Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió thuốc kiểu câu gì

Điền dấu câu thích hợp vào chỗ trống [Ngữ văn - Lớp 5]

3 trả lời

Viết lại văn thuyết minh thuật lại hội làng [Ngữ văn - Lớp 6]

1 trả lời

Kể về cảnh đẹp quê hương [ từ 10 đến 12 câu] [Ngữ văn - Lớp 3]

1 trả lời

Tả quyển sách, truyện mà em yêu thích [Ngữ văn - Lớp 5]

3 trả lời

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

   + Cánh buồm: giương to, rướn thân, góp gió – hình ảnh cánh buồm thân thuộc được tả thực trong sự quan sát tinh tế.

   + So sánh ẩn dụ: cái vô hình được gọi tên, cụ thể hóa bằng hình ảnh "cánh buồm" rõ ràng đường nét, hình khối, màu sắc.

   + "rướn thân trắng bao la thâu góp gió"- sự khoáng đạt, hiên ngang mạnh mẽ như chính tính cách của người dân miền biển, sẵn sàng đương đầu với thử thách.

   + Cánh buồm mang ý nghĩa tượng trưng cho hồn cốt, thần thái, tình cảm của người dân chài, nay đi vào thơ trở nên bay bổng, lãng mạn.

   → Biện pháp ẩn dụ, so sánh làm cho hình ảnh thực trở nên lãng mạn cánh buồm là linh hồn của làng biển, là niềm tự hào, tình yêu chinh phục biển cả làm chủ cuộc sống.

Dân chài lưới làn da ngăm dám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

   + Hình ảnh tả thực "làn da ngăm dám nắng" – vẻ đẹp rắn rỏi, chắc khỏe nói lên sự từng trải trong cuộc sống lao động vất vả nắng gió của người đi biển.

   + "thân hình nồng thở vị xa xăm" → hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, "thân hình" nay được cảm nhận bằng xúc giác - "mặn".

   + Sự mặn mòi của biển cả ngấm vào từng hơi thở trong cuộc sống, sự hòa quyện giữa con người với biển cả- nơi ngọn nguồn nuôi dưỡng.

   → Biện pháp ẩn dụ không chỉ xây dựng hình tượng người dân miền biển khỏe khoắn, từng trải mà còn làm nổi bật sự hòa quyện bền chặt giữa con người với tự nhiên.

Chỉ ra và phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”

Soạn văn 8 tập 1 ngắn nhất

Soạn văn 8 tập 2 ngắn nhất

Bài soạn văn lớp 8 siêu ngắn

Giải VNEN tiếng Anh 8 tập 1

Giải VNEN tiếng Anh 8 tập 2

Câu hỏi xoay quanh Địa lý 8

Giải môn Giáo dục công dân lớp 8

“Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”

Hai câu thơ trên đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp: cánh buồm trắng no căng gió đưa con thuyền vượt lên phía trước. Tế Hanh đã có một so sánh rất lạ: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Phép so sánh thường lấy đối tượng trừu tượng so sánh với đối tượng cụ thể để người đọc, người nghe hình dung rõ về đối tượng trừu tượng đó. Trong phép so sánh của Tế Hanh, nhà thơ lại lấy một hình ảnh cụ thể “cánh buồm” để so sánh với một hình ảnh trừu tượng” mảnh hồn làng”. Viết như vậy thật độc đáo! "Mảnh hồn làng” gợi đến truyền thống chăm chỉ, cần cù và bao đức tính quí báu của người dân vùng biển. So sánh “cánh buồm ” với “mảnh hồn làng” khiến hình ảnh cánh buồm trở nên thiêng liêng, xúc động biết bao. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Động từ “rướn “ rất mạnh mẽ và hình ảnh "rướn thân trắng” cũng vô cùng gợi cảm, nó gợi đến sự trong sáng, vẻ thuần khiết của “cánh buồm” và cũng là của “mảnh hồn làng”. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng” để “bao la thấu góp gió” của đại đương và biển cả còn thể hiện khao khát chinh phục tự nhiên và vũ trụ của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.

câu 1:

- đoạn thơ trên trích từ tác phẩm" Quê hương"- Tế Hanh

- hoàn cảnh sáng tác: bài thơ ra đời năm 1939 khi ông đi học xa quê được in trong tập" Nghẹn ngào"[1939], sau này được in lại trong tập"Hoa Niên"[1945]

câu 2:

- bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ

- phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ: miêu tả

câu 3:

- câu thơ "....." thuộc kiểu câu trần thuật

- chức năng: miêu tả cảnh buổi sáng bình minh đẹp đẽ, khi những người dân chài ra khơi đánh cá

câu 4:

biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên là:- so sánh

-ẩn dụ

- nhân hóa

- Tác dụng:

+ Tạo ra cách diễn đạt sinh động, hấp dẫn, gợi cảm, độc đáo, mới lạ.

+ Nghệ thuật nhân hoá "im, mỏi, nằm" giúp cho con thuyền vô tri vô giác hiện ra như một con người. Giống như thành viên của làng chài sau chuyến ra khơi vất vả, nó được nghỉ ngơi, thư giãn, lắng nghe: chất muối thầm dần trong thớ vỏ.

+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhân hoá "nghe" giúp người đọc cảm nhận cũng giống như người dân chài, con thuyền cũng thấm đẫm hương vị mặn mòi của biển khơi, cũng có linh hồn, trở thành một vật thể sống có những cảm nhận thật tinh tế.

+ Thể hiện tài quan sát, trí tưởng tượng phong phú, tình yêu quê hương tha thiết của nhà văn Tế Hanh.

Xác định biện pháp tu từ từ vựng trong đoạn thơ sau. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó

“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.[Tế Hanh – Quê hương ]

Phân tích các câu thơ sau:

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

- Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Lối nói ẩn dụ và biện pháp so sánh ở những câu này có hiệu quả nghệ thuật  như thế nào?

Đâu không phải ý nghĩa của biểu tượng cánh buồm trong câu thơ “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng/ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”?

a. Biểu tượng làng chài, chứa đựng hồn thiêng quê hương

b. Ẩn chứa hi vọng của người dân làng chài về những chuyến ra khơi yên bình

c. Cánh buồm theo chân người ra khơi, nâng đỡ họ vững bước trên hành trình lao động

d. Biểu tượng của biển cả mênh mông giữa muôn trùng sóng biếc

Đâu không phải ý nghĩa của biểu tượng cánh buồm trong câu thơ “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng/ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”? 

a. Biểu tượng làng chài, chứa đựng hồn thiêng quê hương 

b. Ẩn chứa hi vọng của người dân làng chài về những chuyến ra khơi yên bình 

c. Cánh buồm theo chân người ra khơi, nâng đỡ họ vững bước trên hành trình lao động 

d. Biểu tượng của biển cả mênh mông giữa muôn trùng sóng biếc 

Cảm nhận của em về hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ sau: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân trắng bao la thâu góp gió". VnDoc.com mời các bạn tham khảo câu trả lời trong chương trình Ngữ văn lớp 8 về bài thơ Quê hương của Tế Hanh trong bài viết này.

Cảm nhận Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

  • Khái quát chung về tác giả Tế Hanh
  • Khái quát chung về bài thơ Quê hương của Tế Hanh
  • Dàn ý Cảm nhận hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ sau: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân trắng bao la thâu góp gió".
  • Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 1
  • Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 2
  • Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 3
  • Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] đầy đủ
  • Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh]

  • Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh

Khái quát chung về tác giả Tế Hanh

1. Tiểu sử cuộc đời tác giả Tế Hanh

Tế Hanh [1921 - 2009], tên khai sinh là Trần Tế Hanh quê ở làng Đông Yên, phủ Bình Sơn; nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo. Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định [tức Quốc Học Huế].

Tháng 8 năm 1945, Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Từ năm 1949 cho đến năm 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V. Sau Hiệp định Genève, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ.

Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của hội. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I.

2. Sự nghiệp văn học của Tế Hanh

Sẵn tính ham thích thơ nên Tế Hanh bắt đầu sáng tác. Năm 1938, 17 tuổi, ông viết bài thơ đầu tiên: "Những ngày nghỉ học". Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn. Năm 1941, Tế Hanh và thơ của ông ["Quê hương", "Lời con đường quê", "Vu vơ", "Ao ước"] được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam [xuất bản năm 1942].

Đóng góp về văn học của Tế Hanh được chia thành hai giai đoạn lớn: trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Giai đoạn trước Cách mạng, thành tựu thơ Tế Hanh chủ yếu gắn với phong trào Thơ mới. Ông sáng tác từ sớm, đặc biệt từ khi ra học trường Quốc học Huế. Giai đoạn sau tháng Tám 1945, sự nghiệp văn học của Tế Hanh rộng mở với cả sáng tác, dịch thuật và viết phê bình.

Bên cạnh sáng tác thơ, Tế Hanh còn là dịch giả xuất sắc, có những đóng góp quan trọng nối nền thơ thế giới với nền thơ dân tộc.

Khái quát chung về bài thơ Quê hương của Tế Hanh

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương -một làng chài nhỏ ở ven biển của mình một cách tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào [năm 1939] và sau đó được in trong tập Hoa niên [năm 1945].

2. Bố cục

Bài thơ được chia làm 4 phần

- Phần 1: Hai câu thơ đầu: Giới thiệu chung về quê hương - làng chài ven biển của tác giả.

- Phần 2: Sáu câu tiếp: Cảnh đi thuyền ra khơi với vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống.

- Phần 3: Tám câu tiếp: Cảnh đi thuyền chở về bến sau một chuyến đánh bắt bội thu.

- Phần 4: Những câu thơ còn lại: Tình cảm yêu thương sâu sắc của tác giả đối với làng chài của mình.

3. Nội dung bài thơ

Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

4. Giá trị nghệ thuật

- Giọng thơ mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.

- Hình ảnh so sánh giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao, phép nhân hóa.

- Phép ẩn dụ, đảo trật tự từ trong câu.

- Hàng loạt động từ mạnh, tính từ, phép liệt kê.

- Sử dụng phương pháp biểu đạt tự sự đan xen miêu tả và biểu cảm.

- Thể thơ 8 chữ hiện đại.

Dàn ý Cảm nhận hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ sau: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân trắng bao la thâu góp gió".

Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách riêng nhưng đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.

Yêu cầu cụ thể:

a. Yêu cầu về kỹ năng:

  • Trên cơ sở có sự hiểu biết về đoạn thơ, qua việc chỉ rõ những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc, HS viết thành bài văn cảm thụ ngắn có bố cục 3 phần rõ ràng, trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp của hình ảnh "cánh buồm".
  • Kết hợp bình, cảm thụ về nội dung và nghệ thuật.
  • Lời văn mạch lạc, giàu cảm xúc, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt, chính tả.

b. Yêu cầu về kiến thức: HS có thể có các cách làm bài khác nhau, nhưng cơ bản phải trình bày được những ý sau:

  • Cách thể hiện vẻ đẹp của cánh buồm: Mang ý nghĩa tượng trưng, đều được so sánh với những hình ảnh hoặc khái niệm trừu tượng.
  • Biện pháp nghệ thuật so sánh được Tế Hanh sử dụng thành công trong câu: "Cánh buồm giương to... thâu góp gió". Nhà thơ so sánh: "Cánh buồm" với "mảnh hồn làng". -> một tâm hồn
    nhạy cảm, gắn bó với quê hương làng xóm.
  • Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và kỳ vĩ, là linh hồn của quê hương …-> Sự trìu mến thiêng liêng, những hy vọng mưu sinh … của người dân chài đã được
    gửi gắm vào cánh buồm -> Sự tinh tế của nhà thơ.

Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 1

Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết làng quê mình. Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với mảnh hồn làng.

Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.

Tham khảo thêm: Nghị luận về tình yêu quê hương của Tế Hanh

Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 2

“Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.

Quê hương - Tế Hanh.

Hai câu thơ trên đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp: cánh buồm trắng no căng gió đưa con thuyền vượt lên phía trước. Tế Hanh đã có một so sánh rất lạ: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Phép so sánh thường lấy đối tượng trừu tượng so sánh với đối tượng cụ thể để người đọc, người nghe hình dung rõ về đối tượng trừu tượng đó. Trong phép so sánh của Tế Hanh, nhà thơ lại lấy một hình ảnh cụ thể “cánh buồm” để so sánh với một hình ảnh trừu tượng” mảnh hồn làng”. Viết như vậy thật độc đáo! "Mảnh hồn làng” gợi đến truyền thống chăm chỉ, cần cù và bao đức tính quí báu của người dân vùng biển. So sánh “cánh buồm ” với “mảnh hồn làng” khiến hình ảnh cánh buồm trở nên thiêng liêng, xúc động biết bao. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Động từ “rướn “ rất mạnh mẽ và hình ảnh "rướn thân trắng” cũng vô cùng gợi cảm, nó gợi đến sự trong sáng, vẻ thuần khiết của “cánh buồm” và cũng là của “mảnh hồn làng”. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng” để “bao la thấu góp gió” của đại đương và biển cả còn thể hiện khao khát chinh phục tự nhiên và vũ trụ của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.

Lưu ý: Đây là bài cảm nhận phân tích giá trị của các biện pháp tu từ trong hai câu thơ: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Rướn thân trắng bao la thâu góp gió, từ đó làm nổi bật lên hình ảnh cánh buồm cùng những ý nghĩa gửi gắm sâu xa của tác giả qua hai câu thơ. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm: Viết đoạn diễn dịch khoảng 10 câu phân tích hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh.

Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] ngắn gọn số 3

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Một biện pháp so sánh giúp cho cánh buồm lại mang sức sống mãnh liệt hơn nhiều. Tác giả đã lấy cánh buồm làm một vật linh thiêng nhất - mảnh hồn làng. Bởi khi con thuyền ra khơi, người ở bến luôn ngóng trông đợi chờ bóng dáng cánh buồm xuất hiện, đó là dấu hiệu của niềm vui chào đón thuyền về bến. Niềm hạnh phúc này không một ai trong chúng ta có thể thấu hiểu hết được. Và khi cánh buồm vẫn chưa hiện dạng, họ chỉ có thể nhờ gió gửi ngàn tình thương, nỗi nhớ chờ mong lo sợ đến giữa khơi mong được hồi âm đáp lại. Và, cánh buồm đã " rướn thân trắng" đón nhận ngọn gió kì diệu ấy, quyện thành sức mạnh tiếp sức cho thuyền phóng nhanh, thể hiện cả khát khao chinh phục biển cả thiên nhiên của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.

Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh] đầy đủ

Mở bài:

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

[Quê hương – Đỗ Trung Quân]

Quê hương, khái niệm trừu tượng, thiêng liêng nhưng lại hết sức bình dị, thân thiết với mỗi chúng ta. Đó là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi ấy có ông bà, cha mẹ, nơi ta tha thiết gắn bó khi gần và quay quắt nhớ lúc chia xa. Mỗi một miền quê đều có một nét riêng, ta gọi đó là hồn quê, có khi đó là lũy tre xanh, là hàng dừa trước ngõ, là con đường đất đỏ đến trường…

Với Tế Hanh, chàng trai mười tám tuổi xa quê, nhớ về quê hương, một làng chài giáp sông, ven biển của mình, ông lại nhớ:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng, bao la thâu góp gió.

Thân bài: Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết làng quê mình. Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với mảnh hồn làng.

Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.

Đến với Huế thơ, ta sẽ đến với chùa Thiên Mụ, đến với dòng sông Hương dịu dàng pha lẫn trầm tư y còn đến miền quê quan họ vùng đồng bằng Bắc Bộ là ta lại đến với hương nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong: Đây chính là hồn quê hương. Còn với Tế Hanh quê hương ông là:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

Thì điệu hồn ấy phải hoành tráng, lãng mạn giống như cánh buồm giương. Đó là hồn của miền quê biển, giản dị mà sức vóc tung tỏa biết bao. Phải chăng Tế Hanh đã hóa hồn mình vào cánh buồm đó để nghe thấy hồn làng trên một cánh buồm giương.

Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám đã có những hình ảnh đẹp, lãng mạn miêu tả về cánh buồm:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lưới giữa mây cao với biển bằng

Ở đây Tế Hanh cũng miêu tả cánh buồm no gió, nhưng nhà thơ đã nhân hóa nó với dáng vóc của chàng trai mười tám khỏe mạnh, vạm vỡ đẹp lãng mạn đến say người.

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Cánh buồm cảng là do có gió thổi vào nhưng ở đây có sự đảo ngược, cánh buồm ấy mang dáng vóc của một chàng lực sĩ rướn thân trắng, ưỡn căng lồng ngực mênh mông, hít một hơi dài chủ động thu hết sóng gió bao,la của biển khơi để bay lên, ngang tầm với không gian mênh mông của đại dương. Hình ảnh thơ thật hào hùng, kỳ vĩ, mơ mộng đầy chất lãng tử, thi nhân. Đẹp biết bao cánh buồm ấy, như một sinh thể che chở bảo vệ cho con thuyền, cho làng chài bằng tất cả sức mạnh tích tụ từ biển khơi. Nó phập phồng hơi thở, sự sống, nhịp đập của trái tim biển cả.

Kết bài: Biển không chỉ cho ta cá như lòng mẹ, biển quê hương còn cho ta nguồn thơ đầy sức sống. Rõ ràng đây là hai câu thơ được viết ra từ tấm lòng tha thiết gắn bó miền quê giáp sông, ven biển, mặn mòi hương vị biển. Câu thơ đẹp nhưng quả thật nó linh diệu, lung linh giữa khả giải và bất khả giải.

Cảm nhận hình ảnh Cánh buồm trong bài thơ Quê hương [Tế Hanh]

Nhà thơ Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Hoa niên [1945]; Hoa mùa thi [1948]; Nhân dân một lòng [1953]; Bài thơ tháng bảy [1961]. Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ được sáng tác năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào [1939] và sau đó được in trong tập Hoa niên [1945]

Hai câu thơ "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng/ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..." đã thể hiện được hình ảnh cánh buồm thiêng liêng và đẹp đẽ. Hình ảnh cánh buồm trắng chính là linh hồn của bài thơ. "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng" đã sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ. So sánh, ẩn dụ cánh buồm với mảnh hồn làng là để hình tượng hóa mảnh hồn làng cũng như linh thiêng hóa cánh buồm. Cánh buồm ra khơi mang theo những ước mơ khát vọng của những người dân làng chài ra khơi. Phải chăng mảnh hồn làng chính là những tâm tư, ước mơ, khát vọng của người dân làng chài? Biện pháp này làm cho hình ảnh cánh buồm trở nên sinh động và thiêng liêng. Cùng với đó, "Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" là cánh buồm được nhân hóa qua từ “rướn", "thâu góp" làm cho con thuyền trở nên sinh động chân thực như 1 con người. Đến khổ thơ cuối, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với cánh buồm vôi. Là một người con xa quê, nỗi nhớ và tình yêu dành cho quê hương luôn thường trực trong tâm trí của tác giả về màu nước xanh, về cánh buồm trắng và cá bạc.

Tóm lại, hai câu thơ đã thể hiện được hình ảnh thiêng liêng và đẹp đẽ của cánh buồm ra khơi. Từ đó, ta thấy được tình cảm của tác giả dành cho quê hương và làng chài của mình.

Ngoài tham khảo bài Cảm nhận của em về hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ sau: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng, Rướn thân trắng bao la thâu góp gió". để hiểu thêm về tác phẩm, có những giờ học Ngữ văn 8 hiệu quả và say mê, mời các bạn tham khảo thêm những bài văn mẫu, phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh đầy đủ, chi tiết như.

  • Cảm nhận về đoạn thơ thứ 3 của bài Quê hương
  • Soạn bài Quê hương [Tế Hanh]
  • Đề kiểm tra 15 phút môn Ngữ văn lớp 8 bài 41: Quê hương
  • Cảm nhận của em về bức tranh làng quê qua bài thơ “Quê Hương”, tác giả Tế Hanh
  • Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Quê hương: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…..Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 8 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 8 và biết cách soạn bài lớp 8 các Tác giả - tác phẩm Ngữ văn 8 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh xem tài liệu.

Video liên quan

Chủ Đề