình độ sơ cấp để khám, điều trị những bệnh thông thường và hướng dẫn vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân. Các nữ hộ sinh cũng được đào tạo chuyên môn, do đó hầu hết các chị em sinh nở đều đảm bảo mẹ tròn con vuông. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động với khẩu hiệu sạch làng tốt ruộng được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Các đường dong xóm ngõ trước đây lầy lội, bẩn thỉu, đã được sửa sang, quét dọn sạch sẽ, mỗi khu xóm đều có giếng nước công cộng, mỗi gia đình đều đã có hố xí có mái che hợp vệ sinh. Các dịch bệnh như sởi, kiết lỵ... đã từng bước được hạn chế.

Sau giải phóng [1954], phong trào văn hóa, văn nghệ có điều kiện phát triển mạnh. Các hình thức dân ca, chèo, tuồng được tự biên, tự diễn phục vụ trong các dịp kỷ niệm, các ngày lễ tết, xuống tận các dong xóm phục vụ, tạo không khí vui vẻ, phấn khởi trong nhân dân. Ban ngày mọi người đi lao động sản xuất, tối đến thanh niên, phụ nữ, thiếu niên thường tập trung ca hát, tập múa, tập kịch, tiếng hát tiếng cười rộn rã khắp nơi. Các bài ca cách mạng, bài dân ca cổ truyền được phổ biến rộng rãi.

Công tác thông tin truyền thông cũng được đặc biệt chú ý. Mỗi xóm có 1 phát thanh viên dùng loa tay đọc báo và thông báo những tin tức cần thiết cho nhân dân. Các bức tường xây được tận dụng quét vôi trắng để viết các khẩu hiệu. Các xã đã cho dựng các bảng tin ở các vị trí đông người qua lại như cổng Uỷ ban, Trạm xá, cửa hàng HTX Mua bán để tuyên truyền cho nhân dân. Các hủ tục mê tín dị đoan, từng bước được bãi bỏ, các đám cưới được tổ chức theo lối sống mới. Phong trào thể dục thể thao, bóng chuyền, bóng đá phát triển mạnh. Nhân các dịp kỷ niệm như tết âm lịch, 2- 9 hàng năm, các địa phương đều tổ chức các hoạt động đấu vật, kéo co, đấu bóng chuyền, diễn văn nghệ vui vẻ.

Trong khi quân và dân ta ở miền Bắc đang ra sức xây dựng trong hoà bình, thì ở miền Nam, Mỹ-Diệm ngày càng vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơnevơ. Chúng đặt ra luật 10/59 và kéo lê máy chém đi khắp miền Nam để tàn sát những người dân yêu nước, kháng chiến; đồng thời ra sức triệt phá các cơ sở cách mạng của ta, đế quốc Mỹ ngang nhiên đưa quân vào, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước. Trước tình hình đó, tháng 10 năm 1958, sau khi thí điểm dự thảo Luật nghĩa vụ quân sự ở xã Xuân Tiến [Xuân Trường], Huyện Giao Thủy tiến hành cho thanh niên trong độ tuổi đăng ký nghĩa vụ quân sự trong toàn huyện. Ngày hội đầu tiên tuyển quân theo Luật mới vào tháng 02 năm 1959, toàn huyện có 2.000 thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ. Trong đó có nhiều con em của hai xã Giao Bình và Giao Sơn. Các quân nhân đã phục viên, chuyển ngành, kể cả các nhân viên kỹ thuật dưới 45 tuổi cũng hăng hái đăng ký quân dự bị, nhiều thanh niên đã hăng hái tình nguyện đi khám tuyển nghĩa vụ. Phong trào thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc diễn ra sôi nổi. Các xã đã tổ chức được các trung đội, bao gồm hầu hết số thanh niên trong độ tuổi, thường xuyên luyện tập, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chi viện khi có yêu cầu. Cũng trong giai đoạn này Nhà nước thành lập nhiều nông trường, nhà máy, kêu gọi thanh niên tham gia khai phá rừng hoang làm giàu cho Tổ quốc. Hàng trăm thanh niên nam nữ của Thị trấn đã lên đường đi xây dựng kinh tế mới ở Sơn La, Điện Biên, Yên Bái, Rạng Đông [Nghĩa Hưng]

Các đoàn thể như Thanh niên, Phụ nữ, Thiếu niên, Dân quân tự vệ đều tự giác triển khai tốt các hoạt động. Dân quân du kích thường xuyên tập luyện, tuần tra canh gác, bảo đảm an ninh trật tự xã hội. Đoàn thanh niên tổ chức nhiều hoạt động thi đua đưa phong trào phát triển khá mạnh và hiệu quả. Số đoàn viên được kết nạp ngày càng nhiều, hầu hết thanh niên đến tuổi đều được kết nạp vào Đoàn.

Sau 5 năm kể từ khi được giải phóng, mặc dầu còn nhiều khó khăn, song thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ, chính quyền Giao Sơn, Giao Hòa, Giao Bình [trước đây], đã vừa củng cố tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể; vừa ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế; đấu tranh chống âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép giáo dân di cư trái phép vào Nam; thực hiện cải cách cách ruộng đất, xây dựng tổ đổi công, HTX và phát triển kinh tế văn hóa, xã hội giành thắng lợi. Công cuộc hợp tác hóa bước đầu được xây dựng có kết quả, quan hệ sản xuất mới được xác lập, nhân dân lao động đã thực sự trở thành người chủ nông thôn. Các phong trào thi đua lao động sản xuất luôn diễn ra sôi nổi, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Các kết quả đạt được đã khiến cho bộ mặt nông thôn từng bước đổi mới, tạo tiền đề quan trọng đẻ tieps tục bước vào giai đoạn mới, đạt kết quả cao hơn.

2. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất [1961-1965]

Năm 1960 tình hình đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Ở miền Nam, cao trào đồng khởi đã chuyển thế cách mạng từ bảo toàn lực lượng sang thế tiến công chiến lược. Ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới XHCN và kế hoạch 3 năm khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng [9/1960] đã quyết định đưa miền Bắc tiến lên CNXH, là hậu phương lớn, cùng đồng bào miền Nam đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội [1961-1965].

Căn cứ đường lối Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng và tình hình cụ thể của địa phương, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ IV [vòng 2] đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất[[119]].

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tình hình trong huyện nói chung, địa phương nói riêng gặp nhiều khó khăn. Thiên tai hạn hán, sâu bệnh xảy ra, mùa màng thu hoạch sút kém, đời sống nhân dân bị ảnh hưởng nặng nề. Phong trào xây dựng, phát triển hợp tác xã ồ ạt những năm 1959-1960, nay do những bất cập, yếu kém trong quản lý, đang có chiều hướng bị sa sút, dẫn đến tình trạng nhiều xã viên đòi lại ruộng đất, trâu bò, công cụ mà trước đây họ đã tự nguyện hóa giá cho HTX, nhiều người làm đơn xin ra HTX, ra đồng ngăn cản không cho cày bừa, nhổ lúa không cho HTX cấy trên mảnh ruộng riêng của mình. Trong khi đó bọn phản động đang tìm mọi cách tuyên truyền xuyên tạc, chống phá, khiến cho nhiều cán bộ đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động. Trước tình hình đó, Huyện ủy đã chỉ đạo đẩy mạnh củng cố, phát triển HTX nông nghiệp, HTX Mua bán, HTX tín dụng, đưa phong trào 3 ngọn cờ hồng cùng các mặt văn hóa xã hội, an ninh, quốc phòng tiến lên đồng đều vững chắc trong những năm tiếp theo[[120]].

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị TW Đảng ngày 25/02/1961 về cuộc vận động chỉnh huấn đảng viên; từ tháng 3 đến tháng 8/1961, toàn tỉnh mở cuộc vận động chỉnh huấn đảng viên; nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Nghị quyết lần thứ 5 của Ban Chấp hành TW về phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Qua đợt chỉnh huấn cán bộ, đảng viên đều nhận thức rõ trách nhiệm, thấy rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, quyết tâm phấn đấu vươn lên trên mọi lĩnh vực công tác, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới.

Trước tình hình tan vỡ của các hợp tác xã nông nghiệp, tỉnh và huyện đã cử nhiều cán bộ xuống trực tiếp ở các địa phương cùng ăn, cùng ở với xã viên để chỉ đạo với tinh thần cải tiến đến đâu làm giàu đến đó, quyết tâm củng cố lại bằng được các hợp tác xã nông nghiệp. Các chi bộ đã nghiêm túc thực hiện chỉ thị của cấp trên, phân công đảng viên phụ trách từng phần việc cụ thể. Do tập trung cao độ trí tuệ, sức lực và chỉ đạo quyết liệt, nên hợp tác xã nông nghiệp đã được củng cố lại, năng suất, chất lượng nâng lên, thu nhập của xã viên cao hơn, phong trào xây dựng HTX nông nghiệp được giữ vững và ngày một đi lên.

Tháng 10/1961, Tỉnh ủy Nam Định ra Nghị quyết 205/NQ-TU về xây dựng Chi bộ tiên tiến vùng nông thôn. Nghị quyết đề ra 6 tiêu chí của chi bộ tiên tiến ở nông thôn là: Lãnh đạo sản xuất tốt, quản lý HTX tốt, đoàn kết tốt, chấp hành chính sách tốt; học tập và công tác quần chúng tốt, xây dựng Đảng tốt.

Nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất và xây dựng HTX nông nghiệp, tiếp tục xây dựng quan hệ sản xuất XHCN làm cơ sở cho việc xây dựng CNXH, giảm bớt bộ máy cồng kềnh và tạo thuận lợi cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, các hợp tác xã bậc thấp theo quy mô xóm trước đây được tiến hành sáp nhập để xây dựng HTX bậc cao quy mô thôn, hoặc xã. Cơ cấu bộ máy các HTX có 1 Chủ nhiệm, 2 Phó Chủ nhiệm và 1 kế toán. Các cán bộ HTX đều được cử đi học các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, nên sau khi hợp nhất theo đơn vị thôn đều hoạt động tốt.

Các Đảng bộ đã nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và tập trung lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; hoàn thành cải tạo XHCN; phát triển các thành phần kinh tế; cải thiện nâng cao một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân. Các đảng viên đẩy mạnh học tập, rèn luyện nâng cao nhận thức, xây dựng phong cách làm ăn tập thể, ra sức khắc phục thiên tai, cải tạo đồng ruộng, tập trung lao động sản xuất để củng cố, xây dựng HTX.

Tháng 4/1962, Bộ Chính trị ra nghị quyết về cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý, chống tham mô lãng phí, quan liêu [gọi tắt là 3 xây, 3 chống]. Sau đó, tháng 11/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật. Các HTX nông nghiệp thời gian này có phong trào thi đua sôi nổi với HTX nông nghiệp Đại Phong [Quảng Bình]. Thực hiện chủ trương cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật, tỉnh Nam Định và huyện Giao Thủy triển khai thành 2 vòng, mỗi vòng nhiều đợt, do đó nhiều HTX đã được củng cố đi vào làm ăn hiệu quả hơn.

Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của cấp trên, HTX Giao Bình và Giao Sơn bước đầu xác định được phương hướng sản xuất, phá thế độc canh, phát triển chăn nuôi, trồng màu, thâm canh tăng năng suất, xây dựng các công trình thủy lợi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, có thu hoạch khá, giải quyết tốt chính sách xã hội. Đội ngũ cán bộ HTX thường xuyên được củng cố kiện toàn, nâng cao một bước về chất lượng. Các đồng chí đội trưởng, kế toán, quản trị đều được cử đi học các lớp bồi dưỡngnghiệp vụ do huyện tổ chức. Địa phương đã tăng cường cán bộ, đảng viên, quần chúng có năng lực vào những vị trí chủ chốt [như chủ nhiệm, kế toán, đội trưởng]. HTX từng bước được củng cố, làm ăn có hiệu quả hơn, phương hướng sản xuất được xác định với chỉ tiêu tiên tiến, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thâm canh tăng năng suất, phá thế độc canh, đẩy mạnh chăn nuôi, hoa mầu, thực hiện chế độ 3 khoán [khoán chi phí sản xuất, ngày công, năng suất sản lượng]. Việc đầu tư lao động có nhiều tiến bộ [80 ngày công trở lên cho/mẫu Bắc Bộ], giá trị ngày công lao động tăng lên, phần chia cho lao động chiếm từ 55 đến 60% tổng thu nhập của HTX. Việc phân phối điều hòa có chú ý đến các hộ neo đơn, thiếu sức lao động, gia đình chính sách.. Tình trạng lao động đi muộn về sớm, làm dối, làm ẩu, rong công phóng điểm, từng bước được khắc phục. Nông thôn ổn định, HTX được củng cố, kinh tế phát triển, đời sống xã viên được cải thiện.

Năm 1963, Huyện uỷ phát động phong trào thi đua trong các hợp tác xã nông nghiệp, với khẩu hiệu Phất cờ Lạc Long, đón gió Đại Phong[[121]]. Các chi bộ đã chỉ đạo tổ chức cho xã viên học tập thành tích, kinh nghiệm của 2 HTX trên, đẩy mạnh phong trào sản xuất nông nghiệp. Tháng 2/1964, huyện chỉ đạo tiến hành cải tiến quản lý HTX nông nghiệp đợt 2, phương châm là làm tới đâu chắc tới đó, kiên quyết không chạy theo thời gian, số lượng; không làm lướt, làm ẩu, do đó chất lượng các HTX ngày càng được nâng cao. Phương pháp quản lý về lao động, công điểm, cách ăn chia chặt chẽ hơn; tình trạng rong công phóng điểm được hạn chế, giá trị ngày công tăng lên, xã viên ngày càng tin tưởng.

Trong những năm này thời tiết nhiều khi không thuận, có nhiều bão gió, năm 1961 có trận bão xê số 5, số 9 rất lớn; vụ chiêm xuân 1962 mưa rét nhiều, phải chuyển làm ải sang làm dầm và chống hạn mặn, nhưng với tinh thần nổi sóng đường cày, các chi bộ Đảng vẫn chỉ đạo nhân dân cấy xong trước tết. Năm 1963, có tới 6 trận bão lớn; hạn, mặn liên tục suốt vụ, ảnh hưởng lớn đến năng suất. Trước tình hình đó, các cấp bộ Đảng, chính quyền và bà con nông dân đã cố gắng khắc phục thiên tai để đạt kết quả cao về diện tích, năng suất và sản lượng. Trong thâm canh lúa, khâu thủy lợi đảm bảo tưới tiêu là biện pháp hàng đầu. Huyện đã mở chiến dịch Giao Thủy vùng lên tiến quân vào mặt trận thủy lợi, tất cả 27 xã đã nhất loạt ra quân. Các công trình đầu mối lớn, các cống ở hệ thống đê biển được xây dựng, như Cồn Nhất, Cồn Giữa, Mốc Giang, Đông Bình, Diêm Điền[[122]], riêng cống Cồn Nhất được xây dựng rộng 8 m, cống Ngô Đồng rộng 10 m, đảm bảo cho việc thau chua, rửa mặn, tiêu nước chống úng lụt trên diện rộng. Đồng ruộng được củng cố lại, các bờ vùng bờ thửa được đắp thẳng, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển thóc lúa, rơm rạ. Các con sông cấp 2 theo từng thôn được qui hoạch, nắn thẳng, to rộng, hợp lý để tưới, tiêu nước. Các mương máng nhỏ gắn với các bờ vùng, bờ thửa cũng được nạo vét, tu bổ thường xuyên, các công trình thuỷ lợi được xây dựng, cơ bản đáp ứng yêu cầu tưới tiêu của đồng ruộng.

Cùng với việc đẩy mạnh công tác thủy lợi nội đồng, nhân dân các xã còn tích cực tham gia các công trình thuỷ lợi lớn của tỉnh, huyện. Mỗi hợp tác xã có một đội thuỷ lợi bán chuyên nghiệp, đã tham gia đắp đê biển từ Giao Long ra Giao Thiện, đắp đê sông Hồng, sông Sò, tham gia công trình sông Ba Bụi, nạo vét sông Ngô Đồng, là những công trình trọng điểm của tỉnh.

Phong trào làm phân xanh được đẩy mạnh, các HTX đã phát động mạnh mẽ phong trào làm phân chuồng, bùn ao, bèo dâu, phân vô cơ, nâng cao số lượng, chất lượng phân bón. Các xã viên, đoàn thể tích cực tận dụng các loại phân chuồng, phân xanh, phân bùn để chăm bón đồng ruộng. Các ruộng trũng được bồi thêm đất bùn từ lòng ao, sông đưa tới, các bờ ao, bờ sông được tận dụng để trồng điền thanh. Phong trào làm bèo hoa dâu phát triển mạnh, 100% đoàn viên và thanh niên đều tham gia làm bèo hoa dâu.

Các biện pháp liên hoàn khác cũng được các HTX nông nghiệp chú ý áp dụng. Tập quán cấy sâu, cấy thưa được bỏ dần; tỷ lệ cấy dày, cấy nông tay, cấy đúng thời vụ ngày càng tăng. Khâu làm mạ được chú ý hơn, việc xử lý sâu bệnh và thúc mầm bằng nước 3 sôi, 2 lạnh được thực hiện; các giống tốt có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh, phù hợp với chất đất được thay thế dần những giống cũ. Phong trào cải tiến nông cụ, đóng các phương tiện như guồng, thuyền, xe, làm cỏ sục bùn cho lúa phát triển.

Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, các chi bộ, Đảng bộ cũng rất chú trọng chỉ đạo đẩy mạnh chăn nuôi. Mỗi hợp tác xã có một khu chăn nuôi tập thể, các trại tập thể áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăn nuôi mới để sản xuất các con giống phục vụ nhu cầu chăn nuôi của nhân dân. Phương pháp thụ tinh nhân tạo cho lợn đã được áp dụng, nhờ đó mà các giống lợn lai F1, F2 có năng suất cao, giá trị thịt tốt mau chóng phát triển, thay thế dần đàn lợn ỷ.

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất thủ công nghiệp cũng được quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh. Với vị trí là trung tâm của huyện, nên có nhiều ngành nghề phát triển phục vụ cho nhu cầu của nhân dân. Nhiều gia đình đã có thu hoạch tốt từ nghề thủ công. Các ngành nghề thủ công đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân.

Tuy trong lĩnh vực nông nghiệp đã đạt được những kết quả nói trên, song cũng còn những tồn tại, hạn chế như: bộ máy lãnh đạo, từ đội sản xuất đến ban quản lý, bộ phận giúp việc, còn cồng kềnh. Cách quản lý thiếu chặt chẽ, tình trạng rong công phóng điểm chưa được khắc phục triệt để, giá trị ngày công chưa thể hiện đúng mức với công sức người lao động bỏ ra, đời sống nhân dân chưa được cải thiện nhiều. Các cán bộ kỹ thuật được cử đi học khi về chưa thật yên tâm và nhiệt tình tham gia với địa phương. Việc vận dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi kết quả chưa cao. Các giống lúa ngắn ngày chậm được đưa vào sản xuất.

Phong trào khai hoang thời gian này phát triển mạnh, huyện đã cử một đồng chí Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiến hành quai đê khu vực Cồn Tầu [Giao Lâm] và huy động nhân dân các vùng đến khai hoang. Thực hiện sự chỉ đạo của huyện, các xã đã vận động nhiều gia đình đi khai hoang, tạo nên phong trào khai hoang sôi nổi chưa từng có[[123]].

Các HTX Mua bán đều ra sức củng cố về tổ chức, đồng thời tiến hành thu mua các loại lương thực, thực phẩm, gà, lợn, đay, gai, vừng, hàng gia công xuất khẩu để bán cho Nhà nước và nhập các mặt hàng thiết yếu như vải, muối, dầu hỏa, vật liệu kiến thiết đem về tận các thôn xóm bán cho nông dân. Ban quản lý HTX Mua bán tích cực đến các cơ sở thương nghiệp của huyện lấy hàng phân phối về phục vụ nhân dân, theo chỉ tiêu kế hoạch, chủ động cung cấp những mặt hàng cần thiết cho nhân dân trong xã.

HTX Tín dụng luôn cố gắng huy động vốn nhàn rỗi trong dân gửi tiền tiết kiệm, quản lý tốt tiền mặt, dùng vốn đó cho HTX Nông nghiệp vay để mua giống, vật tư, phục vụ xã viên, phục vụ cho sản xuất và đời sống.

Nhìn chung phong trào 3 ngọn cờ hồng luôn được duy trì và phát triển. Các đồng chí Chủ nhiệm các HTX đều được Đảng uỷ bố trí phân công và chọn lựa những người có năng lực lãnh đạo. Do đó phong trào 3 ngọn cờ hồng của địa phương thời gian này thu được nhiều kết quả.

Sự nghiệp giáo dục của huyện thời gian này có nhiều khởi sắc, phát triển càng mạnh cả về số lượng, chất lượng, các xã đều đã có trường cấp I, mỗi làng, thôn có từ 1 đến 2 lớp vỡ lòng cho học sinh từ 6 tuổi trở lên, giáo viên là người đã tốt nghiệp hết cấp 1 hoặc trình độ hết lớp 3 cũ. Riêng khu vực thị trấn đã có trường cấp II, là 1 trong 3 trường của huyện. Các giáo viên phổ thông đã được học tập chính trị, đường lối, phương châm giáo dục của Đảng và nhà nước. Ngành Giáo dục đã phát động phong trào thi đua sôi nổi với chủ đề em yêu mái trường em, số lượng học sinh tăng lên qua các năm. Phong trào thi đua học tập và giảng dạy của thầy và trò rất sôi nổi, ngoài việc dạy tri thức nhà trường còn gắn với thực tế phong trào địa phương thầy và trò nuôi bèo dâu làm phân xanh đối với học sinh lớp 3 và lớp 4. Nhân dân các xã rất tích cực trong việc động góp xây dựng trường sở, bàn, ghế, bảng phục vụ cho việc học tập của con em mình. Nhiều gia đình tự nhận nuôi thầy cô giáo như gia đình ông ông Bùi Văn Trì [Sơn Thọ], ông Doãn Văn Nhiễu [Sơn Đài]. Việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội ngày càng chặt chẽ. Tuy khó khăn về cơ sở vật chất, nhưng tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp cấp I vẫn đạt trên 90-96%, cấp II 94-95%.

Phong trào Bổ túc văn hóa thời gian này được duy trì đều, huy động được nhiều cán bộ đi học. Thực hiện khẩu hiệu Sản xuất là khoá, văn hoá là chìa phong trào bổ túc văn hoá hoạt động mạnh mẽ. Huyện đã huy động được nhiều lực lượng như giáo viên, học sinh và lực lượng cán bộ văn hóa, đoàn viên thanh niên tham gia giảng dạy bổ túc văn hóa, do đó đã tạo được phong trào học tập bổ túc văn hóa sôi nổi. Phong trào toàn dân đi học tiếp tục được thực hiện. Các địa phương vẫn duy trì lớp xoá mù chữ theo từng bậc, các lớp cấp 1 học trưa, tối, ngày chủ nhật ở tại nhà và ở cơ sở trường cấp 1. Các loại hình bổ túc văn hoá đa dạng trường đoàn, trường cán, trường bổ túc tập trung, trường bổ túc bán tập trung giành cho đoàn viên thanh niên và cán bộ xã, thời gian từ 6 tháng đến 9 tháng tại các trường công nông của huyện, của tỉnh. Ở địa phương cán bộ, đoàn viên thanh niên thay phiên nhau đi học, chiều thứ 5 và ngày chủ nhật là lịch cán bộ đi học bổ túc văn hoá, mọi người được động viên tham gia học tập nâng cao trình độ văn hoá. Các trường phổ thông được giao một hội đồng hai nhiệm vụ, giáo viên ngoài lớp được phân công, còn được nhà trường giao nhiệm vụ dạy bổ túc văn hoá. Đến năm 1965 địa phương đã căn bản xoá được nạn mù chữ cho người lao động đến tuổi 45. Phong trào bổ túc văn hoá góp phần tạo nguồn nhân lực cho địa phương, có tác động tích cực đến trình độ lãnh đạo, quản lý sản xuất, quản lý kinh tế đưa khoa học kĩ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động.

Từ năm 1961 đến 1965 phong trào văn hoá thông tin ở địa phương tiếp tục được duy trì, phát triển mạnh. Ban thông tin thường xuyên phát thanh tin thời sự trong và ngoài nước, tin tức về địa phương, kẻ nhiều khẩu hiệu, panô, aphích kẻ trên tường hoặc bảng tin ở trung tâm thôn, Uỷ ban Hành chính, tuyên truyền cổ động trong các đợt sinh hoạt, các hoạt động và kết quả của hợp tác xã, giáo dục, y tế, tuyển quân Công tác báo chí được coi trọng, phát hành kịp thời, rộng rãi đến các tổ chức đoàn thể, hợp tác xã nông nghiệp, trường học. Địa phương đã phát động phong trào Đọc và làm theo sách báo. Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao được quan tâm, địa phương vẫn duy trì các đội văn nghệ mang lời ca tiếng hát phục vụ lao động sản xuất, giáo dục truyền thống tốt đẹp của ông cha, ca ngợi Đảng, Bác Hồ và những gương anh dũng hy sinh vì đất nước của các thế hệ đã đi trước Có địa phương đã thành lập đội bóng chuyền, đội vật mở hội thể dục thể thao ở địa phương và đi thi đấu với các miền của huyện. Giao Bình là một trong số các xã trong huyện có phong trào văn nghệ khá [[124]] . Hoạt động văn hoá, văn nghệ góp phần vào mặt trận tư tưởng chính trị làm cho chủ trương của Đảng, Nhà nước đi sâu vào cán bộ đảng viên và nhân dân, gây không khí hào hứng phấn khởi, động viên mọi người phấn đấu làm việc có ích, đẩy lùi dần những mặt tiêu cực ở địa phương.

Với tinh thần phòng bệnh là chính, mạng lưới y tế được mở rộng, công tác vệ sinh phòng bệnh được thường xuyên quan tâm, nhà vệ sinh gia đình được qui hoạch hợp lý hơn. Địa phương đã xây dựng trạm xá để phục vụ việc khám, chữa bệnh, hộ sinh cho nhân dân, song cơ sở vật chất còn đơn sơ; cử các cán bộ y tế đi đào tạo sơ cấp; đào tạo làm hộ sinh, bán thuốc. Công tác tiêm phòng được thực hiện đầy đủ, một số bệnh đã được xử lý, chữa trị tại chỗ. Trạm xá đã trồng và ứng dụng một số cây thuốc nam để phổ biến cho nhân dân trong xã sử dụng chữa trị các bệnh thông thường. Các Lương y được tổ chức thành cửa hàng thuốc Nam phục vụ nhân dân. Các cán bộ y tế ra sức tuyên truyền cho nhân dân về ăn sạch, ở sạch; ăn chín, uống sôi, đẩy mạnh phong trào xây dựng giếng nước, làm hố xí hợp vệ sinh, phối hợp các trường giáo dục học trò "không ăn quả xanh, không uốn nước lã", "rửa tay trước khi ăn"... Hàng năm, cán bộ y tế xuống từng cơ sở tham mưu cho cán bộ xóm, cán bộ đoàn, cán bộ phụ nữ, các tổ chức phát quang bụi rậm, khơi thông rãnh nước tù, vớt bèo, vệ sinh đường làng, dong xóm sạch sẽ, góp phần đẩy lùi bệnh tật, tăng cường sức khoẻ cho nhân dân. Nhiều căn bệnh nguy hiểm như đậu mùa, lỵ tả, thương hàn, phong, lao, đau mắt đã được hạn chế.

Cùng với việc chống phá, gây khó khăn cho phong trào xây dựng HTX, kẻ địch còn tăng cường mua chuộc, thả truyền đơn, bạc giả, đài bán dẫn nhằm lôi kéo, kích động quần chúng. Cũng trong thời gian này, Mỹ-Nguỵ đã tung rất nhiều gián điệp ra miền Bắc, kết hợp với những kẻ nằm vùng ở lại sau Hiệp định Giơnevơ để chống phá. Vùng biển Nam Định có vị trí quân sự rất quan trọng nên kẻ địch đã tung nhiều biệt kích ra hoạt động. Ta đã kịp thời phát hiện, bắt và trừng trị bè lũ Trần Minh Châu [tức Cộng] người huyện Giao Thủy. Thực hiện quyết định 39 của Trung ương về khoanh vùng trấn phản, đầu năm 1961 huyện đã rà soát, phân loại, bắt răn đe và trục xuất những phần tử cư trú bất hợp pháp không rõ tung tích. Từ năm 1962, tiến hành chuyên án phá tổ chức đảng phản động Duy dân tân Việt [còn có tên là Đảng Lý Đông A] do Nguyễn Xuân Thắng [Diêm Điền - Bình Hòa cầm đầu]. Đây là một Đảng phái phản động, gồm những tên tề ngụy cũ và những phần tử bất mãn bị đấu tố trong cải cách ruộng đất trước đây, có chân rết ở Diêm Điền, Hoành Đông, Hoành Nhị. Tổ chức này đã lợi dụng hình thức bói tiên và sấm ký để tuyên truyền mê hoặc, xuyên tạc lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin theo chúng chống lại chế độ và phong trào cách mạng. Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã tuyên phạt 9 tên với mức án từ 5 năm đến 20 năm tù giam và áp dụng chính sách khoan hồng tha cho những tên ra đầu thú. Năm 1964 thực hiện Chỉ thị 81 của Bộ Chính trị và Công văn số 67 của Ban Bí thư Trung ương về công tác An ninh - Quốc phòng, chống gián điệp, các Đảng bộ đã tổ chức học tập và phân công người theo dõi một số đối tượng như nguỵ quân, nguỵ quyền cũ. Các đối tượng trong diện bị quản lý đều được gọi lên, yêu cầu viết cam đoan phải thực hiện nghiêm Pháp luật, không được tổ chức các hành động chống phá. Do những cố gắng trên nên tình hình an ninh trong suốt 5 năm được đảm bảo, không có biến động lớn xảy ra.

Đi đôi với nhiệm vụ trấn phản, giữ gìn an ninh trật tự; công tác xây dựng lực lượng dân quân địa phương ngày càng được củng cố và phát triển. Hàng năm dân quân loại 1 đều được huấn luyện, thường xuyên thực tập các phương án chiến đấu với tinh thần tích cực sản xuất trong thời bình, sẵn sàng chiến đấu khi có biến động. Năm 1960 Luật nghĩa vụ quân sự chính thức được ban hành, chuyển từ chế độ tình nguyện sang chế độ nghĩa vụ. Với tinh thần yêu nước và trách nhiệm công dân, 100% số thanh niên địa phương đến tuổi làm nghĩa vụ đều sẵn sàng lên đường nhập ngũ, đảm bảo chỉ tiêu trên giao.

Công tác xây dựng Đảng tập trung vào việc củng cố về mặt tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên, khắc phục tình trạng thiếu đảng viên lãnh đạo và xóa cơ sở trắng. Trước yêu cầu tình hình, nhiệm vụ mới, các chi bộ đã đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về các chỉ thị nghị quyết, 10 nhiệm vụ đảng viên, về tình hình quốc tế và cách mạng miền Nam, phát động các phong trào xây dựng cơ sở và đảng viên 4 tốt[[125]]; quan tâm xây dựng đời sống, nâng cao tinh thần đấu tranh chống các tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, hàng năm gửi nhiều thanh niên tiên tiến đi học các lớp đối tượng Đảng. Các chi bộ đều căn cứ 6 tiêu chuẩn[[126]] để phấn đấu tiên tiến. Qua đó nâng cao tinh thần tự giác cách mạng, nhận thức sâu sắc về tình hình mới, chống các tư tưởng bảo thủ, đoàn kết vươn lên. Công tác kiểm tra được tiến hành kịp thời, các đơn từ khiếu nại, những trường hợp vi phạm được xử lý đúng mức đã có tác dụng tích cực góp phần tăng cường đoàn kết, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên và tổ chức Đảng, đưa sinh hoạt đi vào nề nếp. Từ 1964, huyện tập trung chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, xây dựng chi bộ 4 tốt, giải quyết chi bộ, đảng viên yếu kém. Nhiều chi bộ đã cố gắng làm tốt, tỷ lệ phát triển đảng viên ngày càng cao, số và chất lượng tăng lên.

Cùng với công tác xây dựng đảng, công tác xây dựng chính quyền cũng luôn được Đảng bộ quan tâm. Những đồng chí có trình độ, uy tín, được phân công sang phụ trách các lĩnh vực của chính quyền và được cử đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn. Trong các cuộc bầu cử như bầu cử Quốc hội khóa III ngày 26/4/1964 và các cuộc bầu cử HĐND xã, huyện, địa phương đã huy động đông đảo cử tri đi bầu. Các nhân tố mới, tích cực được bổ sung vào lãnh đạo chính quyền, góp phần xây dựng chính quyền vững mạnh, lãnh đạo tốt việc phát triển kinh tế xã hội. Các đại biểu được lựa chọn ra ứng cử HĐND, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đều luôn được chú ý đảm bảo có đủ uy tín, đức, tài, đảm bảo cơ cấu thành phần, nhất là cơ cấu nữ. Các đại biểu trúng cử đều luôn cố gắng phấn đấu, đảm bảo uy tín và năng lực. Chính quyền đã chỉ đạo các HTX, các ban, ngành đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi; hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước về lương thực, thực phẩm; làm tốt công tác nghĩa vụ quân sự hàng năm.

Mặt trận Tổ quốc ra sức tập hợp xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, động viên nhân dân hăng hái tham gia các phong trào do Đảng và chính quyền phát động, động viên các cụ phụ lão đẩy mạnh phong trào tết trồng cây. Mỗi HTX, mỗi thôn đều thành lập hội Phụ lão và tích cực thực hiện phong trào trồng cây. Các đường thôn xóm đều được phủ kín cây phi lao, điền thanh; vừa che bóng mát, vừa lấy gỗ, củi, làm phân xanh bón cho đồng ruộng.

Với tinh thần đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên, Đoàn Thanh niên luôn nêu cao vai trò đầu tầu gương mẫu trong xây dựng HTX, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tích cực sản xuất, làm thủy lợi, phân bón, bèo hoa dâu, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, chấp hành tốt chế độ chính sách của Đảng và nhà nước, phấn đấu trở thành đảng viên, quan tâm giúp đỡ các em thiếu niên nhi đồng.

Hội Phụ nữ động viên chị em làm tốt vai trò làm vợ, làm mẹ, tích cực tham gia lao động sản xuất như cấy, cày, chăm bón, thu hoạch. Nhiều chị đã thu xếp tốt công việc gia đình, tham gia tốt công tác xã hội.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các chi bộ, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân địa phương Ngô Đồng tiếp tục cải tạo, xác lập quan hệ sản xuất XHCN và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể đều đạt những thành tựu mới, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. Công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc đang được triển khai có hiệu quả thì ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ rồi đem máy bay, tàu chiến ra đánh phá miền Bắc. Nhân dân miền Bắc nói chung và Ngô Đồng nói riêng từ đây bước sang một giai đoạn cách mạng mới, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

3- Vừa sản xuất vừa chiến đấu, góp phần hai lần đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ

* Chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ [1965-1968]

Chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam, để cứu vãn tình thế, Mỹ buộc phải trực tiếp đưa hơn nửa triệu quân vào thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Để ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, chúng dựng lên cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc bộ, rồi liều lĩnh dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc.

Trước âm mưu, thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết 11 [3/1965] và 12 [12/1965] chỉ đạo quân dân miền Bắc kịp thời chuyển hướng chiến lược, vừa sản xuất vừa chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lãnh đạo chỉ đạo của tỉnh trong điều kiện tình hình mới, tháng 4/1965, Trung ương quyết định sáp nhập 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, ngày 17-7-1965, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Hà đã chỉ đạo các địa phương kịp thời chuyển hướng chiến lược theo tình hình, nhiệm vụ mới, gắn bó chặt chẽ 2 nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu. Huyện Giao Thủy đã mở hội nghị triển khai tới các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các xã để chuẩn bị mọi mặt chuyển hướng công tác từ thời bình sang thời chiến.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ đã tiến hành cuộc chỉnh huấn mùa xuân 1965, tổ chức học tập Nghị quyết 11 và 12 của Ban Chấp hành TW Đảng và 3 bài chính trị cơ bản, 7 bài kinh nghiệm xây dựng Đảng cho toàn thể Đảng viên, gắn với cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng viên 4 tốt. Qua đó nâng cao ý chí chiến đấu, kiên định lập trường, khắc phục khó khăn, gian khổ, vững vàng trước mọi thử thách của cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt. Căn cứ vào sự lớn mạnh của chi bộ, nhiều chi bộ xã được quyết định chuyển thành Đảng bộ xã.

Trong quá trình thực hiện chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, địa phương có vị trí quan trọng, là trung tâm kinh tế, chính trị của huyện, có nhiều cơ quan, xí nghiệp, kho tàng, bệnh viện, chợ đông đúc là mục tiêu đánh phá của địch nên đã được chỉ đạo sơ tán triệt để[[127]]. Các cống Cồn Nhất, Ngô Đồng, Cầu Bến gánh được hóa trang, che phòng; các trục đường giao thông, bến xe, trường học, gia đình đều có hầm hố che tránh, học sinh đến trường đều đội mũ rơm, túi thuốc cứu thương dự phòng. Mô hình mỗi làng là một pháo đài chiến đấu, mỗi HTX là một đơn vị chiến đấu, mỗi chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi được phát động và thực hiện. Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và xây dựng vững mạnh, ra sức tập luyện, đặc biệt về kỹ thuật bắn máy bay bằng súng bộ binh. Các tổ trực chiến, quân báo, y tế cấp cứu phục vụ chiến đấu diễn ra thường xuyên 24/24 giờ hàng ngày, sẵn sàng báo động cho nhân dân sơ tán, ẩn tránh mỗi khi máy bay địch xuất hiện

Càng bị thua đau, đế quốc Mỹ càng mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc với quy mô và cường độ ác liệt. Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi nhân dân cả nước tiếp tục cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, cả nước đã dấy lên một phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu với khí thế sục sôi cách mạng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là phong trào 3 sẵn sàng của thanh niên, 3 đảm đang của phụ nữ. Hàng trăm thanh niên là những người con của quê hương đã tự nguyện nhập ngũ lên đường chiến đấu, đi thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến. Ở hậu phương mỗi người hăng hái thi đua làm việc bằng hai vì miền nam ruột thịt, phụ nữ thay nam giới tay cày, tay súng, đảm đương công việc xã hội và gia đình.

Trên lĩnh vực sản xuất, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, qua hai vòng cải tiến quản lý HTX, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy, phong trào hợp tác hóa của địa phương có bước chuyển biến, đầu năm 1965 tỷ lệ hộ xã viên tham gia HTX là 80% như Giao Sơn, Giao Hòa[[128]]. Các HTX nhỏ hợp nhất thành HTX lớn toàn thôn như ở Hoành Nhị, Hoành Đông. Sau khi hợp nhất, các HTX trên đã xác định được phương hướng sản xuất mới giữa trồng trọt và chăn nuôi, phát triển ngành nghề nung gạch ngói, vôi, đan lát v.v

Gắn liền với cải tiến quản lý HTX, khâu cải tiến kỹ thuật: nước, phân, cần, giống được đặc biệt coi trọng. Các HTX đều có đội chuyên trách, như đội thủy lợi chuyên trách tưới tiêu hợp lý, góp phần thau chua rửa mặn; đội chế biến phân xanh, phân bùn, phân chuồng, gieo điền thanh mô, bèo dâu phủ kín đồng ruộng. Toàn huyện phát động sôi nổi phong trào làm phân bón ruộng, với khẩu hiệu rừng điền thanh, biển bèo dâu, núi phân chuồng. Các gia đình đều có hố xí hai ngăn, nồi hông đựng nước giải để chăm bón lúa.

Khâu làm đất coi trọng việc cày ngâm, bừa ngả cho cả hai vụ chiêm mùa. Mọi người thực hiện khẩu hiệu Không cày bừa kỹ, không cấy; không hồ phân rễ mạ, không chăng dây thẳng hàng, không cấy. Mật độ cấy đảm bảo độ dầy hợp lý 25 x 25 hoặc 22 x 25, góp phần tiết kiệm diện tích, tăng năng suất lúa, tăng sản lượng cây trồng. Tập quán cấy chay, bừa chùi, lúa thước hai, khoai thước mốt dần được xóa bỏ .

Các HTX đã chú ý đưa các giống NN5, NN8 có năng suất cao, thấp cây, ngắn ngày vào thay thế các giống cũ [như lúa dâu, lúa hon năng suất thấp]. Khâu giống mạ được tiến hành khử trùng 3 sôi 2 lạnh, gieo thưa theo luống nhỏ, giúp cây mạ to cây, đanh dảnh, khi cấy xuống ruộng cây lúa phát triển rất nhanh.

Nhờ cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật, năm 1965 năng suất lúa của HTX Hoành Đông, Hoành Nhị đã chạm đỉnh 5 tấn/ha; năm 1966-1967 vượt trên 5 tấn/ha.

Trong điều kiện chống chiến tranh đánh phá, các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa xã hội vẫn được duy trì, đảm bảo thường xuyên. Học sinh triệt để sơ tán về các xóm thôn, tránh xa nơi tập trung đông người; luôn mang mũ rơm, túi thuốc bên mình khi đi học. Các lớp học đều có đào hào giao thông và hầm chữ A chắc chắn để học sinh tránh bom đạn. Phong trào dạy tốt, học tốt thường xuyên được phát động; số lượng và chất lượng học sinh được duy trì. Các hình thức văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, phong trào tiếng hát át tiếng bom được phát động sôi nổi. Các tổ chức đoàn thể như thanh niên, phụ nữ hoạt động tích cực.

Càng điên cuồng đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, đế quốc Mỹ càng bị thua đau. Với tinh thần không có gì quý hơn độc lập tự do, quân dân ta đã giáng cho kẻ thù những đòn đích đáng, bắn cháy nhiều thần sấm, con ma của không lực Hoa Kỳ. Ở miền Nam, cuộc tổng tấn công, nổi dậy tết Mậu Thân 1968 của quân dân ta đã buộc Tổng thống Mỹ Giôn-sơn phải tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc vào ngày 31/3/1968; đến ngày 01/11/1968, Mỹ phải tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, thừa nhận thất bại. Đây là thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của quân dân cả nước.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở địa phương, tuy các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn bị địch tập trung đánh phá, nhưng về cơ bản vẫn được bảo toàn[[129]]. Mọi hoạt động vẫn được duy trì, phát triển. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân địa phương trước âm mưu thâm độc và tàn bạo của kẻ thù.

* Chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai [1969 - 1972]

Qua 4 năm tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, chấm dứt chiến tranh phá hoại, ngồi vào bàn đàm phán tranh thủ điều kiện hòa bình cùng với việc khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Đây là thời kì nền nông nghiệp trong huyện nói chung và địa phương nói riêng, đang trong quá trình chuyển biến từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn; từ độc canh sang sản xuất toàn diện; từ sản xuất theo kinh nghiệm sang từng bước tăng cường cơ sở vật chất và đưa khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, từ sản xuất tính tự cấp tực túc sang sản xuất hàng hóa.

Quan hệ sản xuất mới được xác lập, quy mô ngày một gia tăng. Để đáp ứng sự lãnh đạo chỉ đạo trong điều kiện mới, ngày 22/12/1967 hội đồng Chính phủ ra quyết định số 147/CP hợp nhất hai huyện Giao Thủy, Xuân Trường thành huyện mới Xuân Thủy kể từ ngày 01/01/1968. Trụ sở huyện mới Xuân Thủy đặt tại huyện lỵ Giao Thủy cũ. Từ đây để đảm bảo thuận tiện cho công tác và sinh hoạt gia đình, một số cán bộ công nhân viên chức, kể cả người buôn bán từ các nơi đã đến mua đất, mua nhà và đưa cả gia đình đến định cư, làm cho dân số cơ học ở địa phương tăng nhanh, đồng thời cũng mang theo những tập quán của quê hương cũ du nhập vào, làm đa dạng bản sắc văn hóa và phong tục tại địa phương.

Trong lúc Đảng bộ và nhân dân địa phương tranh thủ điều kiện hòa bình, khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế- văn hóa - xã hội, thì tin buồn đột ngột xảy ra ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu, cả cuộc đời trọn vẹn vì dân, vì nước qua đời. Bác mất là một tổn thất vô cùng to lớn, để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với mọi tầng lớp nhân dân già trẻ, gái trai với. Để tỏ lòng tri ân công đức trời biển của Bác, tại địa phương, Ban tang lễ được thành lập; nơi công sở cờ rủ kéo xuống, bàn thờ Bác được lập để nhân dân đến thắp hương kính viếng Người. Nhiều gia đình nhân dân cũng lập bàn thời để tưởng niệm Bác.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành TW, toàn Đảng tiến hành đợt sinh hoạt chính trị Học tập và làm theo Di chúc và đạo đức của Hồ Chú Tịch, b iến đau thương thành hành động cách mạng, mọi người ra sức thi đua sản xuất, công tác, mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Bị thất bại nặng nề ở cả hai miên đất nước, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, đơn phương ngừng ném bom miền Bắc lần thứ nhất, chấp nhận đàm phán với Chính phủ ta tại Hội nghị Pari. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn mưu đồ Việt Nam hóa chiến tranh, thay màu da trên xác chết. Chúng đã hà hơi tiếp sức bằng cách tăng viện trợ tiền của, vũ khí tối tân cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn; cùng với những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt hòng giành lại thế mạnh trên chiến trường và trên bàn đàm phán. Để cứu vãn quân ngụy Sài Gòn khỏi sụp đổ, đế quốc Mỹ đã phá vỡ lời cam kết tháng 11/1968 với Chính phủ ta, trở lại Mỹ hóa cuộc chiến tranh.

Thực hiện Nghị quyết 220/NQ-TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ và nhân dân địa phương lại tiếp tục, triệt để sơ tán kho tàng, trường học, chợ búa, người già, trẻ em ra xa vùng trọng điểm đánh phá của địch; củng cố trận địa phòng không Cồn Nhất, tu sửa hầm hào phòng tránh, nhằm hạn chế thiệt hai do địch gây ra.

Tháng 4/1972 đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai với quy mô rộng lớn và ác liệt chưa từng thấy. Mục tiêu đánh phá của địch là các thành phố, khu công nghiệp, giao thông thủy bộ, đê điều cầu cống hòng làm suy yếu nền kinh tế miền Bắc, để chúng ta không còn khả năng chi viện cho miền Nam. Ngoài mục tiêu đánh phá thành phố Nam Định, khu Công nghiệp, hầu hết cầu cống, đê điều trong tỉnh, trong huyện. Như cầu Bến Gánh, cống Ngô Đồng đều bị đánh phá, tuy mục tiêu không trúng nhưng bom rơi trúng hai nhà dân ở Xuân Phú và Hoành Đông làm hai người chết, một người bị thương. Cùng lúc chúng thả hàng trăm quả thủy lôi xuống sông Hồng, cửa Ba Lạt và ven biển, hòng ngăn cản sự chi viện của ta vận chuyển bằng đường thủy. Tại cửa sông Ngô Đồng một thuyền qua lại chạm phải thủy lôi nổ làm một người chết, một số người bị thương.

Đỉnh cao đánh phá của địch là từ ngày 18/12 đến 30/12/1972, Mỹ tiến hành cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng với khối lượng bom đạn lớn chưa từng thấy, hòng buộc ta phải chấp nhận điều kiện trên bàn đàm phán có lợi cho chúng. Không chịu khuất phục, quân dân ta dũng cảm chiến đấu, hợp đồng các binh chủng, giăng lưới lửa dầy đặc từ tầm thấp đến tầm cao, đánh địch suốt 12 ngày đêm, đánh cho không lực Hoa Kỳ một đòn chí tử 81 máy bay thần sấm, con ma tối tân nhất bị bắn hạ trên bầu trời miền Bắc [trong đó có 34 máy bay B52 và 5 chiếc F111]. Lần đầu tiên không quân chiến lược pháo đài bay B52 bị một đòn nặng nề nhất, cùng hàng trăm giặc lái sừng sỏ nhà nghề bị tiêu diệt và bắt sống[[130]]. Bản anh hùng ca Điện Biên Phủ trên không làm nức lòng quân dân cả nước và bầu bạn khắp thế giới, một lần nữa buộc đế quốc Mỹ phải thừa nhận thất bại, ký kết Hiệp định Pari ngày 27/01/1973 chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ cút thừa thắng xốc tới quân dân cả nước tiếp tục chiến đấu đánh cho ngụy nhào.

Hiệp định Pari được ký kết, đế quốc Mỹ thừa nhận thất bại, rút quân khỏi Việt Nam, công nhận độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ rút việc ngụy nhào chỉ còn là thời gian, dù chúng có cố sức và ngoan cố đến đâu cũng không tránh khỏi sụp đổ.

Hơn hai năm sau, hậu phương miền Bắc ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải thiện đời sống nhân dân. Ra sức chi viện sức người sức của với tinh thần thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, cùng tiền tuyến miền Nam thừa thắng xốc tới Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang đến các tỉnh miền duyên hải lần lượt được giải phóng. Quân ngụy hoang mang rao động cực độ, tinh thần rệu rã, không còn sức chiến đấu, vứt cả vũ khí, tháo chạy tìm đường thoát thân. Địch bị dồn vào vào hang ổ cuối cùng tử thủ Sài Gòn.

Ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tung bay trên nóc dinh Độc lập; toàn bộ nội các ngụy quyền bị bắt sống , Dương Văn Minh - Tổng thống ngụy quyền tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chấm dứt chế độ Việt Nam cộng hòa tay sai. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.

Trải qua 21 năm chống Mỹ cứu nước và 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ròng rã suốt 30 năm trường, trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ, bao xương máu đổ ra nơi tiền tuyến, bao mồ hôi, nước mắt, công sức ở hậu phương đã tạo thành sức mạnh, lập lên chiến công thần kỳ đầy hiển hách thời đại Hồ Chí Minh; với chiến thắng lịch sử Hồ Chí Minh, Việt Nam đã đánh thắng hai đế quốc có tiềm lực lớn, đồng thời làm thất bại cả chủ nghĩa thực dân cũ và mới; được nhân dân thế giới ca ngợi. Những chiến công đó làm rạng rỡ và tô thắm thêm truyền thống yêu nước chống giặc giữ nước của dân tộc từ ngàn xưa đến nay.

Giang Sơn thu về một mối, đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, một xã hội tươi đẹp đầy tương lai hứa hẹn.

CHƯƠNG IV

PHỤC HỒI PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH, XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT KĨ THUẬT CỦA CNXH, GÓP PHẦN CHIẾN THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH Ở HAI ĐẦU BIÊN GIỚI ĐẤT NƯỚC [1975- 1985]

1. Phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, góp phần đánh thắng chiến tranh biên giới [1975- 1980].

Chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng nước ta mở ra một kỉ nguyên mới: cả nước độc lập, thống nhất đi lên CNXH. Bước sang thời kì mới, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV [tháng 12/1976] đã khẳng định Nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ cách mạng mới là đẩy mạnh công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Tháng 9/1975, hai tỉnh Hà Nam và Ninh Bình sát nhập thành tỉnh Hà Nam Ninh[[131]]. Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất[ khóa I] đề ra phương hướng nhiệm vụ: Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo hướng tổ chức lại sản xuất và phân bổ lại lao động, tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp; đưa sản xuất phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Đồng thời phát động nhân dân hăng hái tham gia chiến dịch Hà Nam Ninh, tiếp đó là chiến dịch Trần Hưng Đạo, nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu trên.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Xuân Thủy, hai Đảng bộ Bình Hòa, Hoành Sơn đều tiến hành Đại hội, kiện toàn tổ chức và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, đưa hợp tác xã lên quy mô toàn xã, tiến hành tổ chức sắp xếp lại Ban Quản trị, đội sản xuất theo hướng quy mô và chuyên môn hóa gồm: Lập đội thủy lợi 202, đội cày bừa, đội giống, đội chế biến phân, đội chăn nuôi, đội bảo vệ thực vật, thú y, đội trồng cây. Năm 1976 địa phương tiến hành đo đạc khảo sát lại ruộng đất, khắc phục tình trạng phân tán, manh mún để bước đầu áp dụng đưa cơ giới lớn vào khâu cày bừa được 10% diện tích, đồng thời tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của Hợp tác xã như nhà kho, sân phơi[[132]], mua sắm thêm công cụ cải tiến [cào cỏ, liềm, xén, xe cút kít ...]. Đồng thời phát động chiến dịch thủy lợi nội đồng, qui hoạch lại hệ thống mương máng, bờ vùng bờ thửa, đảm bảo tưới tieu phù hợp với từng cánh đồng, phụ vụ cho sản xuất lúa chính vụ chiêm, mùa và sản xuất vụ đông , tăng năng suất cây trồng có hiệu quả, tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển kể cả tập thể và gia đình ngoài thực hiện nghĩa vụ với nhà nước theo kế hoạch, mỗi kg lợn hơi vượt chỉ tiêu được thưởng bằng thóc.

Hợp tác xã tiểu thủ công Bắc Sơn và Bình Thuận được củng cố chuyên sản xuất vật liệu xây dựng [gạch, ngói, vôi] và mở rộng thêm nghề đan lát bao bì, thảm cói xuất khẩu, đã góp phần phân bổ lại lao động và công việc làm lúc nông nhàn.

Các ban quản lý HTX Tín dụng và Mua bán đều được củng cố tăng cường đảng viên sang lãnh đạo và chỉ đạo, đổi mới phương thức hoạt động nhằm huy động tiền vốn nhàn rỗi trong nhân dân và khai thác các nguồn hàng phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân.

Lĩnh vực giao thông, các trục đường chính dọc ngang thị trấn với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm đã mở rộng nhựa hóa và bê tông hóa hầu hết các dong xóm, việc đi lại vận chuyển bằng cơ giới nhỏ rất thuận tiện, không còn cảnh lấy lội như trước.

Sự nghiệp giáo dục từ năm 1976-1980, được Nhà nước đầu tư và sự đóng góp của nhân dân, phụ huynh học sinh với phong trào ngói hóa, mái bằng hóa , các trường lớp từ Mầm non đến Phổ thông cơ sở, bước đầu được xây dựng, các trang thiết bị phục vụ giảng dậy và học tập bước đầu được trang bị thêm. Phong trào thi đua Hai tốt [Dạy tốt - Học tốt] hàng năm được duy trì và giữ vững danh hiệu tiên tiến và xuất sắc.

Công tác văn hóa thông tin, khi các phương tiện nghe nhìn chưa phát triển, hệ thống dây truyền thanh là chủ yếu, đã trải khắp các thôn xóm, ngoài loa to nơi công cộng còn có loa nhỏ tới từng gia đình để nghe tin tức hàng ngày. Đồng thời thực hiện Chỉ thị 214/CT-TW của Trung ương Đảng và Quyết định 56/CP của Chính phủ, Huyện ủy chỉ đạo phát động phong trào Nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN. Thực hiện chủ truơng trên , ba làng Hoành Đông, Hoành Nhị, Diêm Điền đã xây dựng Hương ước nông thôn mới: bài trừ mọi thủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, lối sống thiếu lành mạnh; thực hiện nếp sống mới văn minh, riêng việc cưới - việc tang [cuối tập thể, chè nước tiệc ngọt, đám ma không quản dài ngày, không ăn uống linh đình] có nhiều chuyển biến tiến bộ.

Nhân dân ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh chống xâm lược ròng rã suốt 30 năm không ngơi nghỉ để giành độc lập thống nhất, thu non sông về một mối, tiếp đó phục hồi và xây dựng lại đất nước. Nhưng cuộc sống thanh bình chưa được bao lâu, chiến tranh lại nổ ra ở hai đầu biên giới đất nước. Phản bội tình hữu nghị truyền thống lâu đời, tình anh em, đồng chí keo sơn, gắn bó vui buồn có nhau bấy nay. Được các thế lực bên ngoài kích động, hà hơi tiếp xúc, bọn diệt chủng Pôn-Pốt tiến hành lật đổ chính phủ hợp pháp ở Cam-pu-chia, thực hiện chế độ vô cùng tàn ác, man rợ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, tàn sát, giết hại những đảng viên chân chính, kể cả sư sãi, dòng dõi hoàng tộc và người dân yêu nước. Những ai còn sống sót thì bắt đi lao động cải tạo, ăn đói, mặc rách, làm những công việc khổ sai nặng nhọc cho đến chết.

Gây tội ác ở trong nước chưa đủ, bọn diệt chủng Pôn Pốt còn tập trung binh hỏa lực, tràn sang biên giới phía Tây nam nước ta cướp đất, đi đến đâu chúng tàn phá lương rẫy, đốt nhà, cướp của, hàng vạn đồng bào ta bị giết hại, đa phần là người già, đàn bà, trẻ con bằng những hành động vô cùng man rợ.

Để tạo cớ cứu bọn diệt chủng tay sai ở Cam-pu-chia, nhà cầm quyền Trung Quốc[ 1978-1979] dựng chuyện Việt Nam phân biệt đối xử, khủng bố xua đuổi Hoa Kiều và người Việt gốc Hoa, kích động gây mất ổn định trong nước ...

Trước tình hình đó, thực hiện Chỉ thị số 17CT/TW về công tác chống nội gián và Chỉ thị 53CT/TW của Ban Bí thư TW về quản lý người Việt gốc Hoa, nhằm giữ an ninh, không để xảy ra biến động.

Tạo cớ trên, giới cầm quyền Trung Quốc ngang nhiên đưa quân tràn sang biên giới phía Tây bắc nước ta, dịch mốc lấn đất, tàn phá lương rẫy, phá hoại kinh tế, giết người cướp của, gây bao cảnh tang tóc đau thương đối với nhân dân ta.

Thực thi lệnh tổng động viên thời chiến, nhiều thanh niên tình nguyện, sỹ quan, hạ sỹ quan cả nước tái ngũ, trong đó có những người con của quê hương thị trấn, tình nguyện lên đường chiến đấu bảo vệ bien cương, bờ cõi của Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế[[133]]. theo yêu cầu của Mặt trận cứu nguy dân tộc Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh cùng quân dân Cam-pu-chia chiến thắng bọn Khơ-me đỏ, cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi họa diệt chủng , đầy đọa suốt 3 năm 8 tháng 20 ngày,. Hơn hai triệu nhân dân Cam-pu-chia vô tội đã bị Khơ-me đỏ sát hại[ xương xếp thành núi, máu chảy thành sông, dưới hố chôn tập thể]. Tội ác diệt chủng trời không dung đất không tha, loài người nguyền rủa và lên án đã bị Tòa án quốc tế và Cam-pu-chia phối hợp xét xử bọn Pôn Pốt, Iêng- xary, Khiêu-xăm-pon và bè lũ ...với hình thức cao nhất.

Trong những năm 1975-1980, do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới, điều kiện cơ sở vật chất và trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp kém, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, chăm nuôi chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Song các đảng bộ và nhân dân địa phương đã phát huy tinh thần đoàn kết, khắc phục hậu quả chiến tranh và những yếu kém vươn lên, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, tổ chức lại sản xuất, hưởng ứng chiến dịch Hà Nam Ninh tiếp đó là chiến dịch Trần Hưng Đạo, đưa kinh tế xã hội của địa phương đi lên, góp phần cùng cả nước đánh thắng chiến tranh ở hai đầu biên giới đất nước, cùng các mặt xây dựng Đảng, chính quyền các đoàn thể được quan tâm, đời sống nhân dân từng bước được ổn định.

2. Triển khai thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW, từng bước tìm hướng đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân [1981-1985]

Vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh ròng rã 30 năm chống thù trong giặc ngoài bảo vệ Tổ quốc. Vết thương chiến tranh do chúng gây ra chưa hàn gắn xong, không cam chịu thất bại, các thế lực thù địch lại cấu kết với nhau, chống phá thành quả mà nhân dân ta đã đổ mồ hôi xương máu giành lại được. Đế quốc Mỹ và phương Tây vừa siết chặt, bao vây cấm vận vè kinh tế, cô lập về chính trị, ngăn cản các nước có quan hệ với ta. Cùng lúc bọn diệt chủng bành trướng phản bội gây chiến ở hai đầu đất nước với thủ đoạn "Diễn biến hòa bình" chúng cấu kết với bọn phản động trong nước và lưu vong, bọn cơ hội, xét lại nêu chiêu bài "Đa nguyên, đa đảng"[ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập] hòng gây hoang mang, chia rẽ trong Đảng và ngoài nhân dân. Do đó, tình hình đất nước đã khó khăn càng khó khăn thêm, nhất là vế kinh tế. Các nguồn viện trợ không còn, sản xuất trì trệ phần do thiên tai hạn hán, phần do cơ chế quan liêu bao cấp kìm hãm. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đồng tiền mất giá, vật giá leo thang, lạm phát phi mã tới ba con số[ 189,5%], hàng hóa khan hiếm, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, cung không đủ cầu, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, tiêu cực phát sinh.

Để từng bước tháo gỡ khó khăn vướng mắc về kinh tế nhằm đưa nền kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiều năm qua đã cố gắng chỉ đạo cải tiến quản lý, cải tiến kĩ thuật, đưa điều lệ vào HTX nông nghiệp. Song vẫn vướng mắc về cơ chế, chính sách chưa giải phóng được sức sản xuất và phát huy được tinh thần tự chủ, lao động sáng tạo của quần chúng xã viên. Tình trạng khoán chui, lấn chiếm ruộng đất, dấu diện tích, dấu sản lượng, lập quỹ đen, chây ỳ nộp sản phẩm cho HTX và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước.

Trước tình trạng trên, khởi đầu cho quá trình tìm tòi đổi mới trong nông nghiệp, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng khóa IV [8/1979] chủ trương chuyển đổi cơ chế khoán sản phẩm tới người lao động nhằm khuyến khích mọi năng lực sản xuất, làm cho "sản xuất bung ra" tạo nhiều của cải vật chất cho xã hội.

Trên cơ sở đó, ngày 13/01/1981 Ban Bí thư TW Đảng ra Chỉ thị 100/CT-TW về "cải tiến công tác khoán sản phẩm đến nhòm và người lao động trong HTX nông nghiệp" nhằm mục đích bảo đảm sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Từ đó lôi cuốn mọi xã viên hăng hái lao động sản xuất, khai thác tốt đất đai và cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn, không ngừng nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống xã viên, tăng tích lũy cho HTX, tăng khối lượng nông sản hàng hóa, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.

Từ kết quả ban đầu thực hiện Chỉ thị 100, đưa ản xuất nông nghiệp và chăn nuôi thành nghề sản xuất chính, trọng tâm là sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng xuất khẩu. Nhờ vượt khoán năng suất và sản lượng tăng là điều kiện thuận lợi để HTX khoán chăn nuôi cho hộ xã viên theo công thức cứ 5kg thóc/kg thịt lợn hơi, nên đàn lợn phát triển rất nhanh cả vè số lượng và trọng lượng/con thời điểm đó.

Trên lĩnh vực lưu thông phân phối, trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp kéo dài, lúc này hàng hóa sản xuất tại địa phương có hạn, trên cung cấp nhỏ giọt. Tình trạng cung không đủ cầu, hàng hóa phân phối không đủ định lượng theo chế độ tem phiếu[[134]]. Mậu dịch quốc doanh, HTX mua bán vượt rào chạy hàng ngoài luồng, ngoài kế hoạch chân ngoài dài hơn chân trong. Từ đó buông lỏng quản lý, tiêu cực phát sinh, một số nhân viên thoái hóa biến chất, móc ngoặc với tư thương tuồn hàng ra ngoài lấy gía chênh lệch kiếm lời, càng làm cho thị trường rối loạn càng rối rắm thêm.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW lần thứ 8 [khóa V] về chuyển đổi cơ chế quản lý mới, hạch toán kinh doanh XHCN nhằm từng bước khắc phục những khó khăn yếu kém trên. Ngày 21/01/1981 Chính phủ ban hành Quyết định 25/CP tiếp theo Quyết định số 26/CP về bước đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quốc doanh với mô hình kinh tế gồm 3 thành phần: Kinh tế quốc doanh, tập thể, người lao động. Nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh phù hợp với lợi ích của Nhà nước, đơn vị sản xuất kinh doanh và người lao động. Năm 1985 xóa bỏ chế độ tem phiếu, tiến hành thu đổi tiền cũ thay bằng tiền Ngân hàng. Song trong thực tế vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế quan liêu bao cấp, nhiều khi còn cửa quyền gây phiền hà chưa khắc phục được.

Nhìn chung giai đoạn thử nghiệm trong thực tiễn khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm và người lao động theo tinh thần Chỉ thị 100 và Quyết định 25 - 26/CP về bước đầu đổi mới cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh, từng mặt có chuyển biến nhưng tổng thể vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc. Đây là bước đầu thử nghiệm để Đảng khởi xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng tiến lên trong giai đoạn tiếp theo.

Chương V

THỊ TRẤN NGÔ ĐỒNG ĐƯỢC THÀNH LẬP, ĐỒNG HÀNH CÙNG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI DO ĐẢNG KHỞI XƯỚNG

VÀ LÃNH ĐẠO [1986-2010]

1- Tình thế sau miền Nam giải phóng thống nhất đất nước với quốc sách đổi mới của Đảng.

Trải qua 10 năm [1975-1985] kể từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV và V. Cũng là lúc tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp. Các nước XHCN đang lâm vào khủng hoảng về đường lối và mô hình xây dựng CNXH. Trung Quốc cải cách theo mô hình Trung Quốc, Liên Xô cải tổ làm sụp đổ Liên Xô, tan rã hệ thống XHCN Đông Âu. Bọn phản bội tình hữu nghị gây chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước thiên tai hạn hán liên tiếp xảy ra, sản xuất trì trệ, viện trợ quốc tế không còn, Mỹ và phương Tây bao vây cấm vận ... nền kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Qua thực hiện Chỉ thị 100 của TW Đảng và Quyết định 25-26/cp của Chính phủ tuy có chuyển biến một phần trong lĩnh vực lưu thông phân phối, song những chuyển biến đó chưa thay đổi căn bản, vân trong tình trạng trì trệ. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tệ quan liêu bao cấp, cửa quyền, tiêu cực phát sinh ... càng làm cho tình hình kinh tế xã hội đã khó khăn càng khó khăn thêm.

Từ tình hình đất nước trên đây, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng [tháng 12/1986] đã nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật, kiểm điểm một cách sâu sắc thực trạng tình hình mọi mặt nói chung, nền kinh tế - xã hội nói riêng. Khẳng định những thành tự đã đạt được và những thiếu sót trong quá trình xây dựng CNXH những năm qua. Từ đó Đại hội khởi xướng "đổi mới mô hình xây dựng CNXH ở nước ta. Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, nhằm đưa đất nước khỏi khủng hoảng , yếu kém tiến lên."

Nghị quyết Đại hội VI nhấn mạnh: "Trọng tâm kinh tế trong những năm tới, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Công nghiệp nặng trong lúc này, trước hết và chủ yếu là phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nhẹ với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp[[135]] . Phương hướng đó thực hiện với ba chương trình: Lương thực - Thực phẩm- Hàng tiêu dùng, xuất khẩu - dân số, lao động. Ba chương này liên quan chặt chẽ với nhau, là cơ sở tiền đề cho nhau. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng là những điều kiện vật chất quan trọng nhất, để ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, qua 5 năm thực nghiệm [1986-1990] bước đầu đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước dần dần thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế - xã hội phát triển ổn định, chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, nhân dân ngày càng tin tưởng vào đường lối đổi mới.

Từ thực tiễn kiểm nghiệm và những thành công bước đầu đã cho Đảng ta rút ra những kết luận, để lựa chọn con đường thích hợp tiến lên CNXH ở nước ta [[136]] Đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII [1991] quyết tâm thúc đẩy công cuộc đổi mới mạnh mẽ toàn diện hơn. Đại hội đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH và đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm [1999-2000] và tầm nhìn 2020, phấn đấu nước ta trở thành nước Công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội còn khẳng định quan điểm của Đảng ta là kiên trì con đường đi lên CNXH, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, lấy tập trung, dân chủ làm nguyên tắc cơ bản. Đảng chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần gồm: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể HTX, kinh tế Liên doanh cổ phần hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể HTX giữ vai trò chủ đạo theo định hướng XHCN và xác định con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thực thi chương trình lương thực, qua thực hiện Chỉ thị 100 của Ban chấp hành TW Đảng ở ba HTX Bình Minh, Thanh Minh và Hoành Sơn [[137]] đã có bước đổi mới, nhưng chưa căn bản, việc giao nhận khoán, diễn ra theo mùa vụ hàng năm, khiến xã viên nhận khoán chưa thật yên tâm hào hứng với cơ chế khoán đó, dẫn đến tình trạng sản xuất ngày càng kém hiệu quả so với ban đầu nhận khoán. Mọi chi phí cho HTX, cho xã và nghĩa vụ với Nhà nước đều đổ dồn vào người lao động gánh chịu. Tình trạng bao cấp tràn lan, cửa quyền, nhiều cầu cấp phiền hà vẫn diễn ra. Tổ chức bộ máy quản lý HTX vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu lực ở cả hai HTX trên.

Tình trạng trên đây đã cản trở tiến trình đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn. Ngày 05/4/1988, Bộ chính trị TW Đảng ra Nghị quyết số 10/CT-TW về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Nghị quyết là sự tiếp tục đổi mới và cụ thể hóa các Nghị quyết 2, 3, 4 của Ban chấp hành TW Đảng khóa VII, xác định rõ quan điểm nông thôn là địa bàn trọng yếu của cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng XHCN. Nghị quyết khẳng định trong những năm trước mắt, nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu. Nghị quyết đề ra nội dung đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý nông nghiệp, HTX xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với HTX, nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế hạch toán tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế quốc doanh và HTX.

Thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp: đất đai được giao cho xã viên cả về diện tích và thời gian từ 10-20 năm. Vấn đề quản lý đất đai, chính phủ đã ra Nghị quyết số 914/CP về hoàn thiện hồ sơ địa chính, kiểm tra lại quỹ đất đai, tiến tới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Đến cuối năm 1993 cơ bản nông dân xã viên trên địa bàn thị trấn đã được giao quyền sử dụng đất lâu dài.

Từ đó người nhận khoán có thể yên tâm đầu tư thâm canh trên diện tích nhận khoán đạt năng suất cao, vượt khoán. Phương thức khoán là khoán thẳng, khoán gọn cho nhóm và hộ xã viên. Các đội chuyên chuyển sang hoạt động dịch vụ có hạch toán, trên cơ sở ký hợp đồng với hộ xã viên. Các cơ sở vật chất, thiết bị, trâu bò, chuồng trại, nhà kho, sân phơi. HTX không sử dụng, đã thanh lý cho xã viên và nhu cầu của xã sử dụng. Người nhận khoán được toàn quyền sử dụng sản phẩm của mình làm ra, sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ với tập thể và Nhà nước. Cơ chế trên đã tạo điều kiện cho người nhận khoán đầu tư công sức, tiền vốn, cải tiến kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao như F1, Tạp giao thay giống cũ năng suất thấp. Nhờ đó, bình quân năng suất lúa trong 5 năm [1991-1995] của địa phương đạt xấp xỉ 10 tấn/ha, tốc độ tăng trưởng bình quân là 13,3%/năm.

Thành quả đổi mới trên lĩnh vực lương thực, thực phẩm. Từ một nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn gạo, mì. Nay không những đủ ăn cho nhu cầu cả nước mà còn có dự trữ quốc gia, đảm bảo an sinh xã hội, hàng năm còn xuất khẩu từ 6 đến 7 triệu tấn gạo, đứng thứ nhì sau Thái Lan là một điều kỳ diệu.

2- Đảng bộ thị trấn Ngô Đồng được thành lập, nhanh chóng ổn định tổ chức, lãnh đạo nhân dân, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Thực hiện quyết định số 34/HĐBT ngày 01/4/1986 của Hội đồng Bộ trưởng[ Chính phủ], ngày 31/4/1986 Huyện ủy Xuân Thủy ra Quyết định thành lập Đảng bộ thị trấn Ngô Đồng gồm 74 Đảng viên chuyển từ Đảng bộ Bình Hòa và Hoành Sơn. Các chi bộ lập theo địa giới hành chính ở 6 khu dân cư[ từ khu 1 đến khu 6]. Sau đó có sự điều chỉnh, tách khu 4 thành khu 4A và 4B, tách khu 5 thành khu 5A và 5B. Đồng thời Huyện ủy chỉ định Ban chấp hành Đảng ủy lâm thời gồm 9 đồng chí, Ban Thường vụ Đảng ủy gồm 3 đồng chí:

- Đồng chí Nguyễn Văn Túy: Bí thư Đảng ủy[ cán bộ huyện tăng cường]

- Đồng chí Phan Phi Hồng: Phó Bí thư Chủ tịch UBND

- Đồng chí Phạm Ngọc Vượng: Ủy viên Thường vụ Đảng ủy

Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, các ban ngành của huyện hỗ trợ và sự nỗ lực của Đảng bộ, sau khi tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận, các ban, ngành, đoàn thể quần chúng hoạt động ổn định.

Tháng 10-1986, Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ nhất[ 1986-1988] thông qua phương hướng nhiệm vụ mới và bầu Ban chấp hành Đảng ủy chính thức gồm 9 đồng chí[ Tất cả 9 đồng chí chấp hành lâm thời đều trúng cử vào Ban Chấp hành Đảng ủy chính thức và giữ nguyên cương vị trước].

Tháng 11- 1988, Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ hai[ 1989-1990][[138]]. Đại hội nghe báo cáo kiểm điểm kết quả việc thực hiện Nghị quyết nhiệm kì I và nhiệm vụ phương hướng nhiệm kì II do Ban Chấp hành Đảng ủy trình bày. Đại hội bầu Ban Chấp hành nhiệm kì 1989-1990, gồm 9 đồng chí; trong đó có 3 đồng chí được cử vào Ban thường vụ Đảng ủy:

- Đồng chí Trần Quang Minh: Bí thư Đảng ủy[ cán bộ huyện tăng cường]

- Đồng chí Phạm Ngọc Vượng: Phó bí thư thường trực Đảng ủy

- Đồng chí Nguyễn Văn Minh: Phó bí thư, Chủ tịch UBND

Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ III [1991-1994], Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng ủy nhiệm kỳ gòm 9 đồng chí trong đó 3 đồng chí được cử vào Ban thường vụ:

- Đồng chí Nguyễn Văn Minh: Bí thư Đảng ủy

- Đồng chí Doãn Đình Đan: Phó bí thư thường trực Đảng ủy

- Đồng chí Phan Văn Đức: Phó bí thư chủ tịch UBND

Thị trấn được bao bọc bởi 4 sông lớn[[139]], một hệ thống sông cấp I, sông Cống Chúa[[140]], bắt nguồn từ sông Hồng và sông Bến gánh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra còn có hệ thống mương máng cấp II, III với 32 kênh, tỏng chiều dài là 10.482m[ trong đó kênh cấp II là 4.200m, kênh cấp III là 6.282m], còn có triền sông Hồng dài 2km, được kè bê tông kiên cố, chân đê chống sóng, chống xói lở.

Sau Đại hội Đảng bộ thị trấn tập trung vào thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp bước đầu vẫn được xác định là mặt trận hàng đầu, để từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên cơ sở kinh tế mọi mặt phát triển tiếp theo đó.

Cuối năm 1991, tỉnh Hà Nam Ninh được tách thành tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình, chính thức hoạt động theo tỉnh mới từ ngày 01 tháng 04 năm 1992. Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ VIII [tháng 8/1992], Đại hội Đảng bộ huyện Xuân Thủy lần thứ XI đề ra 7 mục tiêu là: Lương thực thực phẩm; khai thác tiềm năng kinh tế biển; thu chi ngân sách tài chính, dân số xã hội; quy hoạch nông thôn mới; an ninh Quốc phòng; xây dựng tổ chức Đảng chính quyền, đoàn thể quần chúng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ thị trấn tổ chức Đại hội lần thứ IV[ 5/1994-12/1996], Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng ủy gồm 11 đồng chí, các dồng chí Ban Thường vụ Đảng ủy gồm 11 đồng chí, các đồng chí Ban thường vụ Đảng ủy được tái cử:

- Đồng chí Nguyễn Văn Minh :Bí thư Đảng ủy.

- Đồng chí Doãn Đình Đan: Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy

- Đồng chí Phan Văn Đức: Phó Bí thư -Chủ tịch UBND Thị trấn.

Để thực hiện quản lý hiệu quả trong điều kiện mới, đội ngũ Ban quản lý HTX, đội sản xuất được sắp xếp lại, tinh giảm. Ban quản lý HTX chỉ còn 3 người: 1 Chủ nhiệm, 1 Phó Chủ nhiệm, 1 Kế toán. Các đội trưởng sản xuất, kiêm khu trưởng, chịu trách nhiệm toàn bộ công việc của đội sản xuất công việc của khu dân cư. Hoạt động của HTX đã có nhiều cố gắng cải tiến trong chỉ đạo điều hành thời vụ sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật, dịch vụ: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tưới tiêu nước... ngày càng hiệu quả.

Công tác xây dựng chính quyền được Đảng bộ quan tâm, đồng chí Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND Thị trấn. Hoạt động của Hội đồng nhân dân đã cơ bản làm tốt 2 chức năng: quyết định và giám sát. Các chủ trương, nghị quyết của cấp trên, của Đảng bộ được thể chế hóa, áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể địa phương đạt hiệu quả. Các cán bộ ban ngành đều được bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, từng bước được chuẩn hóa. Năm 1992, thực hiện Nghị định 46CP của Chính phủ, Thị trấn đã sắp sếp lại đội ngũ cán bộ theo chức danh, đảm bảo chuyên môn hóa một số chức danh trong Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và các ban ngành.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thị trấn từ những năm 1986 đến 1992 đã tiến hành hai Đại hội. Đại hội lần thứ nhất[ 1986-1988], Đại hội lần thứ hai[ 1989-1992]. Cả hai nhiệm kỳ đại hội ông Phạm Thái Hòa được bầu làm Chủ tịch Mặt trận tổ quốc thị trấn.

Từ năm 1993 đến 1997, Mặt trận thị trấn tiến hành Đại hội lần thứ ba và tư. Đại hội lần thứ ba [1992-1994], Đại hội lần thứ IV [1994-1997]. Cả 2 nhiệm kì ông Trần Quang Huy được bầu làm Chủ tịch Mặt trận tổ quốc thị trấn. Mặt trận đã tích cực động viên các tầng lớp nhân dân đoàn kết, thực hiện tốt các chính sách, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào nhân đạo, từ thiện, tham gia câu lạc bộ Người cao tuổi, Hội bảo thọ và thực hiện quy chế nếp sống văn hóa mới ở khu dân cư.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thị trấn từ năm 1986 đến 1994 đã tiến hành hai nhiệm kì đại hội. Đại hội lần thứ nhất[ 1986-1989] đồng chí Trần Ngọc Thanh được bầu làm Bí thư Đoàn. Đại hội lần thứ hai[ 1990- 1994] đồng chí Tô Xuân Thành được bầu làm Bí thư Đoàn. Trong hai nhiệm kì đoàn đã tiến hành xây dựng, kiện toàn tổ chức chi phân đoàn và tổ chức Đội thiếu niên Tiền Phong. Đồng thời phát động phong trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" tạo bầu không khí sôi nổi trong thanh niên, với vai trò nòng cốt, xung kích trong mọi hoạt động tại địa phương.

Hội Liên hiệp phụ nữ thị trấn từ năm 1968-1990 đã tiến hành 2 nhiệm kì đại hội. Đại hội lần thứ nhất [ 1986-1988] và Đại hội lần thứ hai[ 1989-1990]. Cả hai nhiệm kì đồng chí Phùng Thị Hường được bầu làm Chủ tịch hội. Hội đã triển khai mạnh mẽ hai cuộc vận động và 5 chương trình do TW hội phát động. Thực hiện kế hoạch hóa gia đình, nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Tích cực tham gia phong trào lao động sản xuất, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, phong trào nhân đạo, từ thiện khác... Phong trào phụ nữ thị trấn luôn được xếp ở tốp dẫn đầu phong trào phụ nữ trong huyện.

Hội nông dân tập thể, năm 1988 đổi thành Hội Nông dân Việt Nam. Từ năm 1968 đến 1992 đã tiến hành 2 nhiệm kì đại hội. Đại hội làn thứ nhất[ 1986-1989] đồng chí Doãn Trung Toan được bầu làm chủ tịch hội. Đại hội lần thứ hai [1990-1992] đồng chí Phạm Hữu Thành được bầu làm Chủ tịch hội. Nội dung hoạt động của hội tập rung kiện toàn tổ chức, động viên hội viên đoàn kết, giúp nhau trong lao động sản xuất, hăng hái nhận khoán, vượt khoán, với phong trào V.A.C giúp nhau làm giàu chính đáng, góp phần làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Ngày 06 tháng 12 năm 1989, Bộ Chính trị Ban Chấp hành TW Đảng quyết định thành lập Hội cựu chiến binh Giao Thủy. Ngày 20/07/1990, Đảng bộ thị trấn quyết định thành lập hội cựu chiến binh thị trấn, gồm 67 hội viên và chỉ định Ban chấp hành lâm thời gồm 3 đồng chí do trung tá Phạm Viết Nhâm làm chủ tịch hội. Đồng thời tiến hành xây dựng cơ sở tổ chức Hội ở từng khu dân cư.

3. Phát huy thành quả đã đạt được, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thị trấn tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới sâu rộng, toàn diện hơn[1996-2000].

Sau 10 năm thực hiện đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,mặc dù những năm cuối cùng của thế kỷ XX, tình hình chính trị kinh tế thế giới diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch núp dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo tìm mọi thủ đoạn can thiệp trắng trợn chống phá phong trào cách mạng tiến bộ thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhưng đất nước ta vẫn vững vàng và đạt được những thành tựu đáng khích lệ bước đầu trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó, năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định tiếp tục đường lối đổi mới toàn diện sâu rộng với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện nghị quyết kì họp thứ 9 Quốc hội[ khóa XI] ngày 16/11/1996, tỉnh Nam Hà tách thành 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam. Ngày 26/2/1997, Chính phủ ra Nghị định số 19/CP, tách huyện Xuân Thủy thành 2 huyện Giao Thủy và Xuân Trường.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Giao Thủy, Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ V[ 1996 -2000]. Đồng chí Nguyễn Văn Minh được tái cử Bí thư Đảng ủy; đồng chí Doãn Đình Đan được tái cử Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; đồng chí Trần Văn Hải được bầu Phó Bí thư-Chủ tịch UBND Thị trấn [[141]] . Đại hội đã kiểm điểm những công việc đã làm được và chưa làm được đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ: Tập trung phát triển kinh tế-xã hội, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, phát triển đa dạng các ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, phấn đấu tăng tổng giá trị sản phẩm, tăng giá trị thu nhập ngày công cho người lao động. HTX nông nghiệp không ngừng được củng cố hướng dẫn xã viên áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới cơ cấu mùa vụ, tận dụng và mở rộng diện tích cấy các chân mạ, chỉ đạo chặt chẽ việc quy vùng thâm canh, củng cố hệ thống thủy lợi, sông cấp 2 và cấp 3 đảm bảo tưới tiêu hợp lý, không để tình trạng nắng, hạn xảy ra. Nhờ đó năng suất lúa liên tục tăng trên 100 tạ/ha, sản lượng lương thực thị trấn đạt 740 tấn/năm, bình quân lương thực đầu người 135kg/năm. Gía trị sản xuất đạt khoảng 70 triệu đòng/ha. Các cây rau mầu: lạc, vừng, đậu tương, khoai tây cũng được phát triển ở một số hộ, nhân dân còn tích cực cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả và cây cảnh. Sản xuất chăn nuôi có điểu kiện phát triển chủ yếu là gia đình với quy mô nhỏ. Thị trấn có 15 trang trại nuôi từ 50 đầu lợn trở lên. Nhiều gia đình có thu nhập cao, đời sống nhân dân được cải thiện.

Thời tiết những năm từ 1996 đến 2000 nhìn chung không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Cơn bão số 2 [ngày 23/7/1996] và các đợt rét đậm, mưa dông ảnh hưởng lớn tới sản xuất. Tiếp đó các năm 1997-2000, thiên tai hạn hán sâu bệnh liên tục phá hoại mùa màng. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân khắc phục hậu quả với những cố gắng vượt bậc và sự gắn bó với đồng ruộng của bà con nông dân, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhờ đó tăng năng suất, sản lượng lúa các năm vẫn đạt kế hoạch đề ra 10 tấn/ha. Một số cây rau màu vụ đông như ngô, đậu, vừng, lạc... tại gia đình cho thu hoạch khá.

Để phát triển kinh tế ngoài việc sản xuất nông nghiệp, nhiều hộ dân đã đầu tư mua sắm máy móc, cơ khí gò, hàn, máy cày, tuốt lúa, xe vận tải, giết mổ, hàng ăn uống và các dịch vụ điện, phân bón, thuốc trừ sâu... đa ngành nghề bước đầu phát triển góp phần làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội và thu nhập của người dân.

Trong công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị tư tưởng được tăng cường. Bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể từng bước được củng cố, chế độ sinh hoạt định kì hàng tháng được duy trì đều đặn, nội dung hình thức sinh hoạt được cải tiến, tinh thần đấu tranh phê bình, tự phe bình được nâng lên. Đảng bộ đã tổ chức Đại hội giữa nhiệm kì[ khóa V] đẻ thảo luận đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII và Đại hội đại biểu của tỉnh và huyện. Đồng thời kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ nửa đầu nhiệm kì và định hướng, giải pháp hoàn thành các chỉ tiêu đến hết nhiệm kì.

Mặt trận Tổ quốc thị trấn từ 1992 đến 1997 tiến hành 2 nhiệm kì đại hội. Đại hội lần thứ III[ 1992-1994], Đại hội lần thứ IV[ 1995-1997][[142]]. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, đề ra phương hướng hoạt động trong toàn khóa là nòng cốt trong việc truyên truyền, động viên nhân dân thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của Đảng bộ, chính quyền là thành viên quan trọng tham gia hòa giải những bất hòa ở khu dân cư, thực hiện việc hiệp thương giới thiệu vận động thực hiện nghị quyết của Đảng ủy, HĐND; phối hợp cùng các đoàn thể động viên các tầng lớp nhân dân thi đua đẩy mạnh sản xuất; thực hiện các phong trào uống nước nhớ nguồn, nhân đạo từ thiện, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, phong trào xóa nhà tạm. Tính đến cuối năm 2000 nhiều nhà tạm đã được xóa bỏ.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thị trấn đã tiến hành Đại hội lần thứ IV nhiệm kì[ 1996-2001]. Đồng chí Phạm Văn Đức được bầu là Bí thư, đồng chí Doãn Công Kỳ Phó bí thư Ban chấp hành thị đoàn. Đội ngũ cán bộ chi, phân Đoàn luôn được duy trì ổn định, thường xuyên đổi mới nội dung công tác. Đoàn đã đi sâu tuyên truyền, phát động phong trào Tuổi trẻ Việt Nam tiến bước dưới cờ Đảng và "Tuổi trẻ Việt Nam học tập nêu gương chiến đấu dũng cảm của Lý Tự Trọng", sống đẹp sống có ích với phong trào lập thân lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, như đóng góp xây dựng xây dựng công trình thanh niên, dựng tượng đài Lý Tự Trọng trên đảo Bạch Long Vĩ được thanh niên hưởng ứng sôi nổi. Đoàn cũng đã thường xuyên tổ chức cho cán bộ đoàn viên đi thăm quan, du lịch về nguồn. Các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao bóng chuyền, bóng đá mini thi đấu giao lưu sôi nổi. Tham gia nhiều công trình do huyện Đoàn phát động như công trình đào đắp cống Đại đồng [1997], công trình xử lý cống Thanh niên tết Mậu Dần [1998], công trình trồng tre chắn sóng sông Hồng [1999] được Đoàn phát động và đạt kết quả cao.

Hội LHPN Thị trấn tiến hành Đại hội lần thứ V [1996-2001] do đồng chí Phùng Thị Hường làm Chủ tịch Hội. Công tác tổ chức xây dựng các chi hội các thôn xóm, tổ dân phố được kiện toàn, các BCH chi hội mới, hoạt động thường xuyên, có chất lượng. Phong trào nuôi con khỏe, dạy con ngoan, xây dựng gia đình văn hóa, hòa thuận, hạnh phúc, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con được phát động sâu rộng sôi nổi. Nhiều chị em phụ nữ có chồng đi bộ đội, làm ăn xa, vẫn phát huy truyền thống "3 đảm đang" [[143]] trong thời kì chiến tranh chỗng mỹ cứu nước trước đây vẫn gánh vác làm tốt mọi công việc gia đình, nuôi dạy con cái và tham gia công tác xã hội.

Hội Nông dân Hội Nông dân Thị trấn tổ chức Đại hội lần thứ IV [1997-2002]. Đại hội thông qua báo cáo chương trình hành động toàn khóa và bầu Ban chấp hành Hội, đồng chí Trần Ngọc Thanh được cử làm Chủ tịch hội. Cùng với việc kiện toàn tổ chức, hội thường xuyên tuyên truyền giáo dục đường lối, chính sách, pháp luật cho hội viên; phát động phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, làm giầu chính đáng, xây dựng gia đình văn hóa mới, góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Hội Cựu chiến binh thị trấn tiến hành tổ chức Đại hội lần thứ III[[144]] [1996-2000] vào ngày 28/03/1996 với 115 đại biểu tham dự. Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 8 đồng chí và cử đồng chí Thượng tá Phan Văn Thìn Chủ tịch hội. Hoạt động của hội tiếp tục phát huy bản chất anh bộ đội Cụ Hồ, cùng với hệ thống chính trị góp phần chống "diễn biến hòa bình" bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn thể, góp sức xây dựng công cuộc đổi mới tại địa phương đồng thời củng cố tổ chức hội, xây dựng quỹ hội và giúp nhau trong cuộc sống đời thường.

Năm 1994, Hội Bảo thọ Thị trấn sau đổi tên là Hội Người cao tuổi, có 7 chi hội và 450 hội viên. Năm 1995, Hội tiến hành Đại hội lần thứ I, bầu 8 cụ vào Ban Chấp hành. Cụ Phùng Thanh Quang được cử làm Chủ tịch hội. Hoạt động của Hội tập trung chủ yếu vào các phong trào thi đua tuổi cao gương sáng, ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền, hiến kế hiến công xây dựng gia đình hòa thuận hạnh phúc, xóm làng văn hóa...

Trong nhiệm kì này, một khó khăn bao trùm là sau khi tái lập huyện Giao Thủy, kể từ tháng 5/1998, tình hình khiếu tố của công dân phát sinh và diễn biến ngày càng phức tạp. Bắt đầu từ một số xã viên HTX 17, 18 Giao An khiếu tố về kinh tế tài chính chi thu cuả đội và HTX và thực hiện chính sách di dân đi vùng kinh tế mới, thiếu công khai minh bạch. Do tránh né giải quyết vòng vo dẫn đến bức xúc trong nhân dân, nhanh chóng lan ra nhiều xã, trong đó có thị trấn[ năm 1998 có 5 xã, 1999 thêm 7 xã đến năm 2000 có 19/22 xã]. Nội dung khiếu tố chủ yếu là quản lí kinh tế: đất đai, xây dựng có bản "điện, đường, trường, trạm"; thu tăng thuế và các khoản đóng góp của nhân dân[[145]] . Tình hình khiếu kiện ngày càng quyết liệt kéo dài, khôn lường.

Trong 15 năm qua 1986-2000, Đảng bộ và nhân dân Thị trấn đã đoàn kết, phát huy vai trò lãnh đạo, chủ động đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp, có trọng tâm trọng điểm nhờ đó đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kinh tế có bước tăng trưởng đời sống nhân dân được cải thiện về ăn, ăn ở, đi lại được nâng lên rõ rệt. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng có nhiều tiến bộ. Nhiều năm Đảng bộ được xếp loại trong sạch vững mạnh, chính quyền đoàn thể xếp loại khá, tiên tiến. Bộ mặt Thị trấn ngày càng đổi mới. Những kết quả đạt được trong năm cuối cùng của thế kỷ XX là một sự cố gắng lớn, là nền tảng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thị trấn bước vào thế kỷ XXI với đầy tương lai hứa hẹn.

4. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân Thị trấn tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn.

Bước sang thiên niên kỷ mới, mặc dù chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn ra sức chống phá, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền khiến tình hình từng nơi, từng lúc hết sức căng thẳng, phức tạp; song hòa bình, hợp tác và phát triển vấn là xu thế chủ đạo. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thoát khỏi suy thoái. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định. Quốc phòng an ninh được tăng cường, giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện, vị trí và uy tín của đất nước được nâng cao trên trường quốc tế.

Ngày 19/4/2001, Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp, đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cơ bản được hình thành . Đại hội cũng đề ra phương hướng cụ thể kế hoạch 5 năm 2001-2005 với mục tiêu là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp đó, hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX đã cụ thể hóa và đề ra các chính sách quan trọng để phát triển kinh tế xã hội[[146]]. Các chủ trương, chính sách đã mở đường cho nền kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là chính sách đất đai. Nghị quyết TW chỉ rõ: khuyến khích và tạo điều kiện dồn điền đổi thửa, tập trung ruộng đất theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, mở mang ngành nghề. Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp tác xã nông nghiệp quản lý kinh doanh.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ Thị trấn tiến hành Đại hội lần thứ VI [2001-2005] nhầm đánh giá tình hình mọi mặt đã làm được và chưa làm được, đề ra phương hướng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, đảm bảo vững chắc chỉ tiêu lương thực, thực phẩm, củng cố hoàn thiện cơ sở hạ tầng, củng cố kiện toàn hệ thống chính trị vững chắc; giữ vững an ninh quốc phòng; nâng cao đời sống vật chất tinh thần nhân dân. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng ủy gồm 11 đồng chí, các đòng chí được tái cử giữ trọng trách: Nguyễn Văn Minh Bí thư; Doãn Đình Đan Phó Bí thư Thường trực; Trần Văn Hải Phó Bí thư-Chủ tịch UBND Thị trấn.

Thực hiện mục tiêu trên, Đảng bộ xác định trước mắt nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất quan trọng trong phát triển kinh tế và đã tập trung cao độ sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, áp dụng khoa học kĩ thuật vào thâm canh tăng năng suất cây trồng vật nuôi. Nhờ đó mặc dù thời tiết thiên tai hạn hán, sâu bệnh thưởng xảy ra[[147]] , tình hình nông thôn không ổn định... Nhưng sản xuất nông nghiệp qua các năm vẫn giành thắng lợi trên cả 3 mặt: diện tích, năng suất và sản lượng. Chỉ tính đến năm 2005, năng suất đạt 100 tạ/ha, sản lượng đạt 740 tấn/năm, bình quân lương thực đầu người 135kg/năm, giá trị thu nhập đạt 70 triệu đồng/ha. Các cây rau mầu vụ đông: lạc, vừng, đậu tương, bầu, bí... cũng phát triển khá, chủ yếu là hộ gia đình, ngoài ra một số gia đình tích cực cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả, cây cảnh có thu nhập cao [[148]] Năng suất cây lương thực tăng tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển, chủ yếu là chăn nuôi taị gia đình với quy mô nhỏ vài ba đầu lợn, chỉ có 15 trang trại có từ 30 đến trên dưới 100 con.

Năm 2001, chợ mới Thị trấn được xây dựng, thay thế hai chợ Hoành Đông và Hoành Nhị cũ với diện tích 6.400 m2, gồm 1 đình chợ 450 m2, một dãy kiốt 240 m2 và 4 dãy lán lợp proximang. Chợ họp cả sáng và chiều, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa của nhân dân thị trấn và các xã lân cận. Nhằm tạo điều kiện khuyến khích các hộ đầu tư phát triển các ngành nghề truyền thống và nghề mới, nhiều người đầu tư máy xay xát, máy cày nhỏ, xe đẩy, xe khách, thêu ren, đan móc sợi, làm mi giả... Hằng trăm cửa hàng dịch vụ bán buôn, bán lẻ mọc lên rất đa dạng, từ hàng công nghiệp máy móc, đồ gia dụng. Các mặt hàng hóa khắp nơi đổ về, từ hàng tươi sống, rau quả các loại diễn ra sôi nổi tấp nập đã góp phần giải quyết công ăn việc làm lúc nông nhàn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Tổng thu nhập từ ngành nghề dịch vụ tại địa phương lên tới hàng chục tỷ đồng mỗi năm...

Đi đôi với phát triển kinh tế, các mặt khác cũng được đẩy mạnh.

Hệ thống lưới điện được xây dựng gồm 5 trạm biến áp với tổng công suất 1.690 KVA được phân bố đều ở các khu dân cư, do chi nhánh điện Giao Thủy quản lý. Ngoài ra còn phải xây dựng thêm 3 trạm biến áp để phục vụ khu công nghiệp và chế biến rác thải.

Lĩnh vực nước sạch vệ sinh môi trường, Nhà máy nước được xây dựng nơi trung tâm, cung cấp cho 2000 hộ dân và các cơ quan của huyện đóng trên địa bàn, tỷ lệ hộ dân được dùng nước sạch chiếm 90% số hộ.

Ba công trình vệ sinh đạt chuẩn: Phòng tắm, phòng vệ sinh, bể nước chiếm 80% số hộ.

Vấn đề rác thải có tổ vệ sinh gồm 11 người làm nhiệm vụ thu gọm tại các khu dân cư, đường phố, nơi công cộng về bãi rác để xử lý và chôn lấp.Vấn đề rác thải tuy có cố gắng thu gom về nơi quy định, xử lý chưa triệt để kịp thời, mưa nắng mùi hôi thối bốc lên khó chịu, ảnh hưởng đến môi trường. Mặt khác, cũng còn do ý thức của người dân, rác thải súc vật chết vất bừa bãi nơi công cộng, bờ ao, sông ngòi, làm mất mỹ quan môi trường.

Cơ sở vật chất văn hóa được xây dựng trùng tu; nhà văn hóa khu phố, với phương châm xã hội hóa, đến nay trừ khu phố 2 đã có 7/8 khu, do nhân dân đóng góp, sự hỗ trợ của các công ty đóng trên địa bàn và con em khu phố nơi đó công tác và làm ăn nơi xa gửi tiền về đóng góp xây dựng khang trang đẹp đẽ, phục vụ cho hoạt động cộng đồng, họp hành, vui chơi giải trí, văn hóa - văn nghệ. Một số khu đã hình thành những tổ văn nghệ không chuyên, biểu diễn những tiết mục tự biên tự diễn nhân các ngày kỷ niệm như khu 1, 3, 4a Nhưng thiết chế văn hóa ở các nhà văn hóa còn thiếu thốn, nội dung hoạt động còn nghèo nàn, khô cứng.

Khu thể dục thể thao bố trí liền kề với Nhà văn hóa như sân bóng chuyền, cầu lông, bóng bàn Phong trào rèn luyện sức khỏe của mọi lứa tuổi, đi bộ sáng chiều, đánh cầu lông, tập dưỡng sinh đã nhen nhóm ở một số khu phố nhưng thiếu sự hướng dẫn và chỉ đạo nên phong trào phát triển không bền vững. Ngoài ra, trên địa bàn còn có cơ sở tôn giáo tín ngưỡng Đền Chúa Diêm Điền, Hoành Đông, Hoành Nhị đều là di tích lịch sử văn hóa cấp Bộ và Tỉnh, được trùng tu, tôn tạo khang trang phục vụ đời sống tín ngưỡng, tâm linh của nhân dân. còn có nhà thờ các Liệt sỹ, nhà văn hóa, thể dục thể thao của huyện góp phần cho nhân dân thị trấn được hưởng thụ văn hóa tinh thần tốt hơn.

Ngành giáo dục thị trấn có 3 trường tổng diện tích 18.486m2 gồm: Trường Mầm non: Có 2 khu, tổng diện tích 2.828m2 với 10 phòng học và 4 phòng chức năng. Trường Tiểu học: Tổng diện tích 7.000m2 với 17 phòng học, 5 phòng chức năng; trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, đã được công nhận là trường Xanh - Sạch - Đẹp. Phấn đấu đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 vào năm 2012. Trường Trung học cơ sở: Tổng diện tích 8.500m2, một nhà học 2 tầng với 12 phòng học, một nhà hiệu bộ, có 6 phòng chức năng và các thiết bị dạy và học, với nguồn kinh phí đầu tư xây dựng hơn 10 tỷ đồng [[149]].

Nhìn chung các trường với vị trí hợp lý, phù hợp với các khu dân cư, diện tích đảm bảo cho chuẩn hóa về cơ sở vật chất, trnag thiết bị đồ dùng học tập, đội ngũ giáo viên các trường đảm bảo về số lượng và chất lượng[[150]], có trình độ chuyên môn theo hướng chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục được nâng cao, luôn giữ ở tốp đầu trong huyện. Tỷ lệ tốt nghiệp THCS hàng năm đạt từ 95% trở lên. Ba trường luôn đạt tiên tiến và tiên tiến xuất sắc.

Trạm y tế thị trấn được nâng cấp, xây dựng khang trang với diện tích 500m2, có nhà tầng kiên cố 10 phòng gồm các phòng chức năng, lưu bệnh nhân. Đội ngũ cán bộ, bác sỹ nhân viên có chuyên môn, nhiệt tình phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, khám sức khỏe định kỳ cho học sinh các trường, cấp phát thuốc tại nhà cho bệnh nhân phong, tâm thần. Số người tham gia bảo hiểm y tế là 2.760 người bằng 40% dân số thị trấn. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên trung bình 5 năm là 0,88% giảm 0,07% so với trung bình 5 năm trước 2001-2005 là 0,05%. Kết quả trong những năm qua, các chỉ tiêu về y tế đều hoàn thành 100%, đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2007.

Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng địa phương, Đảng bộ tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, thường xuyên luyện tập, hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu huấn luyện dân quân và dự bị động viên theo chỉ lệnh của cấp trên. Các đợt tham gia bắn đạn thật đều đạt kết quả cao. Ban Chỉ huy Quân sự Thị trấn [[151]] đã tổ chức diễn tập chiến đấu trị an theo phương án tại địa phương. Lực lượng dân quân cơ động và tổ chức dân quân trực chiến luôn xung kích đi đầu giúp dân chống bão, khắc phục các hậu quả thiên tai . Công tác khám tuyển và gọi thanh niên nhập ngũ đều hoàn thành 100% chỉ tiêu. Năm 2005, Ban Chỉ huy quân sự đã kết hợp với Ban thương binh xã hội, thực hiện Quyết định 290QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ đối với người có công tham gia kháng chiến chống Mỹ và hoàn thành chi trả trợ cấp một lần đối với quân nhân tham gia chống Pháp, theo Quyết định 47QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Tình hình an ninh nông thôn trong huyện kể từ thời điểm 2001-2002 diễn biến phức tạp, căng thẳng, một số người ở các xã kéo lên gây rối trụ sở chính quyền huyện, nhiều đoàn khiếu kiện đông người kéo lên tỉnh, trung ương. Trước tình hình đó, thực hiện Chỉ thị 21CT/TW của Bộ Chính trị TW Đảng, Chỉ thị 11CT/TW của Tỉnh ủy Nam Định, giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện, đảm bảo trật tự xã hội anh ninh nông thôn. Riêng thị trấn, đơn thư khiếu tố cũng là xoay quanh nhũng sai phạm về quản lý đất đai, về quản lý kinh tế, tài chính ngân sách, thu chi tài chính nhà máy nước; trong xây dựng chợ mới lãng phí, thất thoát tiền của, thiếu công khai minh bạch, gây bức xúc trong nhân dân.

Chỉ tính về quản lý đất đai, theo kết luận thanh tra số 03/KL ngày 12/06/2001 của Đoàn thanh tra tỉnh Nam Định[[152]] , Thị trấn Ngô Đồng đã có những sai phạm sau: "Đã lập danh sách giao đất không đúng thực tế cho 110 hộ, trình UBND tỉnh quyết định tại 2 Quyết định 1291 và 730; nên đã giao đất sai tên so với quy định 84 hộ. UBND thị trấn đã không căn cứ vào tiêu chuẩn của một hộ được giao đất ở, theo qui định của pháp luật[ là hộ cư trú tại thị trấn chưa có đất ở] mà đã tùy tiện giao đất cho bất cứ hộ nào có nhu cầu xin đất, bất luận là hộ đó đã có đất ở, hoặc là người địa phương khác. Bởi vậy trong 196 hộ dân đã thu tiền, có 33 hộ là công dân địa phương khác, cá biệt có 3 người làm ăn và sinh sống ở địa phương khác. 1 người đang sinh sống ở nước ngoài, có 4 hộ được giao 2 lô, việc làm của UBND thị trấn thực chất là bán đất. Đã giao ra ngoài vị trí quyết định 14 lô đất với diện tích 935,8m2, giao vượt diện tích ra ngoài vị trí quyết định 22 lô, diện tích 255m2 là giao đất không đúng thẩm quyền.

Về tài chính "Lập phương án giá đất thấp hơn nhiều so với giá đất địa phương. Sau khi có Quyết định của UBND tỉnh, định lại giá đất, lại thu cao hơn nhiều lần so với quyết định trên; số tiền chênh lệnh cao đó tự ý thu vào Ngân sách thị trấn để sử dụng, với số tiền 3.754.890.000đ[ trừ số đã nộp vào Kho bạc và nộp cho huyện] là sai thẩm quyền, không hợp pháp. UBND còn dùng 5 lô đất để gán nợ 100 triệu đồng tài sản mà thị trấn phải trả cho xí nghiệp CBKDLT Xuân Thủy là trái phép".

Để ổn định tình hình, với trách nhiệm người đứng đầu liên đới chịu trách nhiệm trước những sai phạm trên, đồng chí Phó bí thư Chủ tịch UBND thị trấn khóa V chuyển công tác khác; đồng chí Phó Bí thư Chủ tịch UBND thị trấn và đồng chí Phó bí thư thường trực Đảng ủy khóa VI từ nhiệm. Trước tình hình an ninh trật tự thị trấn từng bước ổn định, phát triển, Đảng bộ tiến hành chấn chỉnh kiện toàn tổ chức tổ chức Đảng ủy, chính quyền theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 [lần 2] khóa VIII, Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị đẩy mạnh cuộc vận động chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đảng bộ thị trấn khóa VI đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Hồng Kiên giữ chức Phó bí thư Thường trực Đảng ủy ; đồng chí Tô Xuân Thành giữ chức Phó bí thư Chủ tịch UBND thị trấn.

Mặt trận Tổ quốc Thị trấn, tổ chức Đại hội lần thứ VI nhiệm kỳ 2002-2007, đồng chí Phạm Công Huynh được bầu làm Chủ tịch. Mặt trận đã tiến hành kiện toàn các Ban công tác Mặt trận và các Ban thanh tra nhân dân khu phố. Phát động phong trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn hóa, khu văn hóa, gia đình văn hóa, khu dân cư 5 không[[153]] . Cùng các đoàn thể tích cực xây dựng các quỹ nhân đạo từ thiện: quỹ vì người nghèo, quỹ vì người nhiễm chất độc da cam. Năm 2005, Thị trấn được công nhận hoàn thành xóa nhà tranh vách đất; tỷ lệ hộ nghèo còn 12,6%.

Hội Cựu chiến binh thị trấn từ năm 2001 đến năm 2005 đã tiến hành 2 lần đại hội [[154]] để kiện toàn tổ chức và đề ra phương hướng nhiệm vụ. Tiếp tục phát huy bản chất "anh bộ đội Cụ Hồ, các hội viên luôn gương mẫu chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau làm kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng; tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, thực hiện giám sát các công trình kiến thiết của địa phương. Tích cực tham gia các hoạt động xây dựng Đảng chính uyền, đoàn thể; nhiều hội viên đã được tín nhiệm bầu làm bí thư chi bộ, tham gia Đảng ủy, HĐND, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển và ổn định của địa phương.

Hội Nông dân Thị trấn tiến hành địa hội lần thứ V [2002-2007], đồng chí Trần Ngọc Thanh được bầu làm Chủ tịch, hội đã tích cực kiện toàn công tác tổ chức, thu hút, phát triển hội viên, số lượng lên tới trên 800 người; động viên nông dân tham gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế. Hàng năm Hội đã kết hợp với trung tâm khuyến nông, trạm bảo vệ thực vật huyện, Hợp tác xã nông nghiệp tổ chức các lớp học chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người lao động về sản xuất giống, kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật nuôi, cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật... Hội đã đứng ra làm chủ dự án cho nông dân vay vốn sản xuất từ ngân hàng Nông nghiệp và ngân hàng Chính sách xã hội. Đồng thời động viên nông dân tham gia các hoạt động xã hội, ký giao ước thi đua phòng chống tai tệ nạn xã hội. Các hoạt động của Hội đem lại hiệu quả thiết thực, nâng cao năng lực trình độ sản xuất của người nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương.

Hội Liên hiệp phụ nữ Thị trấn đã tiến hành Đại hội lần thứ VI [2001-2005], đồng chí Phùng Thị Hường được tái cử làm Chủ tịch. Hội tiến hành phát thẻ cho hội viên, thành lập các câu lạc bộ: Phụ nữ với pháp luật, Phụ nữ không sinh con thứ 3, giúp nhau làm kinh tế, tham gia các phong trào nhân đạo, từ thiện, ngày vì người nghèo, quyên góp ủng hộ các nước bị sóng thần ở Đông Nam Á, Nhật Bản. Các hoạt động của Hội góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, được Đảng bộ và nhân dân ghi nhận.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thị trấn từ 2001-2007 tiến hành 2 kì đại hội. Đại hội lần thứ V [2001-2004], đồng chí Nguyễn Hồng Kiên được bầu làm Bí thư Đoàn, Đại hội lần thứ VI [2005-2007], bầu đồng chí Doãn Công Trường được bầu làm Bí thư Đoàn. Trong hai nhiệm kì, Đoàn đã phát động nhiều chuyên đề: Thanh niên thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo, Thanh niên tình nguyện, vì cuộc sống cộng đồng, Thanh niên xung kích bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hộiĐoàn đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức vận động, thu hút đoàn viên, thanh niên tham gia các hoạt động do Đoàn phát động, đi đầu trên các lĩnh vực lao động sản xuất, lập thân, lập nghiệp, phòng chống tệ nạn xã hội, thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, phong trào văn hóa, văn nghệ. Đoàn kết hợp với nhà trường làm tốt công tác Đoàn, đội, giáo dục thanh thiếu niên học sinh.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục và sự chỉ đạp của Ban Chấp hành Hội khuyến học huyện và Đảng ủy thị trấn, ngày 3/9/2002, Họi Khuyến học thị trấn được thành lập. Tiếp đó các chi hội Khuyến học cơ sở đựơc thành lập gồm: Trường mầm non, trường tiểu học, Trường trung học cơ sở, 8 chi hội ở khu dân cư và 12 Ban khuyến học dòng họ[[155]] . Năm 2002, Hội tiến hành đại hội lần thứ nhất [2002-2007], đồng chí Phan Văn Thìn được bầu làm Chủ tịch và đại hội lần thứ hai [2008-2012] do đồng chí Nguyễn Quang Huy làm Chủ tịch. Nội dung hoạt động của hội tập trung vào phong trào khuyến học, khuyến tài, động viên kkipj thời gương dạy tốt, học tốt nhằm góp phần nâng cao dân trí, đòa tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thu hút những người tâm huyết với sự nghiệp trồng người, làm cho cả nước trở thành xã hội học tập. Phong trào khuyến học khuyến tài tại các trường, khu dân cư, dòng họ dấy lên mạnh mẽ, hoạt động có chất lượng; với nhiều hình thức đa dạng phong phú như: xây dựng quy ước khuyến học khuyến tài, sổ vàng khuyến học, tủ sách khuyến học, xây dựng quỹ khuyến học- khuyến tài với số tiền là 80 triệu đồng. Xây dựng gia đình hiếu học là một phong trào sôi động gắn kết với cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư", đã có 108 gia đình được công nhận gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học, tiêu biểu là họ Bùi, họ Phan, họ Trần được tặng bức trướng, bằng khen của các cấp Hội Khuyến học.

Phong trào khuyến học của thị trấn được xếp vào loại khá trong huyện, được tặng 2 bức trướng, 5 kỉ niệm chương vì sự nghiệp khuyến học, nhiều bằng khen, giấy khen của chính quyền và các cấp hội.

Hội Cựu thanh niên xung phong thị trấn được thành lập năm 2004, gồm 29 hội viên, là những cán bộ, đoàn viên thanh niên địa phương đã tình nguyện gia nhập đội TNXP cứu nước. Trải qua mấy chục năm [1950-1970], phục vụ trên khắp các chiến trường chống Pháp, chống Mỹ xâm lược và chống chiến tranh biên giới do bọn diệt chủng và bành trướng gây ra, 15 đội viên bị thương tật, 3 đội viên nhiễm chất độc da cam. Hội đã tiến hành Đại hội lần thứ nhất [2004-2008] và Đại hội lần thứ hai [2009-2013], cả hai nhiệm kì đồng chí Trần Duy Hưng được bầu làm Chủ tịch. Trở về đời thường 100% hội viên đã được hưởng mọi chế độ chính sách do Nhà nước quy định, phát huy truyền thống trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; động viên giúp đỡ nhau trong cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, nghĩa tình đồng đội, nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước, các phong trào của địa phương, nhiều năm liền được Ban Chấp hành huyện hội công nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Hội Người Cao tuổi thị trấn tổ chức Đại hội lần thứ II [2000-2005] ông Phùng Thanh Quang làm Chủ tịch. Hội luôn xây dựng và phát động phong trào thi đua tuổi cao gương sáng, xây dựng ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, tích cực vận động con cháu thám gia mọi phong trào, mọi công việc tại địa phưng, nghiêm chỉnh chấp hành mọi chinh sách pháp luật nhà nước. Hằng năm, hội tổ chức mừng thọ vào dịp tết nguyên đán cho các cụ từ 70 tuổi trở lên.

Hội Chữ thập đỏ thị trấn đã tiến hành Đại hội lần thứ IV [1999-2004], do ông Phạm Công Huynh làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ V [2005-2010] do ông Phan Văn Tuyến làm Chủ tịch. Hội đã tích cực động viên hội viên tham gia các phong trào nhân đạo từ thiện, quyên góp giúp đỡ các trường hợp khó khăn, tai nạn, rủi ro, trẻ mồ côi, người già cô đơn Hoạt động thiết thực của Hội được Huyện hội đánh giá cao, được tặng nhiều bằng giấy khen và kỷ niệm chương.

Trong 5 năm 2001-2005, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, vượt mọi khó khăn trở ngại do tình hình nông thôn bất ổn, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân Thị trấn phát huy tinh thần đoàn kết, lao động sáng tạo giành thắng lợi khá toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Giữ vững thành quả đã đạt được đưa mọi mặt của thị trấn tiến lên, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Đời sống nhân dân được cải thiện, trật tự an toàn xã hội chuyển biến tốt, an ninh nông thôn được giữ vững, văn hóa, y tế, giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể có nhiều đổi mới, hoạt động có hiệu quả. Nhiều năm Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể... được công nhận trong sạch, vững mạnh.

4. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thị trấn phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, gắn liền với hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Đất nước sau 20 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tiềm lực kinh tế-xã hội nhiều mặt phát triển, đưa đất nước thoát khỏi tình trạnh suy thoái. Từ một nước nghèo chậm phát triển, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn gạo đã vươn lên không những cung cấp đủ lương thực cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn có dự trữ và xuất khẩu 7 đến 8 tấn gạo mỗi năm.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX [4/2006] đã xác định tiếp tục sự nghiệp đổi mới toàn diện và định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một nước có nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Thực hiện đường hướng trên, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Giao Thủy lần thứ XXIII đã cụ thể hóa đường hướng của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương. Đảng bộ Thị trấn tiến hành Đại hội lần thứ VII [2006-2010] đề ra phương hướng, nhiệm vụ: "chuyển dịch nền kinh tế đại phương, gắn liền với hoàn thành tiêu chí xây dựng nông thôn mới". Theo tinh thần Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành TW Đảng[ khóa X] về nông nghiệp, nông thôn và quyết định 491QĐ/TTg của Thủ tướng chính phủ về ban hành bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới, quyết định 800QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đại hội đã bầu 13 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng ủy, đồng chí Tô Xuân Thành được cử giữu chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Hồng Kiên Phó bí thư Thường trực Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Văn Hậu Phó bí thư Chủ tịch UBND thị trấn.

Sản xuất nông nghiệp với đặc thù của thị trấn, ruộng đất ít, bình quân nhân khẩu 0,5 sào ruộng, manh mún nhỏ hẹp, nằm rải rác, xen kẽ với khu dân cư nên không thể đưa cơ giới lớn vào đồng ruộng được. Ngoài phàn cày bừa, vò lúa do cơ giới nhỏ làm, còn phần lớn các khâu cấy, chăm sóc thu hoạch đều do lao động thủ công đảm nhiệm, nhưng lao động lại khan hiếm, vật tư lao động đắt đỏ, chi phí sản xuất cao, làm cho giá thành sản phẩm đội lên, hạt thóc làm ra không có lãi. Do đó một số gia đinh già cả neo đơn, bỏ ruộng cho người khác có điều kiện canh tác, làm nghĩa vụ với HTX. Trong cơ cấu lao động nông nghiệp chiếm tới 45% nhưng giá trị chỉ bằng 10% so với các ngành khác.

Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ và sự nỗ lực cố gắng của bà con nông dân, năng suất lúa qua các năm vẫn đạt cao, năm 2010 là 104,5 tạ/ha; sản lượng đạt 749,47 tấn; bình quân đầu người đạt 137kg/người/năm; giá trị canh tác đạt 70,5 triệu đồng/ha. Nhưng kết quả làm ra chủ yếu là tự sản, tự tiêu, không có sản phẩm hàng hóa.

Thị trấn trước đây không có nghề thủ công truyền thống. Nay ngành công nghiệp tiểu thủ công do Đảng bộ có định hướng đúng đã thu hút được nhiều người đến đầu tư mở xí nghiệp, công xưởng, cửa hàng, siêu thị như: xí nghiệp may xuất khẩu với hàng ngàn công nhân, xí nghiệp gạch Tuylen, xưởng đóng sửa chữa tàu; xưởng cơ khí gò hàn; xưởng sửa chữa ô tô, xe máy; xưởng chế biến gỗ, cửa hàng vật liệu xây dựng, cửa hàng xen hoa, cửa xếp trang trí nội thất; đồ gia dụng, thu hút nhiều lao động như công ty TNHH Mạnh Hải sản xuất đồ mỹ nghệ, đồ thờ, người lao động có mưc lương trung bình 2,7 triệu, cá biệt thợ giỏi tới 6 triệu đồng/tháng.

Ngành dịch vụ phát triển rất nhanh chóng, nhiều người đã mạnh dạn đầu tư vốn, lao động mở cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị kinh doanh dịch vụ, giao lưu buôn bán rất phong phú, đa dạng ngành nghề như: siêu thị Honda, khách sạn Cồn Nhất, khách sạn sông Ninh, dịch vụ như yếu phẩm, ăn uống bình dân... rải khắp từ chợ trung tâm, trên đường phố đến các khu dân cư, giải quyết việc làm cho nhiều lao động lúc nông nhàn.

Nhìn chung, sự chuyển dịch nền kinh tế trên địa bàn thị trấn đến cuối năm 2010, về cơ cấu lao động: ngành nông nghiệp 45%; ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 20%; ngành dịch vụ thương mại 35%. Về tổng giá trị sản xuất cả năm [2010] đạt 95,5 tỷ đồng; trong đó ngành nông nghiệp đạt 9,5 tỷ đồng, bằng 10%; ngành công nghiệp - TTCN đạt 19 tỷ đồng, bằng 20%; ngành dịch vụ thương mại đạt 66 tỷ đồng, bằng 70%.

Kinh tế phát triển bộ mặt thị trấn ngày một đổi mới về mọi mặt, đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Cả 3 làng cũ xưa nghèo khó, nhà tranh vách đất, mái ra đơn sơ, những người nông dân áo nâu vá đụp, quanh năm tất bật ngược xuôi để kiếm miếng ăn, bữa cơm chỉ khoai sắn độn rau. Ngày nay chỉ sau 25 năm đổi mới, những ai đi xa mỗi lần về đều thấy nhiều thay đổi, làng giờ đã là phố, những con đường nhỏ hẹp xưa kia giờ rộng rãi, bê tông, trải nhựa phẳng phiu. Nhiều nhà tầng biệt thự mọc lên trên nền ao tù nước đọng xưa, số nhà kiên cố hiện có 1.620 hộ = 90,2%; nhà bán kiên cố có 189 hộ = 9,8%; các nhà ở được xây dựng theo kiến trúc nhà truyền thống vùng đồng bằng sông Hồng. Xung quanh là những cánh đồng mầu xanh, người dân nơi đây vẫn cần mẫn ngoài đồng ruộng, sớm khuya chợ búa, nay đã có bát ăn bát để, trẻ em được học hành đàng hoàng như hằng mong ước của Bác Hồ vĩ đại. Nhiều người trở thành triệu phú, tỷ phú từ hai bên bàn tay trắng làm lên giàu có không còn là hiếm. Số hộ khá giả chiếm số đông, tỷ lệ hộ nghèo trên 10% trước đây, nay xuống còn hơn 5,4% theo tiêu chí mới, tuy còn cao nhưng là sự cố gắng lớn trong phong trào xóa đói giảm nghèo của địa phương.

Đời sống vật chất tinh thần được nâng lên, hầu hết các gia đình ít nhất cũng có một xe máy, một số gia đình đã sắm được ô tô các loại [du lịch, tắc xi, vận tải] có cả ô tô sang trọng đắt tiền. Tiện nghi sinh hoạt: Ti vi, tủ lạnh, bếp ga, điều hòa nhiệt độ.sử dụng ngày một nhiều ở từng gia đình khá giả.

Trên địa bàn thị trấn có Bưu điện nằm ở trung tâm, còn có điểm Bưu chính viễn thông và Internet phục vụ, đáp ứng mọi nhu cầu về thông tin của nhân dân. Nhìn lại những năm đầu 1986 - 1990 chỉ tiêu phấn đấu một máy điện thoại cố định trên100 hộ dân thì nay năm 2010 mật độ điện thoại của cả nước đạt 189 máy trên 100 dân. Nhiều nhà không những có điện thoại cố định và phổ biến là sử dụng điện thoại di động nhiều gia đình mọi thành viên đều có máy di động riêng.

Trong những năm 2009-2010 tình hình Đảng bộ lại xảy ra sự bất đồng giữa một số thành viên trong HĐND và UBND thị trấn dẫn đến nội bộ mất đoàn kết kéo dài. Xoay quanh vấn đề đất đai, chi tiêu ngân sách, chi tiêu xây dựng trụ sở, nghĩa trang... thiếu công khai minh bạch về tổ chức thuyên chuyển cán bộ[ địa chính-tài chính]. Sự chia rẽ bè phái vì lợi ích nhóm, gây ảnh hưởng xấu trong đảng bộ và nhân dân. Huyện phải cử đoàn cán bộ về thanh tra các sự việc nổi cộm; đồng thời cử đồng chí Nguyễn Thanh Doanh Phó ban Tổ chức Huyện ủy vè trực tiếp Bí thư Đảng bộ thị trấn để ổn định tình hình.

Năm 1986, Đảng bộ thị trấn được thành lập gồm 76 đảng viên, đến năm 2010 có 354 đảng viên. Số đông là cán bộ các cơ quan và quân đội hưu trí chiếm 66,38% tổng số đảng viên, sinh hoạt ở 11 Chi bộ khu dân cư và ngành Giáo dục.

Đảng bộ rất quan tâm đến công tác chính trị, tư tưởng - Thông qua cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 [lần 2]. Tiếp đó, cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 06/CT-TW ngày 07/11/2006.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ đã tiến hành quán triệt tinh thần ý nghĩa, mục đích, nội dung, yêu cầu của cuộc vận động tới tận Đảng viên. Đồng thời tiến hành đợt phê bình tự phê bình nghiêm túc, liên hệ kiểm điểm sâu sắc tới từng cấp ủy viên và Đảng viên trên các mặt như Nghị quyết TW đã nêu, lấy đó làm nội dung kiểm điểm đó là: Tình trạng quan liêu, suy thoái biến chất của một bộ phận cán bộ, Đảng viên đang diễn ra phổ biến, tinh vi và nghiêm trọng, nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ cương kỷ luật lỏng lẻo.đang làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân.

Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình nhiều cán bộ, đảng viên vẫn vững vàng lập trường, kiên định quan điểm của Đảng, chống mọi biểu hiện sai trái, giữ gìn đạo đức, phẩm chất, lối sống trong sạch lành mạnh, gương mẫu gần gũi quần chúng, đồng chí, được mọi người quý mến. Song bên cạnh đó, vẫn còn những đảng viên thiếu ý thức rèn luyện, phai nhạt lý tưởng mơ hồ chính trị, giảm sút ý chí cách mạng; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, thậm chí còn phụ họa, bênh che bảo vệ cho những người có sai phạm, làm hư hỏng họ, buông thả lối sống, gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân, dẫn đến vi phạm những điều quy định đảng viên không được làm: Có đảng viên vi phạm Điều 2 tán phát tài liệu, truyền bá những quan điểm sai trái với quan điểm đường lối của Đảng, Pháp luật Nhà nước. Có những đảng viên vi phạm điều 4 + 5 gây bè phái chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; viết đơn thư nặc danh, mạo danh người khác gửi cấp trên vu cáo, dựng chuyện, xúc phạm danh dự phẩm chất đồng chí khác, đe dọa, trù dập, trả thù những người tố cáo, phê bình giúp đỡ mình. Có đảng viên vi phạm điều 6 quan liêu thiếu trách nhiệm, báo cáo sai sự thật, lạm quyền khi thực thi nhiệm vụ dẫn đến nội bộ địa phương xảy ra mất đoàn kết, lãng phí thất thoát tài sản. Một số đảng viên vi phạm Điều 17 về chính sách dân số Kế hoạch hóa gia đình, sinh con thứ ba ...

Để bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ hàng năm cử cán bộ, Đảng viên trong quy hoạch đi dự các lớp sơ, trung cấp chính trị, quản lý Nhà nước của huyện và tỉnh mở nhằm nâng cao trình độ chính trị, năng lực nghiệp vụ công tác, cử cán bộ dự các lớp tập huấn ngắn ngày bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng Đảng và tổ chức chính trị.

Đảng bộ đã xây dựng được quy hoạch dự nguồn cán bộ thị trấn từ 2000-2010, tầm nhìn 2020 thường xuyên kiện toàn bộ máy lãnh đạo đủ số chất lượng cán bộ dự nguồn vào các chức danh sau mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ và nhiệm kỳ HĐND-UBND thị trấn.

Công tác quản lý Đảng viên đã hoàn thành việc đối khớp hồ sơ lý lịch đảng viên với Ban tổ chức Huyện ủy trong việc quản lý hồ sơ lý lịch đảng viên theo quy định. Hoàn thành việc đổi và phát thẻ mới cho đảng viên. Hàng năm các Chi bộ cơ sở đều tiến hành kiểm điểm đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở và Đảng viên theo tiêu chí; có nhiều Chi bộ đã phấn đấu từ khá lên trong sạch vững mạnh như Chi bộ tổ dân phố 1, 2, 4a, Trung học cơ sở và Tiểu học.

Công tác phát triển Đảng viên, trong 2 nhiệm kỳ qua đã bồi dưỡng giúp đỡ tạo điều kiện cho 49 quần chúng tiên tiến rèn luyện phấn đấu trở thành đảng viên, trong số đó đã có 30 đồng chí được kết nạp vào Đảng, số đảng viên dự bị này được bồi dưỡng tiếp về lý luận chính trị cơ bản tại trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.

Hàng năm đều tiến hành trao tặng Huy hiệu 30, 40, 50,55, 60, 65 năm tuổi Đảng cho đảng viên đã khơi dựng được ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự tự hào của người đảng viên được nhận phần thưởng cao quý của Đảng, nguyện phấn đấu tu dưỡng rèn luyện xứng đáng là người đảng viên Cộng sản chân chính.

Ủy ban kiểm tra Đảng ủy, từng nhiệm kỳ được tập huấn nhiệm vụ về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, triển khai thực hiện các nhiệm vụ do điều lệ quy định. Trong nhiệm kỳ vừa qua đã giải quyết 3 đơn thư kiến nghị của Đảng viên. Tiến hành kiểm tra 5 Chi bộ và những đảng viên có dấu hiệu vi phạm, có 8 Đảng viên sai phạm trong đó có các cán bộ do Huyện ủy quản lý, do thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nội bộ mất đoàn kết ảnh hưởng xấu trong nhân dân. Huyện ủy quyết định hình thức kỷ luật, khiển trách Ban Thường vụ Đảng ủy, cảnh cáo đối với đồng chí Bí thư Đảng ủy và đồng chí Phó Bí thư Chủ tịch UBND thị, khiển trách đồng chí Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chủ tịch HĐND thị, Hình thức kỷ luật đối với Đảng viên sai phạm về kế hoạch hóa gia đình. Qua kiểm điểm và xử lý kỷ luật đảng viên có tác dụng nâng cao ý thức trách nhiệm, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, lối sống trong sạch lành mạnh tốt hơn trong cán bộ, Đảng viên.

Từ thực tế trên đây, phát huy ưu điểm, khắc phục yếu kém. Nhìn chung qua các cuộc vận động và các phòng trào tại địa phương đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; nông thôn ổn định, tình hình chính trị tư tưởng, kỷ cương kỷ luật, đoàn kết nội bộ. có bước tiến bộ. Nhờ đó, Đảng bộ nhiều năm liền đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh là niềm vinh dự tự hào của toàn Đảng bộ. Một vinh dự khác Đảng bộ cũng rất tự hào đã có những cán bộ, Đảng viên, người con của quê hương Hoành Đông, Hoành Nhị, Diêm Điền, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, đã và đang giữ những trọng trách trong nước, trong cấp ủy tỉnh và huyện. Góp phần làm rạng rỡ cho quê hương.

HĐND hoạt động đúng chức năng, thẩm quyền của tổ chức dân cử theo Luật định. Vai trò HĐND được tôn trọng và đề cao. Mọi phương hướng nhiệm vụ cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh 5 năm, hàng năm thành Nghị quyết HĐND. Sự giám sát chấp hành chính sách, Pháp luật và Nghị quyết HĐND có tiến bộ. Sự phối kết hợp giữa HĐND và UBND thực thi nhiệm vụ có hiệu quả.

Song sự giám sát đôi lúc thiếu chặt chẽ, để một vài trường hợp chính quyền vượt qua sự giám sát của HĐND gây hậu quả xấu. Việc lắng nghe giải quyết những kiến nghị và nguyện vọng của cử tri chưa đến nơi đến chốn, quần chúng đi lại nhiều lần gây bức xúc.

Ủy ban Nhân dân qua các nhiệm kỳ đều có sự đổi mới về nhân sự, kiện toàn về tổ chức. Với chức năng quản lý Nhà nước trên địa bàn thị trấn, 25 năm qua đã chỉ đạo điều hành thực thi các đề án và nhiệm vụ trọng tâm từng thời gian, tuy từng lúc có khó khăn vướng mắc đã vượt qua, phấn đấu thực hiện có hiệu quả các đề án xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế - văn hóa - xã hội: Điện, đường, trường, trạm, chợ, nhà văn hóa, trụ sở, nghĩa trang liệt sỹ.Những công trình này hoàn thành đã phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội làm thay đổi bộ mặt thị trấn ngày một đổi mới, góp phần phấn đấu xây dựng nông thôn mới đạt 11/19 tiêu chí tính đến năm 2010, phấn đấu hoàn thành cả 19 tiêu chí vào năm 2015.

Đề án cải cách hành chính đã tạo điều kiện cho hoạt động của chính quyền, ban, ngành khoa học và chính quy hơn. Việc thực hiện quy chế một cửa tiếp công dân, bước đầu giải quyết công vụ nhanh chóng đỡ phiền hà chồng chéo, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình.

Công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Pháp luật. Việc công chứng phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.

Để tỏ lòng tri ân, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa người có công, địa phương đã xây dựng nghĩa trang Liệt sỹ tọa lạc khu trung tâm thị trấn khang trang đẹp đẽ. Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối với người có công: Gia đình Liệt sỹ, thương bệnh binh, tù chính trị, thanh niên xung phong, chất độc da cam, người cao tuổi, cô đơn. Mọi tồn đọng về chính sách được giải quyết kịp thời.

Chính quyền đã kiên quyết xử lý những trường hợp gây rối trật tự bằng hình thức giáo dục, cảnh cáo có tác dụng răn đe. Những trường hợp cố tình vi phạm, có sự giúp đỡ của cấp trên, kiên quyết xử lý hành chính bằng cưỡng chế đúng pháp luật được nhân dân đồng tình.

Việc quản lý đô thị còn quá lỏng lẻo bất cập, hữu khuynh thiếu kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm lấn chiếm vỉa hè, chiếm dụng vỉa hè thành nơi bán hàng, thậm chí còn xây tường rào biến vỉa hè thành sân riêng nhà mình. làm cản trở giao thông, mất mỹ quan đô thị.

Việc ngăn chặn xử lý hàng lậu, hàng cấm thiếu kiên quyết nhất là pháo lậu dịp Tết Nguyên Đán là một thách thức đối với Pháp luật và chính quyền.

Trong những năm qua, Đảng bộ luôn quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng Đảng và bảo vệ Tổ quốc, thường xuyên giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, nâng cao cảnh giác trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Quan tâm củng cố trung đội dân quân cơ động và tổ chức dân quân trực chiến đấu pháo 12,7 ly đảm bảo số lượng, chất lượng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.

Công tác xây dựng lực lượng DQTV dự bị động viên và tham gia huấn luyện được thực hiện nghiêm túc. Đảm bảo an toàn trang thiết bị vũ khí sẵn sàng chiến đấu, hàng năm tham gia bắn đạn thật đạt 85% khá giỏi, công tác khám tuyển gọi công dân nhập ngũ đều đạt 100% yêu cầu, được đánh giá cao. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, thực hiện Nghị định 290/CP và Nghị định 142/CP của Chính phủ đối với người có công với cách mạng và các quân nhân tham gia nhập ngũ trước ngày 30/4/1975 [[156]] .

Đảng ủy, chính quyền thường xuyên chỉ đạo công tác an ninh đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục trong cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao cảnh giác với mọi âm mưu chống đối của các the lực thù địch. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và duy trì lực lượng an ninh nhân dân được củng cố. Công tác quản lý hộ khẩu quản lý đối tượng vi phạm trên địa bàn chặt chẽ, chỉ đạo giải quyết kịp thời những vụ việc xảy ra, hạn chế thấp nhất những nảy sinh mâu thuẫn trong nhân dân. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát động phong trào quần chúng tích cực tham gia phòng ngừa và trấn áp tội phạm, phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị nơi trung tâm huyện. Lực lượng an ninh từng bước được kiện toàn về số và chất lượng, phối hợp với lực lượng Công an huyện giải tỏa hành lang giao thông trục đường chính, đảm bảo an ninh trên địa bàn .

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã bám sát nhiệm vụ chính trị để tổ chức các phong trào thi đua sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân. Năm 2007, Mặt trận Tổ quốc Thị trấn đã tiến hành Đại hội lần thứ VII [2007-2013], bầu ông Trần Ngọc Hoàn là Chủ tịch. Mặt trận Tổ quốc đã tiến hành tổ chức tốt các ngày hội đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng quỹ vì người nghèo, quỹ tình nghĩa; các dòng họ xây dựng phong trào khuyến học, khuyến tài; phát động các phong trào tương thân, tương ái, giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm tốt các hoạt động tôn giáo. Ban công tác Mặt trận và Ban thanh tra nhân dân được tổ chức theo địa bàn ở 8 khu dân cư, thường xuyên tuyên truyền thực hiện các chủ trương chính sách, Pháp luật của Đảng, Nhà nước; các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quy chế dân chủ, xây dựng tổ hòa giải, gia đình văn hóa, an ninh trật tự, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, từ thiện nhân đạoPhong trào xây dựng quỹ xóa đói, giảm nghèo được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng, có sự trợ giúp của Nhà nước, sự đóng góp của nhân dân, Hội Cựu chiến binh, Hội LHPN, Hội Chữ thập đỏ Thị trấn và các nhà tài trợ, trong đó có Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam[[157]]. Thị trấn đã tiến hành xây dựng 2 nhà Đại đoàn kết tặng 2 gia đình nghèo tại khu 2 và 5A với trị giá 86 triệu; sửa chữa nhà cho 5 hộ nghèo ở khu 1, 2, 4a, 5a, trị giá là 16 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 giảm xuống còn 5,4% theo tiêu chí mới. Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng lên. Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, nhân dân địa phương và con em quê hương sinh sống ở khắp mọi miền đất nước đã đóng góp 1,5 tỷ đồng xây dựng nghĩa trang liệt sỹ mới khang trang đẹp đẽ. Hàng năm nhân các ngày kỷ niệm 27/7, tết Nguyên Đán với nguồn kinh phí của trên và địa phương, Thị trấn tổ chức tặng quà cho các đối tượng có công, số tiền từ 40 đến 60 triệu đồng. Thực hiện tinh thần Thông tư số 04 của UB MTTQ Việt Nam và Quyết định số 18 ngày 04/4/2003 của Bộ Văn hóa - Thông tin, Mặt trận đã tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng phong trào văn hóa ở khu dân cư[[158]]. Kết quả trong 15 năm [1995-2010] đã có 7/8 khu dân cư có nhà văn hóa, khu 4a được UBND tỉnh Nam Định tặng Giấy khen là khu dân cư tiên tiến, 7 khu khác được công nhận là khu dân cư hoàn thành tốt nhiệm vụ, năm 2010 có 65 gia đình được công nhận là gia đình văn hóa.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác Mặt trận trong những năm qua còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót. Công tác tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách, Pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra còn thiếu thường xuyên liên tục, phần lớn còn dừng ở Ban công tác Mặt trận khu dân cư, chưa xuống kịp thời tới nhân dân. Việc thực hiện quy chế phối hợp nhiều lúc còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp như cuộc vận động ngày vì người nghèo, phong trào toàn dân tham gia bảo đảm an toàn giao thông, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hộiHoạt động giám sát tuân thủ Pháp luật, thực thi nhiệm vụ của chính quyền, của cán bộ công chức địa phương còn mang tính hình thức.

Hoạt động của hội Cựu Chiến binh Thị trấn vừa tiến hành củng cố về tổ chức, vừa góp phần tích cực vào việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức Hội ngày một phát triển và trưởng thành, Ở thời điểm này, Hội đã có 337 hội viên. Các hội viên Cựu chiến binh luôn phát huy vai trò là những công dân gương mẫu, chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, tham gia các hoạt động kinh tế-xã hội, nhân đạo từ thiện, tuyên truyền cho thế hệ trẻ kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, đất nước, thực hiện tốt luật nghĩa vụ quân sự, sẵn sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc. Các chính sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội đã được hội tham mưu thực hiện tốt. Qua các hoạt động phong trào, nhiều chi hội ở các tổ dân phố đều là các chi hội vững mạnh, tiêu biểu như chi hội 4a với phong trào nổi bật là công tác khuyến học - khuyến tài và tự quản tốt; chi hội 5a + 5b sinh hoạt chất lượng nền nếp, làm kinh tế gia đình khá. Chi hội 6 hoạt động tình nghĩa và xây dựng quỹ hội tốt bình quân đạt 300.000 đồng/người/tháng. Có nhiều hội viên làm kinh tế gia đình giỏi, làm giàu chính đáng, thu nhập từ 50 đến 100 triệu đồng/năm, như đồng chí Đinh Văn Yên, Lều Văn Kiệm [4b]; làm cây cảnh như Phạm Ngọc Tu [khu 3]; dịch vụ khách sạn như Nguyễn Tiệp Khắc [4a] và nhiều điển hình khác làm kinh tế gia đình giỏi tại khu dân cư Các chi hội còn xây dựng quỹ tình nghĩa, làm tốt hoạt động tình nghĩa, thăm hỏi động viên nhau lúc ốm đau, khó khăn hoạn nạn, tiễn đưa khi hội viên qua đời, ủng hộ nhân dân vùng bị thiên tai, lũ lụt, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, chất độc da camvới số tiền quỹ hàng chục triệu đồng. Hoạt động của Hội đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nông thôn mới tại địa phương, nhiều năm liền được cấp trên công nhận là tổ chức mặt trận xuất sắc.

Hội nông dân Thị trấn tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục đường lối chính sách pháp luật, phát động các phong trào thiết thực như phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, phong trào xây dựng gia đình nông dân văn hóa, nông dân với quốc phòng, an ninh, xây dựng quỹ hộiHội đã thu hút 865 hội viên, sinh hoạt ở 8 Chi hội tổ dân phố, 60% số hội viên đã được phát thẻ Hội. Công tác xây dựng quỹ hội được hội viên hưởng ứng cao, tổng quỹ có 27 triệu đồng, bình quân chung là 38.000đ/hội viên, 2 chi hội có quỹ bình quân 50.000đ, 3 chi có quỹ bình quân 100.000đ/hội viên. Quỹ được sử dụng chủ yếu vào mục đích tình nghĩa như thăm hỏi hội viên lúc ốm đau, phúng viếng khi qua đời và giúp đỡ khi khó khăn, rủi ro trong cuộc sống. Năm 2007, Hội đã tiến hành Đại hội lần thứ sáu [2007-2012], bầu ông Phùng Quang Nhiễu làm Chủ tịch. Công tác tuyên truyền giáo dục tập trung vào nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ của địa phương và của Hội, gắn với phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hội đã thành lập câu lạc bộ nông dân với Pháp luật, gồm 100 thành viên, thường xuyên triển khai công tác tuyên truyền phổ biến Pháp luật và trợ giúp Pháp lý cho nông dân. Hàng năm, Hội phối hợp với phòng Tư pháp huyện tổ chức tập huấn, phổ biến Pháp luật và trợ giúp pháp lý cho các thành viên câu lạc bộ, tuyên truyền Pháp luật rộng rãi trong cán bộ, hội viên. Ngoài ra Hội còn phối hợp với Công an huyện tổ chức tuyên truyền Luật giao thông đường bộ, nâng cao ý thức chấp hành luật pháp trong cán bộ, hội viên, hạn chế các mâu thuẫn trong nội bộ khu dân cư, góp phần ổn định tình hình an ninh nông thôn. Trong phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, Hội nông dân Thị trấn đã phối hợp với các ngành hữu quan tuyên truyền vận động, hướng dẫn nông dân phát huy nội lực, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật, tích cực chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đưa giống lúa mới có giá trị kinh tế cao vào sản xuất để tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích gieo trồng; phối hợp với HTX nông nghiệp dịch vụ, trung tâm khuyến nông tỉnh và huyện tổ chức 15 lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi cho 1.500 lượt hội viên tham gia. Để phát triển ngành nghề, trong những năm qua Hội đã liên hệ với các cơ sở tiểu thủ công nghiệp như cơ khí, hàn xì, mộc.tạo nhiều việc làm cho nông dân. Công ty TNHH Mạnh Hải chuyên sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ đã thu hút hàng trăm lao động làm thường xuyên với mức lương bình quân 2,7 triệu đồng/tháng, cá biệt thợ giỏi mức lương tới 6 triệu đồng/tháng.

Hội đã phối hợp với các ban ngành tiến hành điều tra phân loại hộ giàu, nghèo, nhận ủy thác với Ngân hàng chính sách xã hội huyện cho hội viên nông dân vay với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho hội viên có vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ với tổng dư nợ là trên 4,88 tỷ đồng[[159]]. Việc quản lý và xây dựng vốn vay được thực hiện công khai, dân chủ, đúng qui định, sử dụng đúng mục đích, hiệu quả. Hàng năm các hộ vay nộp đủ gốc lãi đúng thời hạn.

Thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và cuộc vận động hội viên nông dân đăng ký thực hiện 5 tiêu chuẩn gia đình nông dân văn hóa do TW Hội nông dân phát động. Hàng năm Ban Chấp hành chỉ đạo các chi hội đăng ký, kết quả năm sau cao hơn năm trước[[160]]. Hội còn tích cực tuyên truyền vận động nông dân tham gia xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng, chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường, làm đẹp cảnh quan, đường phố, khu dân cư theo quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Các hoạt động của hội đã góp phần vào thành công bước đầu trong việc dồn điền đổi thửa, quy hoạch lại đồng ruộng, cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng[[161]] và sản xuất tập trung theo vùng, theo quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn mới Thị trấn giai đoạn 2011-2015.

Thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, Hội đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, ban, ngành, tuyên truyền cho hội viên nông dân cam kết, đăng ký thực hiện xây dựng nông thôn không có tội phạm, không có ma tủy, không có tệ nạn xã hội. Đồng thời vận động gia đình nông dân có con em độ tuổi thực hiện nghiêm Luật nghĩa vụ quân sự và mọi người tuân thủ Luật giao thông.100% cán bộ chi hội tham gia tổ hòa giải ở khu dân cư, góp phần giữ vững trật tự, an ninh nông thôn.

Nhìn chung công tác Hội và phong trào nông dân Thị trấn trong những năm qua được duy trì và phát triển trên các mặt hoạt động. Hội đã chủ động bám sát Nghị quyết, nhiệm vụ chính trị của địa phương và chương trình công tác của Hội. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung và các phong trào nông dân được triển khai đồng bộ có hiệu quả, nhất là phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo Đồng thời vận động hội viên tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Qua đó xây dựng tổ chức Hội ngày một vững mạnh[[162]].

Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác Hội nông dân Thị trấn cũng còn nhiều yếu kém, như: Công tác tuyên truyền giáo dục chưa tiến hành thường xuyên liên tục, phương pháp và hình thức tuyên truyền thiếu sinh động, tính thuyết phục chưa cao. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác Hội của cán bộ từ Thị trấn đến các chi hội chưa đồng đều, còn hạn chế về năng lực, một số cán bộ Hội chưa thật nhiệt tình với công tác Hội. Việc quản lý hội viên, việc duy trì chế độ sinh hoạt chưa được chặt chẽ, nội dung sinh hoạt ở một số chi hội còn đơn điệu, nghèo nàn, nên chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân trong giai đoạn mới. Công tác phát triển hội viên mới ở một số chi hội còn thấp, việc xây dựng quỹ hội của các chi hội chưa đồng đều, có 3 chi hội chưa lập được quỹ, chưa thu được hội phí nên chất lượng hoạt động của các chi hội này còn hạn chế.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thị trấn tiến hành đại hội lần thứ VI [2004-2007] và Đại hội lần thứ VII [2008-2012], cả hai nhiệm kì đồng chí Doãn Công Trường được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Đoàn. Thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung, thị trấn nói riêng đã ròng rã hơn 30 năm trường kì cùng quân dân cả nước chiến đấu đầy hy sinh gian khổ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, tiếp đó chống bọn diệt chủng Pôn Pốt[ Cam-pu-chia] và quân bành trướng phía Bắc gây chiến tranh ở hai đầu đất nước [[163]] . Thế hệ Đoàn thanh niên trước đây đã góp phần hoàn thành cách mạng chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Thế hệ thanh niên thị trấn ngày nay nối tiếp truyền thống cha anh "xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ trọng tâm thông qua các đợt học tập Nghị quyết Đại hổi Đảng và Đoàn các cấp, triển khai học tập thường xuyên 6 bài học lý luận chính trị giành cho đoàn viên thanh niên, phát động cuộc vận động Tuổi trẻ Việt Nam, học tập và làm theo lời Bác, tổ chức sâu rộng đợt sinh hoạt chính trị Tuổi trẻ Việt Nam tiến bước dưới cờ Đảng sống đẹp, sống có ích thu hút đoàn viên thanh niên tham gia. Việc giáo dục truyền thống triển khai thường xuyên Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, nhân các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày thành lập Đoàn, Đội. Hàng năm thanh - thiếu niên tình nguyện sửa sang thăm viếng nghĩa trang Liệt sỹ, thăm hỏi gia đình có công. Thông qua các hoạt động trên đã khơi dậy niềm tự hào về truyền thống của dân tộc và truyền thống của Đoàn trên quê hương. Đoàn thị trấn cũng tự hào có những cán bộ, đoàn viên trưởng thành tham gia Ban chấp hành huyện đoàn, có tới 6 Bí thư, 2 Phó Bí thư, 1 ủy viên Thường vụ Huyện đoàn thanh niên Giao Thủy [[164]] .

Công tác giáo dục Pháp luật, đạo đức, lối sống được triển khai, thông qua việc tuyên truyền Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn nhân gia đình, Luật giao thông, Phòng chống ma túy, HIV/AIDS. Qua đó, giáo dục ý thức, lối sống tuân thủ Pháp luật; nhờ đó Đoàn viên thanh niên trong độ tuổi đăng ký, khám tuyển, sẵn sàng nhập ngũ, hàng năm 100% số thanh niên trúng tuyển nhập ngũ lên đường đầy đủ, các hoạt động giao lưu văn nghệ, gặp mặt, tặng quà tân binh được tổ chức nhiệt tình chu đáo. Đoàn viên thanh niên ở tại địa phương tham gia dân quân tự vệ, dự bị động viên - Các hoạt động trên đã nâng cao nhận thức của Đoàn viên thanh niên với nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, góp phần xây dựng thôn xóm bình yên.

Công tác xây dựng tổ chức, nâng cao chất lượng cơ sở Đoàn, thông qua việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 [khóa X] về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và Nghị quyết Ban chấp hành TW Đoàn về Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn trọng tâm là củng cố xây dựng ở địa bàn dân cư, gắn với cuộc vận động Xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh ở 11 Chi đoàn cơ sở.

Công tác phát triển đoàn viên trong nhiệm kỳ qua, đã tổ chức tọa đàm tìm hiểu về Đoàn, đồng thời kết nạp 300 thanh niên ưu tú vào Đoàn và trao thẻ Đoàn. Công tác kiểm tra của Đoàn đã tập trung vào việc chấp hành Điều lệ Đoàn và việc thực hiện các Nghị quyết của Đoàn, đã góp phần nâng cao chất lượng cơ sở Đoàn.

Song trong cơ chế thị trường, tổ chức Đoàn thị trấn luôn biến động cả về số chất lượng như: Số lượng hàng năm kết nạp đoàn viên mối vào Đoàn bao nhiêu thì số chuyển đoàn đi nơi khác cũng tương ứng do Đoàn viên nhập ngũ, đi học các trường Trung học phổ thông, Đại học, làm ăn xa Số lượng hiện nay đang sinh hoạt tại địa phương là 70 đoàn viên, đa phần là nữ, một số con mọn lại tham công tiếc việc, mải làm ăn kinh tế gia đình, nên ít tham gia hoạt động công tác Đoàn. Nội dung, phương pháp hoạt động của Đoàn cũng chưa thật đổi mới, nên chưa thu hút được đoàn viên và thanh niên nhiệt tình tham gia.

Đoàn tham gia công tác xây dựng Đảng, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đoàn viên về Đảng cộng sản Việt Nam. Triển khai cuộc vận động Đoàn viên thanh niên phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiệm kỳ qua Đoàn đã giới thiệu 23 đoàn viên ưu tú được cử đi dự lớp tìm hiểu về Đảng, 22 trong số đó được kết nạp vào Đảng đều phát huy vai trò của người Đảng viên trong tổ chức Đoàn.

Công tác chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng và xây dựng Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh được quan tâm chỉ đạo, nội dung giáo dục phù hợp với tâm lý lứa tuổi, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập, vui chơi giải trí của thiếu nhi. Phối hợp cùng nhà trường hoạt động của Đội đã tập trung vào các nội dung: Giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống, nâng cao chất lượng học tập của đội viên, các hoạt động xã hội, nhân đạo từ thiện. Thông qua các cuộc vận động Thiếu nhi Việt Nam thi đua thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy. Phong trào Nói lời hay, làm việc tốt, phấn đấu trở thành con ngoan trò giỏi, đội viên chăm. Các hoạt động hỗ trợ học tập được duy trì có hiệu quả như: Sao điểm 10, Rèn nét chữ, luyện nết người Từ phong trào đã xuất hiện nhiều tấm gương đội viên thiếu niên nhi đồng vươn lên học tốt, trở thành con ngoan, trò giỏi đội viên tốt, cháu ngoan Bác Hồ.

Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hội LHPN Thị trấn ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh. Số lượng hội viên thu hút ngày càng đông [1.173/1.437 phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, bằng 81,6%]. Hội đã tiến hành phát thẻ cho 100% hội viên. Năm 2006, hội đã tiến hành Đại hội lần thứ VII [2006 - 2011], bầu đồng chí Phạm Thị Na làm Chủ tịch. Hoạt động của Hội tập trung vào công tác giáo dục đạo đức, phẩm chất, lối sống trách nhiệm người phụ nữ trong thời kỳ mới; tham gia xây dựng, giám sát thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới; tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển kinh tế; vận động phụ nữ xây dựng tổ ấm gia đình với nội dung "5 không, 3 sạch" do Hội LHPN Việt Nam phát động tháng 9/2009 [[165]] .

Thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và học tập gương anh hùng Liệt sỹ Hoàng Ngân, thông qua các kỳ sinh hoạt câu lạc bộ [với 1.015 người dự], hội đã lồng ghép các chuyên đề về truyền thống, vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam, về sức khỏe cộng đồng... tổ chức nhiều hình thức phong phú, sinh động, như: tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Trường Chinh; Lịch sử và những chiến công của Quân khu 3; Luật cư trú, [đã có 161 bài dự thi]; nói chuyện chuyên đề, tổ chức hái hoa dân chủ, biểu dương những tập thể, cá nhân người tốt, việc tốt, điển hình xuất sắc. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, Hội còn phát động các phong trào tiết kiệm điện, nước, thời gian, chi tiêu trong gia đình; ủng hộ nhân đạo từ thiện, xây dựng quỹ mái ấm tình thương. Hưởng ứng lời kêu gọi của TW Hội, mỗi hội viên tiết kiệm 1.000đ/năm trở lên để ủng hộ Quỹ mái ấm tình thương, trong 3 năm đã thu được trên 2,7 triệu đồng. Phát huy truyền thống thương người như thể thương thân, Hội đã quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt 4.350.000đ, [tiêu biểu như Chi hội 4a ủng hộ 75 suất quà trị giá 3.700.000đ]; vận động chị em ủng hộ 8.360.000đ cho 3 gia đình trong thị trấn mắc bệnh hiểm nghèo [[166]]

Thực hiện chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng vì sự tiến bộ của phụ nữ, Hội đã tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền theo tinh thần Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị [khóa X] về công tác Phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giới thiệu 3 cán bộ, hội viên tham gia HĐND và 2 đồng chí tham gia Đảng ủy. Hội còn thường xuyên giám sát việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em; tích cực tham gia công tác hòa giải ở cơ sở. Trong 5 năm qua Hội đã hòa giải thành công được 12 vụ [trong đó 5 vụ hôn nhân gia đình, 3 vụ bạo lực gia đình và 4 vụ tranh chấp đất đai].

Nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho chị em phụ nữ làm kinh tế, Hội LHPN Thị trấn đã ký hợp đồng ủy thác với Ngân hàng chính sách xã hội huyện, triển khai hướng dẫn cho 387 chị em vay vốn phát triển kinh tế và các hộ có học sinh, sinh viên đi học...với tổng số vốn là 4,6 tỷ đồng. Cùng với hoạt động hỗ trợ vay vốn, Hội còn phối hợp với Hội nông dân, HTX nông nghiệp tổ chức 13 lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất, chăn nuôi và kiến thức chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thu hút 1.840 lượt chị em tham gia. Thông qua đó, áp dụng công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm hay vào chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình. Điển hình là một số hộ ở chi hội 1, 2, 3, 4b, 5b và 6 đã nuôi từ 30-40 đến 100 đầu lợn trở lên, thu nhập từ 20-30 triệu đồng/năm. Nhiều chị em đã năng động mở các dịch vụ: Bách hóa tổng hợp, kinh doanh quần áo, vải vóc, may trang phục nam nữ, làm tóc, cửa hàng ăn uống, thực phẩm, giải khát, móc sợi, làm hàng xuất khẩu.... Do đa dạng ngành nghề đã tạo việc làm cho hàng trăm lao động nữ nông thôn lúc nông nhàn, làm ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu xã hội, tăng thu nhập cho gia đình. Trong phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, Hội đã duy trì được 2 nhóm tiết kiệm, giúp cho 22 chị em với số tiền là 78 triệu đồng, nhiều chị em [12 chị] có vốn sản xuất đã thoát nghèo.

Trong việc giúp nhau xây dựng tổ ấm gia đình, Hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động phụ nữ nâng cao nhận thức xây dựng gia đình theo 4 chuẩn mực No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, chăm sóc sức khỏe, sinh sản; vận động phụ nữ thực hiện tốt Pháp lệnh dân số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới. Riêng phong trào vận động phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ký cam kết không sinh con thứ ba, có 772 người đăng ký, góp phần giảm tỷ lệ sinh con thứ ba xuống 0,05%; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 11,1%; 100% trẻ em đến trường đúng độ tuổi.

Nhìn chung phong trào phụ nữ và các hoạt động của Hội LHPN Thị trấn trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, nội dung, hình thức sinh hoạt có sự đổi mới, phong phú. Nhiều hoạt động thiết thực mang đặc thù riêng của phụ nữ, được đông đảo chị em đồng tình, ủng hộ. Hàng năm, Hội LHPN Thị trấn luôn được Huyện hội đánh giá là đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, được Hội LHPN tỉnh tặng Bằng khen, UBND huyện và Hội LHPN huyện tặng Giấy khen, được Đảng bộ ghi nhận là đơn vị xuất sắc. Song, các chi hội hoạt động chưa đồng đều, chất lượng sinh hoạt của một số chi hội chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của các tầng lớp phụ nữ, chưa tập hợp được nữ thanh niên, nữ doanh nghiệp vào Hội, tỷ lệ hội viên chưa cao.

Hội người cao tuổi Thị trấn Ngô Đồng thời gian này có 8 chi hội trực thuộc. Năm 2005, Hội đã tổ chức Đại hội lần thứ III [2005-2010], bầu Ban Chấp hành gồm 9 người, ông Phùng Thanh Quang được bầu làm Chủ tịch Hội. Hội luôn xây dựng và phát động phong trào thi đua tuổi cao gương sáng, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, hiến kế, hiến công, tích cực tham gia xây dựng khu dân cư, mở mang đường sá, xây dựng các công trình phúc lợi v.v....Nhiều cụ tuổi cao song rất gương mẫu trong việc tuyên truyền vận động con cháu chấp hành Pháp luật Nhà nước. Nhiều cụ đã có công dạy dỗ con cháu thành đạt giữ nhiều cương vị chủ chốt của Đảng, chính quyền cấp huyện, tỉnh, hoặc là cán bộ cao cấp trong quân đội, công an v.v...Hội thường xuyên duy trì sinh hoạt và tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, thăm hỏi, chăm sóc sức khỏe, mừng thọ cho các cụ từ 70 tuổi trở lên và phối kết hợp với Ban thương binh xã hội làm chế độ ưu đãi cho các cụ từ tuổi 80 trở lên theo quy định của Nhà nước. Phong trào xây dựng quỹ hội được phát động và hưởng ứng cao, bình quân quỹ là 300.000 đ/1cụ. Nhiều chi hội đã có số quỹ cao như chi hội khu 4B đạt 36.000.000đ ; khu 5A đạt 38.000.000đ.

Hội chữ thập đỏ Thị trấn Ngô Đồng tổ chức Đại hội lần thứ IV [2005 2010], bầu ông Phan Văn Tuyến là Chủ tịch. Qua 20 năm hoạt động, Hội đã phát triển và trưởng thành về mọi mặt. Đến nay, Hội đã có 12 chi hội, trong đó 8 chi hội ở các khu dân cư, 3 chi hội ở 3 trường: Tiểu học, Trung học cơ sở, Mầm non và 1 chi hội tôn giáo. Ban Chấp hành có 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 uỷ viên thường trực; các uỷ viên BCH khác là các chi trưởng. Hội đã phối hợp cùng với các cơ quan liên quan tổ chức làm vệ sinh môi trường, tích cực vận động ủng hộ quỹ vì người nghèo, nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam [đioxin] với số tiền là 8.650.000 đồng. Hàng năm Hội thường tặng từ 15 đến 20 phần quà cho các gia đình nghèo. Hội đã vận động sửa chữa 2 nhà chữ thập đỏ cho 2 gia đình với số tiền khoảng 30 triệu đồng. Đến nay, Hội đã đề nghị xin được 6 xe lăn để cấp cho các đối tượng, thay thuỷ tinh thể cho 2 trường hợp miễn phí. Ngoài ra, Hội còn vận động nhân dân tham gia hiến máu nhân đạo, tham gia quyên góp ủng hộ nhân dân vùng bão lũ, thiên tai trong và ngoài nước. Hàng năm, Hội luôn được Huyện hội đánh giá và xếp loại nhất, nhì trong toàn huyện. Hội đã được TW Hội cấp bằng khen, giấy khen, nhiều hội viên được cấp kỷ niệm chương, giấy khen, bằng khen của TW hội, Tỉnh hội và Huyện hội.

*

* *

Thực hiện Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam [khóa X], Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, năm 2010 Đảng bộ Thị trấn đã tổ chức Đại hội lần thứ VIII nhiệm kỳ 2010 2015, bầu 17 đồng chí vào BCH Đảng bộ. Đồng chí Vũ Thanh Tình được bầu làm Bí thư Đảng ủy[[167]], đồng chí Nguyễn Hồng Kiên làm Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, đồng chí Phùng Thế Truyền là Phó Bí thư-Chủ tịch UBND. Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm [2010 - 2015] tập trung phát huy truyền thống cách mạng của quê hương và những kết quả đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tạo chuyển biến toàn diện trên mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, điều hành của chính quyền, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Cùng với phát triển kinh tế bền vững, chú trọng chăm lo đến các vấn đề văn hóa xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đảm bảo tốt an sinh xã hội. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, chính quyền vững mạnh, MTTQ và các đoàn thể nhân dân vững mạnh và tiên tiến xuất sắc. Đại hội cũng đề ra một số chỉ tiêu cụ thể cho các năm từ 2010 đến 2015. Những nội dung trong phương hướng nhiệm vụ trên là những cơ sở quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Ngô Đồng tiếp tục vươn lên giành được những thành tích to lớn trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo.

Trải qua 25 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn Ngô Đồng từ nhiệm kì thứ nhất đến thứ bảy [1956-2010], thời gian không dài so với lịch sử. Đảng bộ và nhân dân thị trấn đã nỗ lực vượt qua bao khó khăn thử thách. Quyết tâm phấn đấu không mệt mỏi đã giành thắng lợi bước đầu đáng khích lệ trên các lĩnh vực kinh tế- văn hóa- xã hội- an ninh quốc phòng. Làm cho bộ amwtj thị trấn ngày một đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện về ăn, mặc, ở, học hành, đi lại được nâng lên. Những thành quả trên, thị trấn đã đạt được 11/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đó là những kết quả to lớn đạt được trong những năm đầu đổi mới, đưa sự nghiệp đổi mới của Đảng trên quê hương thị trấn tiến lên mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Đây là điều kiện, là tiền để để Đảng bộ và nhân dân thị trấn Ngô Đồng viết tiếp trang sử vẻ vang mới.


KẾT LUẬN

Mấy trăm năm trải qua, với bao thăng trầm của lịch sử và sự biến đổi của tự nhiên, ba làng xã Hoành Nhị, Hoành Đông, Diêm Điền trước kia và thị trấn ngày nay. Biết bao thế hệ nối tiếp đã đổ mồ hôi công sức và cả máu xương, vật lộn với thiên nhiên, lao tâm khổ trí, khẩn điền lập lên làng xã trên mảnh đất thân yêu ngày nay.

Quá trình lịch sử đầy gian khổ đã hun đúc lên truyền thống cần cù dũng cảm trong lao động sản xuất; kiên cường đấu tranh bất khuất chống cường quyền áp bức, chống giặc ngoại xâm. Đó là nguồn mạch nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng, là phẩm giá cao đẹp, nối liền quá khứ với hiện tại của người dân thị trấn, nơi có phong trào yêu nước rất sớm. Kể từ khi Đảng ta ra đời, truyền thống đó được nhân lên gấp bội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên pho lịch sử bằng vàng. Trong vòng 15 năm kể từ khi thành lập, Đảng đã vận động tổ chức toàn dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi, giành độc lập dân tộc, đưa nhân dân ta từ thân phận người nô lệ lên vị trí người chủ nước nhà. Tiếp đến là 30 năm liên tục, Đảng lãnh đạo toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Kể từ sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến nay, Đảng cùng toàn dân hàn gắn vết thương chiến tranh, từ bỏ cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp, chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua những cơn bão tố, cuồng phong chính trị, khi Liên- Xô sụp đổ và hệ thống các nước XHCN Đông Âu tan rã, các thế lực thù định bao vây cấm vận; tiến hành đổi mới thắng lợi, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập quốc tế.

Từ thực tiễn các phong trào cách mạng tại địa phương, với những ưu- khuyết điểm của Đảng bộ và phong trào quần chúng, đã để lại cho Đảng bộ nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích.

1- Xây dựng Đảng bộ, Chi bộ vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là hạt nhân lãnh đạo mọi mặt phong trào cách mạng. Đòi hỏi Đảng bộ, từng Đảng viên phải tỏ rõ bản chất cách mạng, tính tiền phong gương mẫu của người Đảng viên Cộng sản mới đặng hoàn thành sứ mạng lịch sử giao phó.

Tôn chỉ mục đích của Đảng là: Độc lập dân tộc, dân chủ tiến lên CNXH và CNCS. Mục tiêu trước mắt là làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; ngoài ra không còn mục đích nào khác. Do đó, tổ chức Đảng mỗi Đảng viên phải tự xác định cho mình quan điểm lập trường nhất quán, dù hoàn cảnh nào, tình thế nào cũng phải vững vàng kiên định lập trường. Trong quá trình xem xét đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng trên ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, tốt hay chưa tốt là thể hiện ở vai trò hạt nhân lãnh đạo ở từng Chi bộ, trên cơ sở đoàn kết, thống nhất ý chí hành động, lấy phê bình tự phê bình giúp nhau cùng tiến bộ. Trước đây chỉ với số lượng Đảng viên ít ỏi với gần chục Đảng viên trong huyện đã lãnh đạo quần chúng vùng lên giành trọn vẹn chính quyền trong cách mạng tháng 8/1945. Cũng tại Chi bộ địa phương chỉ với 5 - 7 Đảng viên kiên trung bất khuất bám đất, bám dân nằm vùng khi quê hương bị quân thù chiếm đóng [2 năm 4 tháng] đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phục hồi cơ sở, đấu tranh với địch từ thấp đến cao, tiến lên đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng quê hương.

Ngày nay Đảng bộ thị trấn có trên 300 Đảng viên, hãy tự hỏi mình đã làm tròn trách nhiệm của người Đảng viên trước Đảng và Tổ quốc chưa? phần lớn vẫn vững vàng, trung thành với Đảng với lý tưởng Cộng sản, giữ gìn, đạo đức, phẩm chất, lối sống trong sạch lành mạnh của người Đảng viên Cộng sản chân chính, dù trên cương vị công tác nào, hoặc đã nghỉ hưu đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Song trong Đảng bộ vẫn còn có những Đảng viên yếu kém, tha hóa, buông thả, sa sút ý chí cách mạng, thiếu trung thực, cục bộ, gây bè cánh, vi phạm đạo đức, phẩm chất, lối sống trái với thuần phong mỹ tục, với phẩm giá của người Đảng viên Cộng sản, nêu gương xấu trước quần chúng. Nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và uy tín của Đảng.

Bài học thực tiễn cho thấy, dù ít Đảng viên, nội bộ đoàn kết, Đảng viên gương mẫu nêu gương tốt trên dưới đồng lòng cùng chí hướng, thì khó khăn nào cũng vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, dù ít cũng thành mạnh, hoặc ngược lại. Từ đó, đặt ra vấn đề phát triển Đảng viên phải coi trọng chất lượng quý hồ tinh hơn quý hồ đa. Đối tượng kết nạp Đảng viên phải là những quần chúng ưu tú, tiên tiến được rèn luyện và thử thách trong phong trào cách mạng ở địa phương. Chống mọi biểu hiện thi đua chạy theo thành tích, chỉ tiêu mà hạ thấp tiêu chuẩn Đảng viên. Bài học thi đua phát triển Đảng trước đây [1948-1949] vẫn còn nguyên giá trị. Vì chạy theo thành tích, chỉ tiêu đã đưa cả người thân, anh em họ hàng, bè bạn, thậm chí đưa cả phần tử xấu, cơ hội [1] vào Đảng.

2- Bất kể tình huống nào, lãnh đạo phải nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, để thực thi nhiệm vụ mới đạt hiệu quả cao.

Nắm vững quan điểm đường lối và tổ chức thực hiện tốt là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Trước hết phải có tinh thần sáng tạo, trong việc đề ra các hình thức, biện pháp thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể từng nơi, từng lúc.

Nhân cơ hội Mặt trận dân chủ Đông Dương ra đời, công khai hoạt động hợp pháp. Những hội viên cách mạng địa phương đã dùng sách báo tiến bộ tuyên truyền cách mạng trong quần chúng, nhất là tầng lớp thanh niên, học sinh. Nhân kỷ niệm ngày lao động quốc tế 1/5 còn treo cờ Đảng ở phố huyện đã gây được tiếng vang và ảnh hưởng lớn trong khu vực, khiến quân thù bối rối.

Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt Minh] ra đời dương cao ngọn cờ Đại đoàn kết mọi tầng lớp trong mặt trận, chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và bè lũ tay sai. Các tổ Việt Minh phố huyện, phố Ngô Đồng đã vận dụng nhiều hình thức tuyên truyền vận động được nhiều thân hào, thân sỹ kể cả cai đội lính cơ huyện lỵ. Đồn trưởng đồn đoan Ngô Đồng có cảm tình ngả theo cách mạng.

Năm 1949 địch đánh chiếm Giao Thủy, các làng xã vùng giáo xung quanh đã lập tề, riêng Hoành Đông địch chưa lập được. Đứng trước tình thế địch đe dọa khủng bố nếu không theo chúng lập tề chúng sẽ khủng bố, một số Đảng viên ở lại nằm vùng đã chủ trương vận động đưa một số người đứng ra lập tề để che mắt địch. Bề ngoài làm việc cho địch, bề trong là làm những việc có lợi cho ta như: Cung cấp giấy thông hành của địch cho cán bộ ta sử dụng hợp pháp trong những trường hợp bất trắc xảy ra. Bảo lãnh cho những cán bộ Đảng viên, du kích bị địch nghi ngờ bắt giam tại các nhà tù của địch.

Ban tề Hoành Nhị do địch lập lên toàn những phần tử Đảng phái phản động chúng hoạt động rất ác ôn, chống phá phong trào kháng chiến rất quyết liệt. Ta đã nhiều lần cảnh cáo, răn đe, khống chế, vô hiệu hóa hoạt động của chúng, nhiều tên đã bỏ việc hoặc trốn đi. Buộc địch phải cho bầu lại ban tề mới. Chi bộ đã khéo léo đưa người của ta vào nắm tổ chức này của địch. Từ đó cơ sở cách mạng được phục hồi và phát triển nhanh chóng.

Nhờ đó đã che được mắt địch, phục hồi và giữ vững được phong trào, từng bước đấu tranh từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế, chính trị tiến lên đấu tranh bán vũ trang, mở rộng khu du kích, góp phần giải phóng quê hương.

Song, nhận thức và vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng có lúc còn lệch lạc, gây hậu quả nghiêm trọng. Đó là sự vận dụng đường lối kháng chiến, kiến quốc một cách máy móc. Tuy địa phương từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến tháng 9/1949 vẫn là vùng tự do, nhưng thường xuyên tầu chiến địch vẫn qua lại sông Hồng uy hiếp, nhiều lần chúng đã đổ bộ lên khủng bố cướp bóc sát hại nhân dân. Nhưng lãnh đạo huyện, xã lúc đó vẫn say sưa bàn thảo Đề án Kiến thiết hương thôn đầy hấp dẫn, nào sửa sang mở rộng, đặt tên đường sá, đặt số nhà.mà xem nhẹ việc chuẩn bị phòng chống địch. Tháng 9/1949, tình hình cấp bách, chiến tranh đã cận kề, nên lúng túng bị động, khi quân địch mở rộng chiến tranh đánh chiếm 6 huyện miền Nam tỉnh, trong đó có huyện Giao Thủy. Từ lạc quan sang bi quan dao động, mất tinh thần, bật đất chạy sang Thái Bình, những người đứng đầu Chi bộ lúc đó cầu an đào nhiệm, bỏ mặc cho quân thù hoành hành, dầy xéo quê hương, gây biết bao tổn thất cho phong trào địa phương.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, tiến hành cải cách ruộng đất, nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng là đường lối đúng đắn, song áp dụng kinh nghiệm nước ngoài vào hoàn cảnh địa phương một cách máy móc, quy kết Chi bộ Đảng Cộng sản là tổ chức Quốc dân Đảng lồng vào lũng đoạn. Nhiều Đảng viên bị đấu tố, bắt bớ tra khảo, quy kết là phản động, cường bào gian ác, gây hậu quả rất nghiêm trọng trong Đảng và ngoài xã hội.

Trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, nông thôn [1960-1962] theo phương châm tiến hành trình tự từ thấp đến cao, từ tổ đổi công, tiến lên HTX bậc thấp, bậc cao. Song sự chỉ đạo nôn nóng, duy ý chí, chạy theo phong trào thi đua, bỏ qua các bước, các nguyên tắc: Dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi, bỏ qua tổ đổi công, tiến thẳng lên HTX đạt tỉ lệ tới 90% số hộ trong thời điểm đó. Khi HTX gặp khó khăn, mùa màng thất bát, thu nhập sút kém, đời sống gặp khó khăn, xã viên từng mảng xin ra HTX, đòi lại ruộng đất, công cụ đã nhập vào; phong trào HTX tan rã, phải làm lại từ đầu trong nhiều năm sau.

Trong sự nghiệp đổi mới [chủ yếu là những năm 1990-1997] việc vận hành và quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực thiếu chặt chẽ, gây thất thoát, nhất là quản lý ngân sách trong xây dựng cơ bản [điện, đường, trường, trạm]; việc quản lý đất đai thiếu minh bạch. Gần đây [từ 2008-2010] cũng xoay quanh vấn đề: Ngân sách, đất đai, tổ chức sắp xếp cán bộ, thiếu dân chủ, minh bạch. Cả hai thời điểm trên đây, đã gây bức xúc, bất bình trong nội bộ và ngoài nhân dân, dẫn đến khiếu kiện kéo dài, mất ổn định, ảnh hưởng đến mọi mặt phong trào địa phương và lòng tin trong quần chúng nhân dân.

3- Quan điểm lấy Dân làm gốc, là nguyên tắc, là nguồn gốc tạo lên sức mạnh tinh thần, vật chất của phong trào cách mạng tại địa phương.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chủ Tịch nói: phải dựa vào dân, không được xa rời dân, nếu không thế thì thất bại, khi nhân dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều; giúp ta ít thì thành công ít; giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn người còn nhấn mạnh: Khó trăm lần dân liệu cũng xong.

Đúng như những lời khẳng định của Hồ Chủ Tịch trên đây. Được minh chứng trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng 8/1945; cũng như công cuộc chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm sau đó, được quần chúng nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt, đã giành được thắng lợi trọn vẹn. Cũng như thời kỳ địch chiếm đóng địa phương [2 năm 4 tháng] chúng ra sức khủng bố ác liệt, tàn sát hết sức dã man. Nếu không được quần chúng nhân dân che chở, đùm bọc, nuôi dấu, bảo vệ cán bộ, Đảng viên, bộ đội nằm vùng, làm sao ta bám trụ được. Họ biết rằng nếu kẻ địch phát hiện được những việc làm đó thì gia đình bị tàn phá, bản thân bị tù đầy, thậm chí hy sinh cả tính mạng. Chính vì dân tin Đảng, Đảng tin dân mà có trận địa lòng dân, đã che tai bịt mắt được quân thù, bảo vệ được cơ sở phong trào cách mạng. Do đó, dựa vào dân, gắn bó với nhân dân, mãi mãi là bài học bất di, bất dịch với cách mạng Việt Nam nói chung và Đảng bộ nói riêng.

Trong phong trào xây dựng nông thôn mới: Điện, đường, trường, trạm. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, là một chủ trương phù hợp với ý Đảng lòng dân, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, đồng tình ủng hộ. Khi mở rộng, nắn thẳng đường xâm phạm vào đất đai nhà nào nhà nấy đều tự nguyện hiến đất, không đòi đền bù. Nhân dân đã đóng góp nhiều ngày công, hàng triệu đồng [thời giá lúc đó]. Nên chỉ trong thời gian ngắn những đường ngang, dong xóm lầy lội trước đây giờ đã nhựa hóa, bê tông hóa, khang trang sạch đẹp. Đường điện được kéo đến từng gia đình, bừng sáng thay cho những ngọn đòn dầu tù mù. Đúng là giao thông đi đến đâu, điện đi đến đâu.văn minh đến đó và kinh tế phát triển.

Mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Hồ Chủ tịch nói: Cán bộ không phải là quan cách mạng, mà là công bộc, là đầy tớ nhân dân, từ nhân dân mà ra. Nên phải gần dân, lắng nghe dân nói và nói cho dân nghe những điều dân cần biết. Chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng, nhân dân. Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì tránh, sẽ được dân tin, dân mến. "Dân là người đẩy thuyền, đồng thời cũng là người lật thuyền" [[168]].

4- Sự kết hợp giữa yếu tố chủ quan, khách quan song chủ quan là yếu tố chính, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng tại địa phương.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi thành quả của cách mạng tại địa phương đều bắt nguồn từ hai yếu tố nội lực và ngoại lực, song sự nỗ lực chủ quan là yếu tố quyết định chính, không ai có thể đến làm thay được. Nhưng yếu tố khách quan tác động qua lại cũng rất quan trọng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ xâm lược, cả nước đã dốc sức người, sức của vào cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ với bao hy sinh mất mát, lại được sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, bạn bè quốc tế ủng hộ; tạo thành sức mạnh to lớn để nhân dân ta chiến thắng kẻ thù, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước tiến lên CNXH.

Cũng tại địa phương thời gian địch chiếm đóng [2 năm 4 tháng] những cán bộ, Đảng viên kiên trung bất khuất bám đất bám dân nằm vùng cùng nhân dân phục hồi cơ sở, được các ban, ngành, đoàn thể cấp trên giúp sức trấn áp bọn phản động, dìu dắt lực lượng bán vũ trang tranh thủ thời cơ chiến thắng chiến dịch Hòa Bình, cùng các địa phương trong huyện mở rộng khu du kích, chống địch càn quét giữ vững phong trào cho đến ngày quê hương được giải phóng.

Trong sự nghiệp đổi mới ngày nay, hai yếu tố nội lực và ngoại lực tác động qua lại càng minh chứng rõ điều đó. Trong cơ chế quan liêu bao cấp trước đây, dựa trên cơ sở sản xuất tự cấp tự túc, tự sản tự tiêu, dẫn đến tình trạng: Bế quan tỏa cảng, cấm chợ ngăn sông, nội bất xuất, ngoại bất nhập, làm cho nền kinh tế phát triển trì trệ, hàng hóa sản xuất không lưu thông được.

Nhìn từ góc độ nền kinh tế của địa phương là nền kinh tế thuần nông chậm phát triển trước đây, nay chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN, mà chủ thể chính vẫn là những người nông dân sản xuất nông nghiệp, chân lấm tay bùn. Nay họ không thể sống và làm giàu trên 5 miếng ruộng/đầu người. Trong cuộc sống bươn trải, nhiều người đã trở thành những tiểu thương, tiểu chủ, doanh nhân có cửa hàng cửa hiệu, vốn liếng tới hàng tỷ, nhiều tỷ đồng.

Là thị trường tiềm năng đầy hấp dẫn, nhiều người từ các nơi đến đây đầu tư mở xí nghiệp, cửa hàng với nhiều ngành nghề, làm cho nền kinh tế thị trấn phát triển phong phú đang dạng: Dịch vụ - Công nghiệp TTCN - Nông nghiệp. Cộng với sự giúp đỡ đầu tư của cấp trên, các công ty, Tổng công ty, các mạnh thường quân, nhờ đó nhiều tuyến đường, cầu cống, sông ngòi, trụ sở, trường học, trạm xá, chợ búa. trên thị trấn được xây mới và nâng cấp, nhiều công trình lịch sử văn hóa được trùng tu, tôn tạo khang trang.

Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố nội lực và ngoại lực đã tạo một sinh khí mới, làm cho bộ mặt thị trấn phát triển mạnh mẽ ngày càng tốt đẹp hơn.


I. DANH SÁCH ỦY VIÊN

BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG LÂM THỜI

Từ 5/ 1986 đến 9/1986

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Túy

Bí thư Đảng ủy

2

Phan Phi Hồng

Phó Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch UBND

3

Phạm Ngọc Vượng

Đảng ủy viên - Trưởng ban Tổ chức

4

Doãn Đình Đan

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX

5

Nguyễn Thanh Chúc

Đảng ủy viên - Phó chủ tịch UBND

6

Phan Văn Tài

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng

7

Nguyễn Văn Phúc

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX mua bán

8

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội phụ nữ

II. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa I, nhiệm kỳ 10/ 1986 - 10/ 1988

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Túy

Bí thư Đảng ủy

2

Phạm Ngọc Vượng

Phó Bí thư Thường trực

3

Phan Phi Hồng

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Nguyễn Thanh Chúc

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Phan Văn Đức

Đảng ủy viên - Ủy viên Thư ký

6

Nguyễn Văn Minh

Đảng ủy viên

7

Trần Ngọc Thanh

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn thanh niên

8

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Văn phòng UBND

9

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội phụ nữ

1

Doãn Đình Đan

Đảng ủy viên

* Ghi chú: Đồng chí Doãn Đình Đan do Huyện ủy bổ nhiệm bổ sung.

Năm 1986, 1987, đồng chí Nguyễn Văn Minh là Phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp; năm 1988 là Chủ tịch UBND.

Năm 1988, đồng chí Doãn Đình Đan là Phó Chủ tịch UBND.

III. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa II, nhiệm kỳ 11/ 1988 - 8/ 1991

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Trần Quang Minh

Bí Thư Đảng ủy

2

Phạm Ngọc Vượng

Phó Bí thư Thường trực

3

Nguyễn Văn Minh

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Doãn Đình Đan

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Phan Văn Đức

Đảng ủy viên - Thư ký Văn phòng UBND

6

Trần Ngọc Thanh

Đảng ủy viên - Giao thông, thủy lợi

7

Phạm Quang Nhân

Đảng ủy viên - Phó ban Tài chính

8

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn thanh niên

9

Đinh Đức Thắng

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX Đông Sơn

1

Trần Ngọc Chiêu

Đảng ủy viên - Cán bộ địa chính

1

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội phụ nữ

1

Phùng Ngọc Thảo

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX Đông Sơn

* Ghi chú: Đồng chí Phùng Ngọc Thảo do Huyện ủy bổ nhiệm bổ sung

IV. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa III, nhiệm kỳ 9/ 1991 - 4/ 1994

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

2

Doãn Đình Đan

Phó Bí thư Thường trực

3

Phan Văn Đức

Phó Bí thư- Chủ tịch UBND

4

Phùng Quang Nhiễu

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn TN + VHTT

6

Trần Ngọc Hoàn

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng + Phó Công an

7

Trần Ngọc Chiêu

Đảng ủy viên - Văn phòng UBND

8

Phạm Ngọc Vượng

Đảng ủy viên - Thư ký HĐND

9

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội phụ nữ

V. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa IV, nhiệm kỳ 5/1994 - 12/1996

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

2

Doãn Đình Đan

Phó Bí thư Thường trực

3

Phan Văn Đức

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Phạm Ngọc Vượng

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Trần Ngọc Chiêu

Đảng ủy viên - Văn phòng UBND

6

Trần Văn Hải

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch HĐND

7

Nguyễn Văn Tâm

Đảng ủy viên - Cán bộ địa chính

8

Trần Ngọc Hoàn

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng + Phó Công an

9

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn TN + VHTT

1

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội phụ nữ

1

Phùng Thế Truyền

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX

VI. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa V, nhiệm kỳ 12/1996 - 8/2000

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

2

Doãn Đình Đan

Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy

3

Phan Văn Đức

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Nguyễn Văn Tâm

Đảng ủy viên - Cán bộ địa chính

5

Trần Văn Hải

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch HĐND

6

Trần Ngọc Hoàn

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng - Cán bộ LĐTBXH

7

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn TN + Trưởng ban Văn hóa thông tin

8

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội LHPN

9

Phùng Thế Truyền

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX

1

Phạm Ngọc Vượng

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

1

Bùi Khắc Thiệu

Đảng ủy viên - Trưởng ban Kiểm soát HTX

* Ghi chú:

Tháng 12/ 1997: Đồng chí Trần Văn Hải làm Chủ tịch UBND, đồng chí Phan Văn Đức chuyển công tác về huyện.

Tháng 12/ 1997: Đồng chí Tô Xuân Thành giữ chức Phó Chủ tịch HĐND.

VII. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa VI, nhiệm kỳ 9/2000 - 2005

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

2

Doãn Đình Đan

Phó Bí thư Thường trực

3

Trần Văn Hải

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Phùng Thế Truyền

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Phùng Thị Hường

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội LHPN

6

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch HĐND

7

Trần Ngọc Hoàn

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng

8

Bùi Khắc Thiệu

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX nông nghiệp

9

Nguyễn Văn Tâm

Đảng ủy viên - Cán bộ địa chính

1

Nguyễn Hồng Kiên

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn TN

1

Nguyễn Văn Hậu

Đảng ủy viên - Văn phòng UBND

* Ghi chú:

Tháng 4/ 2002 đồng chí Tô Xuân Thành được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực - Chủ tịch HĐND. Đồng chí Doãn Đình Đan nghỉ chế độ.

VIII. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa VII, nhiệm kỳ 2005 - 2010

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Tô Xuân Thành

Bí thư Đảng ủy

2

Nguyễn Hồng Kiên

Phó Bí thư Thường trực

3

Nguyễn Văn Hậu

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Phùng Thế Truyền

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

5

Doãn Công Kỳ

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch HĐND

6

Phạm Thị Na

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội LHPN

7

Doãn Công Trường

Đảng ủy viên - Bí thư Đoàn TN

8

Vũ Đình Dương

Đảng ủy viên - Trưởng Công an

9

Trần Ngọc Hoàn

Đảng ủy viên - Chủ tịch MTTQ

1

Doãn Đình Hải

Đảng ủy viên - Tổ trưởng tổ dân phố

1

Phan Văn Chất

Đảng ủy viên - Trưởng ban văn hóa

1

Nguyễn Ngọc Thông

Đảng ủy viên - Văn phòng HĐND - UBND

1

Bùi Khắc Thiệu

Đảng ủy viên - Chủ nhiệm HTX nông nghiệp

* Ghi chú:

Tháng 6/ 2009 - 6/ 2010: Đồng chí Nguyễn Thanh Doanh Huyện ủy viên - Phó ban Tổ chức Huyện ủy về làm Bí thư Đảng ủy. Tháng 12/2009 đồng chí Thành được bầu bổ sung làm Phó Chủ tịch UBND.

Tháng 6/ 2010: Đồng chí Phùng Thế Truyền giữ chức Chủ tịch UBND.

IX. DANH SÁCH ỦY VIÊN BCH ĐẢNG BỘ TT NGÔ ĐỒNG

Khóa VIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015

STT

Họ và tên

Chức danh

1

Vũ Thanh Tình

Bí thư Đảng ủy

2

Nguyễn Hồng Kiên

Phó Bí thư Thường trực

3

Phùng Thế Truyền

Phó Bí thư - Chủ tịch UBND

4

Doãn Công Kỳ

Ủy viên BTV- Phó Chủ tịch HĐND

5

Nguyễn Ngọc Thông

Ủy viên BTV - Phó Chủ tịch UBND

6

Phạm Thị Na

Chủ tịch Hội LHPN

7

Doãn Công Trường

Bí thư Đoàn TN

8

Nguyễn Văn Tâm

Đảng ủy viên - Địa chính xây dựng

9

Trần Ngọc Thanh

Đảng ủy viên - Trưởng Công an

1

Vũ Đình Dương

Đảng ủy viên - Thị đội trưởng

1

Bùi Khắc Thiệu

Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội Nông dân

1

Phạm Ngọc Khôi

Đảng ủy viên - Cán bộ Tư pháp

1

Nguyễn Văn Hiếu

Đảng ủy viên - Tổ trưởng tổ dân phố 4A

1

Phạm Thị Thoa

Đảng ủy viên - Bí thư chi bộ - Hiệu trưởng trường Tiểu học

1

Phan Văn Chất

Đảng ủy viên - Cán bộ VHTT

1

Nguyễn Thành Công

Đảng ủy viên - Trạm trưởng trạm cung cấp nước sạch

1

Tô Xuân Thành

Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND

DANH SÁCH

CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ, PHÓ BÍ THƯ, CHỦ TỊCH UBND THỊ TRẤN QUA CÁC THỜI KỲ

Nhiệm kỳ

Họ và tên

Chức vụ

Ghi chú

Khóa I

1986 - 1987

Nguyễn Văn Túy

Bí thư Đảng ủy

Đ/c Túy,

cán bộ huyện

tăng cường,

quê Giao Xuân

Phan Phi Hồng

PBT - Chủ tịch UBND

Phạm Ngọc Vượng

UVTV Đảng ủy

Khóa II 1988 - 1989

Trần Quang Minh

Bí thư Đảng ủy

Đ/c Minh,cán bộ huyện tăng cường,

quê Xuân Trung- XT

Phạm Ngọc Vượng

PBT Thường trực Đảng ủy

Nguyễn Văn Minh

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa III

1989 - 1991

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

Doãn Đình Đan

PBT Thường trực Đảng ủy

Phan Văn Đức

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa IV

1991 - 1996

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

Tô Xuân Thành

PBT Thường trực Đảng ủy

Phan Văn Đức

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa V

1996 - 2000

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

Doãn Đình Đan

PBT Thường trực Đảng ủy

Trần Văn Hải

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa VI

2001 - 2005

Nguyễn Văn Minh

Bí thư Đảng ủy

Doãn Đình Đan

PBT Thường trực Đảng ủy

Năm 2004 hai đ/c chuyển công tác khác

Trần Văn Hải

PBT - Chủ tịch UBND

Nguyễn Hồng Kiên

PBT Thường trực Đảng ủy

Nhận nhiệm vụ từ năm 2004

Tô Xuân Thành

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa VII

2006 - 2010

Tô Xuân Thành

Bí thư Đảng ủy

2009 chuyển công tác

Nguyễn Thanh Doanh

Bí thư Đảng ủy

Đ/c Doanh

Phó Ban TCHU

trực tiếp làm BTĐU,

quê Thị trấn Quất Lâm

Nguyễn Hồng Kiên

PBT, TT Đảng ủy,

Chủ tịch UBND

Nguyễn Văn Hậu

PBT - Chủ tịch UBND

Khóa VIII

2010-2015

Vũ Thanh Tình

Bí thư Đảng ủy

Đ/c Tình

UVTVHU trực tiếp làm Bí thư đến tháng 10/2011; sau đó đ/c Nguyễn Hồng Kiên làm Bí thư

Nguyễn Hồng Kiên

Bí thư Đảng ủy

Doãn Công Kỳ

PBT Thường trực

Phùng Thế Truyền

PBT- Chủ tịch UBND


DANH SÁCH

Cán bộ Tiền khởi nghĩa, Lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam Anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang.

********

CÁN BỘ TIỀN KHỞI NGHĨA

Nguyễn Xuân Mai

BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Phạm Thị Son Phạm Thị Gái

Phu nhân: Vũ Văn Thìn Phu nhân: Trần Văn Ninh

Nguyễn Thị Mai

Phu nhân: Vũ Văn Ngung

ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

Trung tướng: Phan Văn Vĩnh

DANH SÁCH

Cơ sở kháng chiến nuôi giấu cán bộ, bộ đội thời kỳ địch tạm chiếm

[hai năm bốn tháng: 10/1949 - 02/1952] được Nhà nước tặng Huy chương

Kháng chiến, Bằng khen của Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định

Stt

Họ và tên

Stt

Họ và tên

1

Chùa Hoành Đông

20

Chùa Diêm Điền

2

Nguyễn Thị Bạch

21

Nguyễn Ngọc Thát

3

Nguyễn Văn Năm

22

Phan Văn Phỏng

4

Nguyễn Văn Khoa

23

Nguyễn Ngọc Văn

5

Trần Văn Ngao

24

Phan Thị Hoạch

6

Trần Văn Triệu

25

Phạm Viết Cù

7

Trần Văn Phòng

26

Phan Thị Miệt

8

Nguyễn Thị Gía

27

Trần Văn Thắng

9

Phan Văn Bắc

28

Trần Ngọc Đằng

10

Trần Văn Đổ

29

Phạm Thị Đa

11

Trần Văn Lai

30

Nguyễn Ngọc Nhụ

12

Phùng Hữu Xuyến

31

Phạm Viết Lĩnh

13

Phùng Hữu Hùng

32

Phạm Công Át

14

Phùng Hữu Hãn

33

Phan Văn Chi

15

Doãn Đình Đê

34

Phan Thị Mịch

16

Doãn Đình Ngạn

35

Phan Văn Liết

17

Bùi Văn Phòng

36

Phan Văn Toại

18

Tô Xuân Long

37

Phạm Thị Chức

19

Trần Văn Thắng

38

Phan Thị Thiêm

DANH SÁCH

CÁC LIỆT SỸ QUA CÁC THỜI KỲ CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM

Stt

Họ và tên

Liệt sỹ

hy sinh thời kỳ

Stt

Họ và tên

Liệt sỹ

hy sinh thời kỳ

TỔ DÂN PHỐ 1

TỔ DÂN PHỐ 4A

1

Trần Xuân Lộc

Chống Mỹ

32

Trần Minh Đức

Chống Mỹ

2

Bùi Văn Tuyên

Chống Mỹ

33

Trần Ngọc Nhuận

Chống Mỹ

3

Doãn Văn Mạnh

Chống Mỹ

34

Phạm Công Luật

BVBG tây nam

4

Phan Văn Vược

Chống Mỹ

35

Nguyễn Văn Phúc

Chống Mỹ

5

Phan Văn Viện

Chống Mỹ

TỔ DÂN 4B

6

Phạm Văn Hội

Chống Mỹ

36

Trần Văn Minh

Chống Pháp

7

Trần Văn Lượng

Chống Mỹ

37

Vũ Thăng Giai

Chống Mỹ

8

Trần Văn Hảo

Chống Mỹ

38

Vũ Mộng Lân

Chống Mỹ

9

Trần Văn Tưởng

Chống Mỹ

39

Nguyễn Quang Trung

Chống Mỹ

TỔ DÂN PHỐ 2

40

Phan Văn Đô

Chống Mỹ

10

NguyễnTường Loan

Chống Pháp

TỔ DÂN PHỐ 5 [A + B]

11

Trần Văn Kỳ

Chống Pháp

41

Bùi Văn Thu

Chống Pháp

12

Nguyễn Văn Quang

Chống Mỹ

42

Nguyễn Quang Giản

Chống Pháp

13

Nguyễn Tường Lân

Chống Mỹ

43

Doãn Viết Huấn

Chống Mỹ

14

Trần Văn Rĩnh

Chống Mỹ

44

Phùng Hữu Quỳnh

Chống Mỹ

15

Phan Văn Đạo

BVBG tây nam

45

Doãn Quang Thảo

Chống Mỹ

TỔ DÂN PHỐ 3

46

Ninh Viết Giang

Chống Mỹ

16

Phan Văn Lật

Chống Pháp

47

Ninh Viết Lưu

Chống Mỹ

17

Phạm Công Tiếp

Chống Pháp

48

Phùng Xuân Phú

Chống Mỹ

18

Phạm Công Nghịnh

Chống Mỹ

49

Bùi Xuân Nghinh

Chống Mỹ

19

Phan Văn Tịch

Chống Mỹ

50

Doãn Đình Chiều

Chống Mỹ

20

Trần Văn Thụy

Chống Mỹ

51

Doãn Đình Định

BVTQ

21

Phan Thanh Kiêm

Chống Mỹ

52

Lê Văn Đính

Chống Mỹ

22

Phan Văn Nhượng

Chống Mỹ

TỔ DÂN PHỐ 6

23

Phan Văn Kỷ

Chống Mỹ

53

Phùng Hữu Côn

Chống Pháp

24

Trần Nam Cao

BVBG Tây Bắc

54

Phùng Hữu Phái

Chống Mỹ

TỔ DÂN PHỐ 4A

55

Phùng Hữu Sinh

Chống Mỹ

25

Huỳnh Quang Lý

Chống Mỹ

56

Bùi Văn Đậu

Chống Mỹ

26

Nguyễn Văn Tú

Chống Mỹ

57

Doãn Văn Dung

Chống Mỹ

27

Phạm Văn Lân

Chống Mỹ

58

Doãn Đình Chiễu

Chống Mỹ

28

Nguyễn Văn Kỷ

Chống Mỹ

59

Bùi Văn Biểu

Chống Mỹ

29

Nguyễn Văn Khánh

Chống Mỹ

60

Phùng Thanh Sơn

Chống Mỹ

30

Nguyễn Văn Tân

Chống Mỹ

61

Doãn Văn Sắc

Chống Mỹ

31

Vũ Văn Tân

Chống Mỹ

DANH SÁCH

CÁC CÁ NHÂN THÀNH ĐẠT TRÊN CÁC LĨNH VỰC

1- Đ/c Nguyễn Phan: Nguyên Phó ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Nam Ninh.

2- Đ/c Phan Văn Hiến : Nguyên Giám đốc Công ty Thủy sản Hà Nam Ninh

3- Đ/c Phan Văn Chương : Nguyên Tổng đội TNXP.

4- Đ/c Phan Đức Hạnh : Nguyên Huyện ủy viên - Trưởng phòng Tài chính.

5- Đ/c Lê Xuân Thủy : Tỉnh ủy viên - Giám đốc Sở NN&PTNT.

6- Đ/c Trần Kim Cương : Phó Trưởng ban Tuyên giáo tỉnh Ninh Bình.

Giám đốc Sở Thể dục- Thể thao Ninh Bình

7- Đ/c Phan Văn Vĩnh : Trung tướng Tổng Cục trưởng, Tổng cục Phòng

. chống tội phạm Bộ Công an.

8- Đ/c Trần Đức Nhân : Trung tướng - Chính ủy Học viện quân sự .

9- Đ/c Phan Văn Tình : Ủy viên BTV Tỉnh ủy - Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy Nam Định.

10- Đ/c Vũ Thanh Tình : Thường vụ Huyện ủy - Chủ tịch MTTQ huyện.

11- Đ/c Nguyễn Khánh Toàn: Huyện ủy viên - Trưởng phòng LĐTB&XH.

12- Đ/c Doãn Hỗ : Nguyên Huyện ủy viên - Trưởng phòng VHTT.

13- Đ/c Trần Văn Kha : GS -TS - Viện trưởng Viện giáo dục chiến lược.

14- Đ/c Nguyễn Thanh Hùng: Giám đốc Công ty xây dựng Giao Thủy.

15- Đ/c Phạm Hữu Vương : Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn.

16- Đ/c Nguyễn Tiến Dũng : Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề.

17- Đ/c Phan Văn Phong : Phó Giám đốc Sở TN&MT.

18- Đ/c Nguyễn Thái Sinh : Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc Công ty thuốc lá Thăng Long.

19- Đ/c Phùng Văn Nhân : Huyện ủy viên - Phó Chủ tịch UBND huyện.

20- Đ/c Nguyễn Ngọc Hoan : Huyện ủy viên - Giám đốc Bảo hiểm xã hội.

21- Đ/c Phan Văn Trực : Huyện ủy viên- Trưởng phòng NN &PTNN huyện.

22- Đ/c Vũ Thị Tuyết Minh : Huyện ủy viên - Chủ tịch Liên đoàn lao động huyện.


MỤC LỤC

Nội dung

Trang

- Lời giới thiệu

* Chương 1: Ngô Đồng mảnh đất con người và truyền thống yêu nước:

1. Sự hình thành mảnh đất, con người của Thị trấn.

2. Đời sống kinh tế xã hội và truyền thống yêu nước.

3. Phong trào đấu tranh cách mạng tiến tới giành chính quyền từ 1930 đến 1945 tại địa phương.

Chương II: Củng cố chính quyền, tổ chức quần chúng, chi bộ Đảng được thành lập, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. [1945-1954].

1. Giữ vững thành quả cách mạng đã giành được củng cố xây dựng lực lượng mọi mặt, sẵn sàng đối phó với kẻ thù xâm lược

2. Chi bộ được thành lập, lãnh đạo nhân dân trong công cuộc kháng chiến kiến quốc.

3. Chống chiếm đóng, kien trì bám đất, bám dân phục hồi, xây dựng cơ sở bí mật từ thấp đến cao, tiến lên phá tề trừ gian mở rộng khu du kích [10/1949-2/1952]

4. Tranh thủ thời cơ mở khu du kích, tích cực chống địch càn quét, tái chiếm lập tề, bao vây bức rút bốt Ngô Đồng, quê hương hoàn toàn giải phóng

*Chương III: Khắc phục hậu quả chiến tranh vừa sản xuất vừa chiến đấu, tích cực chi viện cho chiến trường, góp phần đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào giải phóng miền Nam thống nhất đất nước [1954-1975]

1.Khắc phục hậu quả chiến tranh, chống âm mưu cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, tiến hành cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội [1954-1960].

2. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất [1961-1965]

3. Vừa sản xuất vừa chiến đấu, góp phần hai lần đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ [1965-1968 và 1972-1973].

* Chương IV: Phục hồi phát triển kinh tế sau chiến tranh, xây dựng cở sở vật chất kĩ thuật của CNXH, góp phần chiến thắng cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới, bước đầu tìm hướng đổi mới đất nước.

1. Phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, góp phần đánh thắng chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước.

2. Triển khai thực hiện Chỉ thị 100CT/TW, từng bước tìm tòi, thử nghiệm sự nghiêp đổi mới.

* Chương V: Thị trấn Ngô Đồng được thành lập, đồng hành cùng sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo [1986-2010].

1. Tình thế đất nước sau miền Nam, giải phóng thống nhất với quốc sách đổi mới của Đảng.

2. Đảng bộ thị trấn được thành lập, nhanh chóng ổn định tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

3. Phát huy thành quả đã đạt được, lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực hiện đổi mới sâu rộng, toàn diện hon theo hướng CNH-HĐH nông thôn.

4. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương gắn liền với hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

* Kết luận

* 4 bài học kinh nghiệm

In 150 cuốn, khổ 14,3 x 20,3cm.

Tại Công ty TNHH In Quảng cáo Xuân Thịnh.

Giấy phép xuất bản số: 37/GP-STTTT.

Cấp ngày 29 tháng 7 năm 2015.

In xong nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2015.


[[1]]Đất nông nghiệp 114,05 ha [trong đó đất sản xuất nông nghiệp 95,34 ha + nông thổ sản 18,71 ha], đất phi nông nghiệp 150,63 ha.

[[2]]Cứ 10 năm, đất liền tiến ra biển khoảng 1,5 km Pieure Gourov Thư viện Trung Ương số 4121 [27] Trang 37 39.

[[3]]Ngày nay chi nhánh họ Trần [Hoành Đông] còn có mộ cụ Tổ táng ở quê cũ nơi đây, hàng năm con cháu tiết thanh minh vẫn đến thăm viếng mộ phần.

[[4]]Hà Lạn còn có tên gọi là Lạc Môn.

[[5]]Ba Lạt phá hội là cụm từ chỉ một hiện tượng tự nhiên, dòng sông Hồng Hà đang chảy ra cửa Hạ Lạn bỗng đổi dòng chảy ra cửa chính Ba Lạt.

[[6]]Câu hát dân gian: Cây Ngô Đồng không trồng mà mọc- Cây Ngô Đồng cành dọc cành ngang/ Hợp duyên anh sẽ cưu mang- Bác mẹ nhắc nhủ anh sang chốt nhà/ Anh sang từ tối hôm qua- Thấy mẹ nằm võng thấy cha nằm giường/ Thấy em nằm đất anh thương- Trở về xẻ gỗ đóng giường cho em.

[[7]]Đồng Đền cửa Ngô Đồng trước đây có tiếng là linh thiêng nên nhân dân trong vùng nhất là những người buôn bán thường đến cúng bái xin tài lộc Hằng năm họ triều cúng nhiều thuyền đá hộc, dựng kè chắn sóng để bảo vệ đền sừng sững bên dòng sông. Nhưng rồi trận bão lũ năm 1946, đền bị sụp đổ [hai người coi đền chết: bà đồng Muôn va đồng Xiêm]. Đền được chuyển vào xây dựng mới ở trại Đồng Lạc [khu I], với hai lần quai đê nhưng cuối cùng đê và ngôi đền cũng bị sạt lở mất]

[[8]]5 ấp mới thuộc huyện Xuân Trường gồm: Ấp Phú Nhai, Lạc Nghiệp, Thượng Phúc, An Cư, Lục Thủy.

[[9]]Sau trận sóng thần, ấp Hoành Đông và ấp Hoành Nha bán cho Phú Nhai nhưng vẫn giữ nguyên danh bạ cũ, nay thuộc xã Giao Thiện.

[[10]]Theo tài liệu của Bắc Kỳ nhân dân đại biểu- Viện tổng thuật xuất bản năm 1929 ghi: Ngày 30/07/1929, một trận bão dữ dội đã tràn vào Nam Định, cây cối, nhà cửa, thuyền bè bị trôi đắm, đê điều và ruộng vườn bị chìm ngập, toàn tỉnh bị đổ tới 78.640 nóc nhà, 10 vạn mẫu ruộng không cấy lại được. [Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001, tr 50 NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội 2001

[[11]]Trên đường bộ 54 có hãng ô tô Tải Gia hàng ngày ngược xuôi Giao Thủy, Nam Định. Đường thủy ngược xuôi Nam Định- Hà Nội có đò dọc của ông xã Ba và Phạm Công Ngãnh.

[[12]]Do biến động của tự nhiên, hàng trăm mét đất cứ bị xói lở, do dòng nước lũ sông Hồng cuốn đi, chỉ tính từ năm 1945 đến năm 1965, trong vòng 20 năm những địa danh: đền Ngô Đồng, đồn đoan Ngô Đồng, phố Ngô Đồng, chợ Ngô Đồng bị xóa sổ không còn dấu tích. Chỉ còn đọng lại sự nuối tiếc của người dân nơi đây

[[13]] Làng Hoành Nhất đổi thành Hoành Đông, theo di ngôn kể rằng: Tiền nhân đến đây lập nghiệp, gốc từ Đông gốm [Hải Dương] nên thay chữ Đông để nhớ về quê cũ.

[[14]]Theo tộc phả họ Nguyễn Xuân [Diêm Điền]: sau khi làng Diêm Điền chính thức được ghi trong Gia Long địa bạ. Để tỏ lòng tri ân công đức, dân làng đã lập đền thờ, suy tôn cụ Nguyễn Tố Ry là bản cảnh thành hoàng làng Diêm Điền và 12 vị có công đầu.

[[15]]Theo chủ trương chung, thống nhất lấy chữ Giao[ Giao Thủy] đầu là địa danh của các xã.

[[16]]6 xóm thuộc xã Giao Hà gồm: Sơn Hà, Sơn Thủy, Sơn Hồng, Sơn Châu, Sơn Long, Sơn Hải.

[[17]]Ma chay "thọ thọ mai gia lễ", con trưởng chịu tang, ba năm nằm đất, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" tảo hôn với biết bao thủ tục: lễm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ xin cưới, cỗ trải giường, lễ lại mặt, tục thách cưới[ của hồi môn], lệ nộp theo xóm theo họ theo làng... Người phụ nữ bị ràng buộc bởi thuyết "tam tòng"[ tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử- nghĩa là người phụ nữ ở nhà thì theo cha đẻ, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con, thắt lưng buộc bụng thờ chồng nuôi con]. Hoặc phụ nữ "bất nhập đình trung" có nghĩa là: người phụ nữ không có quyền hành gì ngoài xã hội mà suốt đời nội trợ bếp núc gia đình.

[[18]] Ba xã Hoành Nhị, Diêm Điền, Hoành Đông thuộc Tổng Hoành Nha, các ông Tô Xuân Rĩnh [Hoành Nhị] được bầu làm Chánh Tổng, ông Nguyễn Xuân Thắng [Diêm Điền] được bầu làm Phó Tổng, do hội đồng hàng tổng bầu ra, được quan trên chuẩn y và bổ nhiệm.

[[19]] - Hoành Đông: Tiên chỉ: Lục phẩm Phan Văn Trắc, Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Ngọc Chấn.

Thứ chỉ: Chánh hương hội Phan Văn Mịch.

- Diêm Điền: Tiên chỉ: Phạm Bá Ngoạn - Nguyễn Xuân Huề.

Thứ chỉ: Chánh hương hội Phạm Ngọc Uyển.

- Hoành Nhị: Tiên chỉ: Phùng Hữu Yên.

Thứ chỉ: Phùng Hữu Bàn.

[[20]] Dân bản địa được cấp Thẻ đỏ, dân ngụ cư được cấp Thẻ xanh.

[[21]] Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật thẩm mỹ, cửa đền có kiến trúc rất đẹp, 2 con rồng trên nóc đền trông rất sinh động, hài hòa, khỏe khoắn.

[[22]]Do quá trình biến đổi của dòng chảy sông Hồng nên khu vực đền hàng năm bị lở nghiêm trọng, thowifi kì này nhân dân địa phương, khách thập phương nhất là các nhà buôn hàng năm đổ xuống đây hàng trăm thuyền đá để bỏ kè bảo vệ đền. Tuy vậy khu vực đền vẫn bị lở, trong nhiều năm khu vực đền chênh vênh như một con "Rồng đá" nằm giữa dòng chảy xoáy, chỉ còn duy nhất một con đưởng nhỏ chạy từ đê ra đền. Năm 1946, đền bị lở xuống sông. Dân làng phải rước ngài về thờ chung tại đền chính[ khu 2].

[[23]] Học hàm, học vị:

* Hoành Nhị: - Thiên Hộ: Cụ Phùng Hữu Đông. Tú Tài: Phùng Hữu Khang. Nhị trường: Cụ Phùng Hữu Thọ, Phùng Hữu Tâm.

* Hoành Đông: - Lễ sinh: Cụ Phan Văn Hòe, Nguyễn Ngọc Kình, Phan Văn Huỳnh, Trần Văn Giáp. Tú tài: Trần Văn Hiệt. Thiên hộ: Cụ Phan Thiên Úy, Phạm Công Nguyên. Nhất trường: Cụ Phan Văn Triển, Trần Văn Tảo, Phan Văn Tước, Phạm Hữu Thứ, Phan Văn Rung, Phạm Công Thiệp.

[[24]] Ở Thị trấn: Ông Phạm Công Chang mộ phu Tân Thế giới, ông Phan Văn Đãn, Phan Văn Ỷ mộ phu đồn điền Cao su Phú Riềng.

[[25]] Hoạt động của nghĩa quân Phan Bá Vành rộng khắp cả một vùng, trong đó có cả một số vùng huyện Xuân Trường, huyện Giao Thuỷ như Trà Lũ [Xuân Bắc], Mom Rô [Hành Thiện], Liêu Đông [Xuân Tân], Hậu Đồng [Kiên Lao], Mả Cáo [Giao Tiến], Cồn Vành [Giao Phong].

[[26]] Còn có tên là Trần Ngọc Toàn, quê ở làng Hoành Đông.

[[27]] Tổng đốc Vũ Văn Báo, con của Tiến sỹ Vũ Văn Lý, một nhân sỹ chân chính, thày dạy của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, đã báo tin cho Pháp.

[[28]] Theo thơ văn yêu nước và cách mạng Hà Nam Ninh, tập 1, trang 301.

[[29]] Cao Quang Thạnh Mai Thanh dịch.

[[30]] Điển hình như các cụ: Tiền Khanh, Hậu Nhiễu, Tả Cầm, Hữu Phức, Đội Triệu, Lý Tế.

[[31]] Thuế thân là loại thuế dã man đánh vào nam giới từ 18 đến 60 tuổi, mỗi suất đinh bằng tiền, theo thời giá lúc đó tương đương bằng 250 kg thóc.

[[32]] Ở Nghệ An ra, là hội viên hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dạy học ở Lạc Quần, rồi về Lạc Nghiệp.

[[33]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định. NXB Chính trị quốc gia, 2001, Tr.118.

[[34]] Thầy giáo Phạm Dũng là con ông Lý Luân - Hà Cát, người của ta đưa ra tranh cử Lý trưởng Hà Cát đã thắng cử. Khi bị định khủng bố thì thầy Dũng lánh đi nơi khác.

[[35]] Cây đa phố huyện trước đây tại khu Bưu điện ngày nay. Khi mở rộng đường phố, cây đa và cây thị bị triệt phá. Những người thực hiện treo cờ là các học trò được các thầy giáo giác ngộ và lựa chọn.

[[36]] Những người bị Pháp bắt đi lính: Ông Nguyễn Văn Bồng, Nguyễn Văn Rói, Vũ Văn Tuyến, Trần Văn Rứu [K1], Phan Văn Tha, Phan Văn Trấp, Phạm Văn Đừ, Phan Văn Lật, Trần Văn Khiên, Phan Văn Ánh, Trần Văn Tung [K2], Phạm Công Nhu, Phan Văn Tầm, Phạm Hữu Thuận, Phan Văn Sử, Nguyễn Văn Hiên, Phan Văn Cừu [K3], Nguyễn Văn Khánh, Phạm Hữu Vệ, Nguyễn Văn Tập [K4a], Bùi Chấp, Bùi Thùy, Phùng Hữu Thái, Phùng Hữu Điều [K5+6]

[[37]] Sau đó [19/5/1941] đổi tên là Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh.

[[38]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, NXB CTQG Hà Nội 2001, Tr155.

[[39]]Tổ Việt Minh phố huyện gồm: Phùng Trọng Sỹ, Tô Quang Giáp, Nguyễn Xuân Khuyến, Nguyễn Xuân Mai.

Tổ phố Ngô Đồng gồm: Đinh Văn Bính, Đinh Văn Giao, Phạm Công Trị, Đinh Văn Huỳnh.

[[40]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Giao Thủy [1930-2005] xuất bản năm 2009 trang 91.

[[41]] Các chức danh trong chính quyền được khoác cái tên mới như: Tổng đốc đổi là Tỉnh trưởng, Tri huyện đổi là Huyện trưởng, xã trưởng.

[[42]] Vị trí sân vận động cũ nay là nhà văn hóa và thể thao của huyện.

[[43]] Chúng đình chỉ bán gạo cho dân, tung bừa giấy bạc Đông Dương loại 50 đồng và 100 đồng ra thị trường thu mua, vơ vét thóc gạo, đầu cơ tích trữ lương thực, khiến nhân dân ta lâm vào cảnh đói rét cùng cực.

[[44]] Số gia đình bị xóa số năm Ất Dậu, chỉ tách riêng khu 2, có gia đình ông Trần Văn Khuy, Phan Văn Xuân, Phạm Viết Đừ, Phan Văn Nông, Phạm Viết Giả, Phan Văn Tư, Phan Văn Quắc. Khu I: Nguyễn Canh. Nguyễn Vực, Nguyễn Riêu, ...

[[45]] Người bỏ truyền đơn vào bàn giấy của Huyện trưởng là Cai Tục chỉ huy Đội Bảo An huyện.

[[46]] Ngày 08/8/1945 Hồng Quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Ngày 13/8/1945, Nhật hoàng phải ký Hiệp ước đầu hàng đồng minh vô điều kiện.

[[47]] Địa giới hành chính xã Tự Lạc và Lạc Thành trước năm 1945 thuộc huyện Giao Thủy, sau cách mạng tháng 8 - 1945, tách địa giới hai xã trên thuộc huyện Xuân Trường.

[[48]] Sau khi ông Phán Huỳnh thay Phán Bằng làm Đồn trưởng Ngô Đồng, tổ Việt Minh phố Ngô Đồng đã bí mật gặp gỡ tiếp xúc, ông tỏ rõ thái độ có cảm tình với cách mạng và hứa không làm điều gì có hại cho cách mạng.

[[49]] Đồng chí Phạm Văn Yêng, ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh, Trưởng Ban cán sự huyện Giao Thủy [tức Bí thư Huyện ủy đầu tiên 1945-1946].

[[50]]Ông Vũ Đức Xuân được kết nạp vào Đảng Cộng sản[ 1947].

[[51]] Đồng chí Tô Quảng Giáp là Lý trưởng làng Hoành Nhị, song được Đảng giác ngộ, ông đã bí mật tham gia Đảng Cộng sản. Đến khi tham gia quân khởi nghĩa tiến vào Huyện đường Giao Thủy thu con dấu, Tri huyện Nguyễn Duy Liễn bất ngờ sửng sốt hỏi: Thầy Lý Hoành Nhị cũng ở đây à?. Đồng chí Tô Quảng Giáp trả lời Hôm qua tôi là Lý trưởng, quân ông, hôm nay tôi là đại diện Mặt trận Việt Minh đến đây xóa bỏ chế độ cũ, yêu cầu ông nộp ngay dấu ấn, tài liệu cho cách mạng"..

[[52]] Do phần lớn nhân dân không biết chữ, 1 số thanh niên biết chữ, hăng hái và nhiệt tình, nhưng chưa quen điều hành công việc hành chính, vì thế ta buộc phải lựa chọn một số người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ, không có vướng mắc gì với nhân dân, đề cử vào Ủy ban Cách mạng lâm thời.

[[53]] Đội quân Tây Tiến có Phạm Hữu Tập.

[[54]] Hồ Chí Minh toàn tập - T3, Tr. 557.

[[55]] Hồ Chí Minh toàn tập - T4. Tr.79.

[[56]] Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tr. 5, 6.

[[57]] Tên các ứng cử viên Quốc hội.

[[58]] Theo chủ trương của trên lần này không bầu HĐND cấp huyện, chỉ bầu HĐND cấp tỉnh và cấp xã..

[[59]] Ủy ban Cách mạng lâm thời từ đây đổi là Ủy ban hành chính.

[[60]] Như hống hách, sách nhiễu, ăn quỵt, uống rượu say gây rối, đập phá, cướp giật hàng hóa, trêu ghẹo phụ nữ, dùng súng bắn vào tự vệ ta [nhân dân gọi là quân Tầu Ô]

[[61]] Quân Tưởng Giới Thạch khi vào Bắc Bộ giải giáp quân đội Nhật đã kéo theo bọn Nguyễn Hải Thần, bọn Việt quốc, Việt cách, hòng dùng bọn tay sai này để thực hiện mưu đồ xâm chiếm nước ta.

[[62]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 223.

[[63]] Ngày 20/11/1946, chúng gây xung đột ở Hải Phòng, ngày 24/11/1946 chúng gây rối ở Lạng Sơn. Nghiêm trọng hơn, ngày 17/12/1946 quân Pháp gây hấn ở Hàng Bún - Hà Nội. Ngày 18/12/1946 chúng gửi tối hậu thư, trắng trợn đòi tước vũ khí lực lượng vũ trang Thủ đô.

[[64]] - Đông Hòa: + Mặt trận Việt Minh do đ/c Phạm Hữu Tập làm Chủ nhiệm.

+ Ủy ban Liên Việt do ông Nguyễn Ngọc Thát làm Trưởng ban.

[[65]] Nhà sư tòng quân giết giặc là Thích Thanh Biểng, Thích Thanh Cốm - Chùa Linh Ứng Hoành Đông.

[[66]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy, xuất bản năm 2009, tr.148.

[[67]] Phố Ngô Đồng: Nhà cao tầng, có gia đình ông Nghị Chức, ông Hàn Sinh. Hiệu: Tập Thái Hòa, Đồng Lợi, Vĩnh Thịnh...

- Phố huyện: Hiệu ông cả Biểu, ông Hanh Thái, ông Tá....

[[68]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy 1930-2005, XB năm 2009, tr.154.

[[69]] Trong số người bị địch sát hại có gia đình ông bà Phạm Công Nhũ và 3 người con [5 người]; Gia đình vợ chồng anh Phạm Công Trị [người vợ sắp đến ngày sinh nở].

[[70]] - Dưới chế độ cũ, chính sách bất bình đẳng trọng nam khinh nữ nên nữ giới không được cấp ruộng đất, chỉ dưới chính thể dân chủ cộng hòa, phụ nữ mới được bình đẳng như nam giới.

- Xã Diêm Điền đến năm 1953 hợp nhất thành xã Giao Điền Hòa phụ nữ mới được cấp ruộng đất như nam giới.

[[71]] Có giác ngộ lý tưởng, trung thành với Đảng, với chế độ.

[[72]] Chi bộ Hoành Sơn giữa năm 1948 có 3 Đảng viên đến tháng 9/1949 có 37 Đảng viên

- Chi bộ Đông Hòa giữa năm 1948 có 3 Đảng viên đến tháng 9/1949 có 21 Đảng viên.

[[73]]Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy Tr 163- 164. XB 2009.

4] Công phiếu kháng chiến có 4 loại: A,B,C,D. Loại A = 200Đ, loại B=1.000Đ, loại C=5.000Đ, loại C= 10.000Đ. [Mệnh giá 200Đ tương đương 2 tạ thóc]. Số liệu xã mua công phiếu: Xã Đông Hòa là 120 phiếu loại A, 16 phiếu loại B, 1 phiếu loại C. Xã Hoành Sơn: Phiếu loại A+B tương đương 360.000Đ

[[74]] Lịch sử Đảng bộ Nam Định, XB 2001, tr.280-281.

[[75]] Nơi đất đai trù phú, dân cư đông đúc, có nhiều giáo dân theo đạo Thiên Chúa.

[[76]] Chùa Tùng Lâm tại ngã tư phố huyện Giao Thủy, là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Giao Thủy, sau khi địch rút đi, chúng đã phá hủy và san bằng ngôi chùa này.

[[77]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, Tr.172-173

[[78]] Đồng chí Nguyễn Phan nguyên là cán bộ Văn phòng Huyện ủy Giao Thủy, khi tình hình địch chuẩn bị đánh chiếm các huyện miền nam tỉnh, Huyện ủy quyết định tăng cường cán bộ về một số địa phương xung yếu, đ/c Nguyễn Phan trực tiếp tham gia Ban chi ủy Đông Hòa.

[[79]]Số Đảng viên ở lại nằm vùng gồm: Trần Văn Rục, Nguyễn Ngọc Thố, Trần Văn Điều, Phạm Thị Tuyết, Phan Thị Chức, Trần Văn Kim, Phan Văn Việt.

[[80]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, XB 2001, Tr 290-291.

[[81]] Trừ một số bỏ chạy ra vùng tự do [Việt Bắc, khu 4], vào vùng địch trong nội thành Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng.

[[82]]- Trạm giao liên tiếp đón cán bộ vào vùng đất tại gia đình ông Nguyễn Ngọc Thát. Sau khi đường dây được mở rộng, thông suốt tới các xã trong miền, trạm sẽ chuyển đi nơi khác thì gia đình ông là cơ sở sinh tử của đ/c Đinh Văn Hà, Thanh Kỳ.

- Tổ giao liên do hai chị Phan Thị Liên và Phan Thị Tam đảm nhiệm việc đưa đón cán bộ tới cơ sở.

[[83]] Ngoài đường dây này, huyện còn tổ chức 2 đường dây nữa để đưa cán bộ vào các miền khác của huyện.

[[84]] Bí thư cũ đã bỏ nhiệm vụ bị kỷ luật khai trừ Đảng tịch.

[[85]] Vụ địch phục kích ở Cống Chúa, bắt 7 cán bộ của ta là do tên Nguyễn Vẻ giao thông viên phản bội, chỉ điểm cho địch [Nguyễn Vẻ là giao thông viên của xã Đông Hòa, sau là giao thông viên của miền và huyện].

[[86]] Vụ vây bắt cán bộ ở Xuân Tân này cũng do tên Nguyễn Vẻ phản bội chỉ điểm cho địch .

[[87]] Danh sách tù chính trị được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương chiến sỹ cách mạng bị bắt tù đầy có: Trần Đình Điềm, Nguyễn Ngọc Thố, Phan Đức Hạnh, Phan Minh Chu, Nguyễn Phan, Trần Bá Kiêu, Đặng Thị Hồi.

[[88]] Tòa án Nhân dân tỉnh Nam Định đã xử bản án tử hình đối với Phạm Bá Điều [Diêm Điền] là Đảng viên Đảng CSVN, khi bị địch bắt đã đầu hàng phản bội, làm quân báo cho phòng nhì Bùi Chu, chỉ điểm cho địch phá hoại cơ sở bí mật, bắt nhiều cán bộ Đảng viên của ta.

- Bản án tử hình đối với Phan Văn Hà [Hoành Đông], đảng viên đảng dân chúng liên hiệp phản động, là tay sai chỉ điểm cho địch phá hoại cơ sở phong trào cách mạng.

[[89]] Ban Chi ủy Chi bộ Đông Hòa nghi ngờ và xử tử một trường hợp chỉ điểm, nhưng chứng cớ chưa rõ ràng.

[[90]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, Nxb CTQG, 2001, tr.308-309 .

[[91]] Khi địch đóng bốt Ngô Đồng, chúng đã lấp mất cống Ngô Đồng nên cánh đồng Hoành Đông gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất, mùa khô không có mước tưới, mùa mưa úng không có lối thoát nước.

[[92]] Cán bộ dự lớp Tổng phản công gồm các đồng chí: Nguyễn Ngọc Thố [Hoành Đông],

Phùng Hữu Hùng [Hoành Nhị], Nguyễn Xuân Miêu [Diêm Điền].

[[93]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, Nxb CTQG, HN. 2001, Tr.329-330.

[[94]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy, 1930-2005, xuất bản năm 2009, tr.209.

[[95]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, XB 2001, tr.340 - 341.

[[96]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, tr.223 -224.

[[97]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, tr.227-228.

[[98]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, Tr.226-227.

[[99]] Các xã miền hai gồm: Giao Thiện, Giao An, Giao Thanh, Giao Hương, Hồng Thuận, Giao Lạc.

[[100]] Khinh quân do thiếu hụt quân số, địch đã càn quét bắt thanh niên thậm chí bắt cả tù giam tại Máy chai Nam Định để bổ xung, nên khinh quân là tổ chức ô hợp, tinh thần bạc nhuộc không có sức chiến đấu.

[[101]] Viện trợ của Mỹ cho Pháp: Năm 1950 là 52 tỷ phôrăng, năm 1951 là 555 tỷ đồng phơrăng.

[[102]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định. Xb 2001, tr 364.

[[103]] Kế hoạch tác chiến của Nava gồm 2 bước:

* Bước thứ nhất: Trong Thu Đông 1953 và đầu Xuân 1954, cố gắng giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở phía Bắc, từ vĩ tuyến 18 trở ra và tránh đương đầu với quân chủ lực của ta. Đi đôi với việc xây dựng đội quân chủ lực, địch thực hiện tiến công từ vĩ tuyến 18 trở vào để bình định miền Trung và miền Nam nhằm xóa bỏ vùng tự do Liên khu 5.

* Bước thứ hai: Khi đã có ưu thế về lực lượng cơ động, đến Thu Đông 1954 sẽ chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công chiến lược giành thắng lợi quân sự, gây sức ép buộc ta phải nhận đàm phán theo những điều kiện do chúng đặt ra, nếu không chúng sẽ tiếp tục tiến công tiêu diệt ta.

[[104]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, Xb 2001, tr.365.]

[[105]] Đại đội dân công do đ/c Trần Độ Lượng- ủy viên UBKCHC huyện làm đội trưởng, đ/c Phạm Thị Tuyết [Giao Điền Hòa] chính trị viên.

[[106]] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tập I, tr. 716

[[107]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, tr.258-259.

[[108]]Thời điểm này lương của cán bộ, viên chức thoát ly được hưởng tiêu chuẩn bằng gạo, bình quân là 15kg/người/tháng [không có tiền].

[[109]]Lợi dụng điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ về "tự do lựa chọn nơi cư trú" và thời gian 300 ngày tập kết quân tại Hải Phòng, trước khi quân Pháp rút khỏi miền Bắc, Mỹ đã chi nhiều đô la và cử các tên tình báo cáo già, khoác áo giáo sỹ Thiên Chúa sang Việt Nam cùng với tên Elemrđen trùm CIA ở Sài Gòn, phối hợp với bọn phản động trong nước, lập ra cái tổ chức gọi là "Tổng ủy di cư".

[[110]] Những người cố tình ra đi đã bị rơi vào cảnh màn trời chiếu đất.

[[111]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, XB 2001, tr 403, 404 .

[[112]] Hai địa chủ cường hào gian ác thuộc hai xã Giao Điền Hòa và Giao Sơn, Tòa án nhân dân tuyên phạt với mức án cao nhất.

[[113]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, XB 2001, Tr 410 411.

[[114]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy 1930-2005, xuất bản năm 2009, tr.264.

[[115]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, Tr.288-289.

[[116]] Gồm: An Phú [Giao An], Trường Hải [Giao Nhân], Bình Nguyên [Giao Bình], Kiên Hành [Giao Hải], Thức Hóa [Giao Hoan], và một số HTX của Giao Tiến.

[[117]] Như: HTX An Phú [Giao An], Trường Hải [Giao Nhân], Thức Hóa [Giao Thịnh], Bình Nguyên [Giao Bình] để rút kinh nghiệm triển khai trên diện rộng.

[[118]] Ngày 15/3/1955 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị xây dựng HTX Mua bán, ngày 27/3/1956, ra Chỉ thị 15 về việc xây dựng HTX Tín dụng nông thôn.

[[119]] 6 nhiệm vụ đó là:

- Ra sức phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm trọng tâm, đồng thời coi trọng phát triển công nghiệp.

- Tích cực củng cố và hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN, đẩy mạnh thành phần kinh tế quốc doanh.

- Trên cơ sở cải tạo XHCN, tổ chức sắp xếp dần ngành kinh tế ở thành thị và nông thôn sao cho hợp lý.

- Nâng cao kiến thức văn hóa, trình độ kỹ thuật cho cán bộ, dảng viên và nhân dân.

- Trên cơ sở quan hệ sản xuất đã thay đổi, ra sức phát triển kinh tế để cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

- Đề cao cảnh giác, tích cực củng cố lực lượng quốc phòng, lực lượng dân quân và công an, tăng cường trật tự, trị an, bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH và đời sống lao động hòa bình của nhân dân .

[[120]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy 1930-2005, xuất bản năm 2009, tr.310.

[[121]] Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong ở Quảng Bình là điển hình về sản xuất nông nghiệp của toàn quốc. Hợp tác xã nông nghiệp Lạc Long là một đơn vị ở xã Giao Lạc [vùng công giáo toàn tòng], có nền nếp hoạt động tốt, đạt năng suất cao là điển hình nông nghiệp của huyện Giao Thuỷ.

[[122]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy 1930-2005, xuất bản năm 2009, tr.334.

[[123]] Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Giao Thủy 1930-2005, xuất bản năm 2009, tr.336.

[[124]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy XB 2009, Tr 354.

[[125]] Gồm: Lãnh đạo sản xuất tốt; củng cố xây dựng Đảng tốt; quan tâm xây dựng đời sống và động quần chúng tốt; chấp hành chính sách tốt.

[[126]] Lãnh đạo sản xuất tốt, quản lý HTX tốt, đoàn kết tốt, chấp hành chính sách tốt, học tập và công tác quần chúng tốt, xây dựng Đảng tốt.

[[127]] - Cửa hàng xí nghiệp Dược Giao Thủy sơ tán tại Chùa Hoành Đông

- Chợ Hoành Đông, Hoành Nhị họp phân tán vào các dong xóm.

[[128]] Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy, XB 2009, tr.329.

[[129]] Địch thả bom cầu Bến Gánh không trúng, một người chết dưới hố cá nhân do sức ép, địch bỏ bom cống Cồn Nhất trúng vào nhà dân gần cống, một người chết.

[[130]] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định Tr 618

[[131]] Theo tinh thần Nghị quyết 245NQ/TW ngày 12/9/1975 của Bộ Chính trị

[[132]] Một sai lầm nghiêm trọng, HTX Hoành Đông đã xóa bỏ văn chỉ công trình văn hóa có hàng trăm năm trước, nơi tôn thờ các vị có công với nền giáo dục, nơi ghi danh những đỗ đạt khoa bảng trong làng xã, kể cả ngôi đền Đông thờ Thành Hoàng, vị thần có công với nước đã biến thành nhà kho, sân phơi của HTX.

[[133]] Liệt sỹ Trần Văn Cao [khu 1] hy sinh khi chiến đấu chống quân bành trướng phía Tây bắc.

[[134]] Chế độ tem phiếu theo định mức: Nhân dân 4m vải/người/năm, lương thực do HTX định lượng phân phối

- Cán bộ, CNVC Nhà nước: 5m vải/người/năm, 13 kg gạo, 0,5 kg thịt/nười/tháng

[[135]]Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy Tr 511 XB 2009

[[136]]Báo cáo chính trị Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam NXB Sự thạt 1987 Tr. 40

[[137]]HTX Thanh Minh là toàn thôn Hoành Đông; HTX Hoành Sơn là toàn thôn Hoành Nhị; HTX Bình Minh là toàn thôn Diêm Điền.

[[138]]Theo Quy định nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ xã, thị trấn là 2 năm

[[139]]Sông Hồng, sông Ngô Đồng, sông Cồn Nhất, sông Bến Gánh

[[140]]Sông Cống Chúa, sông Ngô Đồng, sông Cồn Nhất được kè bê tông kiên cố.

[[141]]Đồng chí Phan Văn Đức được chuyển công tác khác.

[[142]]Mặt trận Tổ quốc Thị trấn khóa III và IV bầu ông Trần Quang Huy là Chủ tịch.

[[143]]Ba đảm đang: - Đảm đang trong sản xuất, công tác, thực hành tiết kiệm, thay thế nam giới đi chiến đấu;

- Đảm đang công việc gia đình, khuyến khích chồng, con đi chiến đấu;

- Đảm đang trong phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết .

[[144]] Đại hội lần thứ I [nhiệm kỳ 1991 1993] bầu Trung tá Phạm Viết Nhâm làm Chủ tịch Hội; Đại hội lần thứ II [nhiệm kỳ 1994 1996] bầu Thượng tá Phan Văn Thìn làm Chủ tịch Hội.

[[145]]Lịch sử Đảng bộ huyện Giao Thủy xb năm 2009- Tr. 132, 133

[[146]] Gồm: Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực; Chính sách đất đai; Chính sách tài chính, tín dụng; Chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ; Chính sách đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng.

[[147]]Năm 2003 2004, các vụ chiêm xuân ít mưa, sâu bệnh phát triển với mật độ cao. Trận mưa lụt vụ mùa năm 2003 làm nhiều diện tích lúa giảm năng suất nghiêm trọng

[[148]]Các gia đình trồng cây cảnh có thu nhập khá: Vũ Văn Tình, Phạm Hữu Tu, Phan Văn Nhất.

[[149]]Nguồn kinh phí do Nhà nước cấp, nhân dân đóng góp, con em quê hương ủng hộ và Tổng công ty dầu khí Việt Nam tài trợ 10 tỷ đồng.

[[150]]Tổng số giáo viên là 108 , trong đó mầm non: 30, tiểu học: 31, THCS: 31; Trình độ đại học: 26, cao đẳng: 71, trung cấp: 11.

[[151]]Đ/c Trần Ngọc Hoàn phụ trách từ tháng 6/1998 đến tháng 5/2004, Đ/c Phạm Hữu Khôi phụ trách từ tháng 6/2004 7/ 2007.

[[152]]Đoàn thanh tra của tỉnh thành lập theo Quyết định số 3885/2000- QĐ/UB ngày 13/02/2000 của UBND tỉnh Nam Định.

[[153]]Khu dân cư không vi phạm pháp luật; Khu dân cư không có người sinh con thứ ba; khu dân cư không có người nghiện ma túy; Khu dân cư không có tệ nạn xã hội; khu dân cư không có người vi phạm an toàn xã hội

[[154]]Lần thứ IV năm 2001; Làn thứ V năm 2004. Cả 2 nhiệm kỳ bầu đồng chí Phùng Xuân Khoa làm Chủ tịch hội.

[[155]]Họ Bùi, họ Phan, họ Trần, họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Ngọc, họ Tô, họ Vũ, họ Phạm Công, Họ Phạm Viết.

[[156]]Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự thị trấn: Phạm Ngọc Khôi [6/2004 10/2007; Vũ Đình Dương [11/2007 đến nay.

[[157]] Tổng quỹ có 121 triệu đồng, trong đó: Nhà nước 13 triệu, địa phương 22 triệu, tài trợ 86 triệu.

[[158]] 6 nội dung cuộc vận động: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư:

- Đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.

- Đoàn kết tương thân, tương ái, đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa.

- Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, thực hiện Pháp lệnh dân chủ, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội và ATGT.

- Đoàn kết xây dựng gia đình văn hóa, khu văn hóa, khu tiên tiến, xuất sắc.

- Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, khuyến học, khuyến tài, chăm lo sức khỏe ban đầu cho nhân dân, phát triển phong trào TDTT, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình.

- Đoàn kết xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.

[[159]] Trong đó: Dư nợ nghèo là 820.000đ . Dư nợ môi trường nông thôn là : 730.400.000đ. Dư nợ về học sinh sinh viên là 3.193.900.000đ. Dư nợ giải quyết việc làm là 140.000.000đ.

[[160]] Năm 2008 có 520/756 hộ hội viên đăng ký bằng 68,8%. Số hộ đạt là 500 hộ = 86,5% số hộ đăng ký. Năm 2009 600/756 hộ hội viên đăng ký , bằng 79,36%. Số hộ đạt chuẩn là: 550 hộ = 91,66% số hộ đăng ký. Năm 2009 có 700/756 hộ hội viên đăng ký, bằng 92,59%. Số hộ đạt chuẩn là : 685 hộ = 97,85% số hộ đăng ký. Năm 2011 có 756/756 hộ hội viên đăng ký, bằng 100 %. Số hộ đạt chuẩn là : 750 hộ = 99,20% số hộ đăng ký.

[[161]] Với 3,5 km đường, khối lượng đào đắp 121.653m3 đất, mương cấp 3 dài 10.482m; khối lượng đào đắp 54.053m3 đất.

[[162]] Xếp loại các Chi hội qua các năm gần đây như sau: Năm 2007: 3 chi hội vững mạnh, 5 chi hội khá. Năm 2008: 4 chi hội vững mạnh, 4 chi hội khá. Năm 2011: 5 chi hội xuất sắc, 3 chi hội khá.

[[163]]61 người hy sinh, 88 thương, bệnh binh.

[[164]]Bí thư: Nguyễn Ngọc Phan, Phan Văn Hiến, Phan Văn Tài, Vũ Thanh Tình, Cao Thành Nam, Vũ Thị Tuyết Minh; Phó bí thư: Phan Văn Chương, Nguyễn Văn hâm; Ủy viên Thường vụ: Nguyễn Ngọc Hoan.

[[165]]Năm không: Không có gia đình nghèo, không vi phạm Pháp luật, không bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba, không có trẻ bỏ học; Ba sạch: Sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ.

[[166]]Thực hiện tốt cuộc vận động và phong trào thi đua là chi hội 1, 2, 3, 4A và 4B.

[[167]] Đồng chí Vũ Thanh Tình, UV TVHU làm Bí thư Đảng ủy đến tháng 10/2011. Sau đó đồng chí Nguyễn Hồng Kiên là Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Doãn Công Kỳ làm Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy.

[[168]]Lời thi hào Nguyễn Trãi.

Video liên quan

Chủ Đề