Khái niệm đặc điểm vai trò của thuế giá trị gia tăng

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng1.1.1. Khái niệmThuế giá trị gia tăng là thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá và dịchvụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu ở khâu tiêu thụhàng hoá, dịch vụ.Như vậy, thuế GTGT đánh trên phần giá trị mới được tạo ra [giá trị gia tăng]trong quá trình sản xuất kinh doanh.Vấn đề cơ bản là phải xác định được giá trị gia tăng ở mỗi giai đoạn sản xuất kinhdoanh, có như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế giá trị gia tăng của giaiđoạn đó.Giá trị gia tăng được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị hàng hoá, dịch vụbán ra với tổng trị giá hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng trong kỳ tính thuế:Giá trị gia tăngSố thuế GTGT==Tổng giá trị hàng hoá,dịch vụ bán ra-Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụmua vào tương ứngGTGT của hàng hóa, dịchvụ chịu thuếXThuế suất thuế GTGT của hànghóa, dịch vụ đóCó thể thấy thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào hành vi tiêu dùng hànghoá, dịch vụ. Tuy nhiên về bản chất, thuế GTGT khác với các loại thuế gián thu khác,điều này thể hiện qua các đặc điểm của thuế GTGT.1.1.2. Đặc điểm của thuế GTGT- Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào đối tượng tiêu dùng hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT [vì vậy thuế GTGT là một loại thuế tiêu dùng, đối với cơ sởkinh doanh thì đây là loại thuế gián thu], là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá vàdịch vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp, hay nói cách khácgiá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng mua bao gồm cả thuế GTGT.Ví dụ:Giá hàng hoá, dịch vụ chưa thuế là: 100Thuế suất thuế GTGT là 10% => Thuế GTGT là 10Giá người tiêu dùng phải trả là: 100 + 10 = 110 [giá bao gồm cả thuế GTGT].Tính gián thu của thuế GTGT biểu hiện: người mua hàng hoá, dịch vụ là ngườiphải trả khoản thuế này thông qua giá mua của hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, người muakhông trực tiếp nộp thuế GTGT vào NSNN mà trả thuế thông qua giá thanh toán hànghoá và dịch vụ cho người bán, trong đó bao gồm cả khoản thuế GTGT mà người mua trả.Người bán thực hiện nộp khoản thuế GTGT phải nộp “đã được người mua trả” vàoNSNN.- Thuế GTGT đánh vào GTGT của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở các giai đoạn từsản xuất, lưu thông đến tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó. Tổng số thuế GTGT thu được ởtất cả các giai đoạn sẽ bằng số thuế GTGT tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuốicùng.Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng. Tuy nhiên,trên thực tế khó xác định được đâu là khâu bán hàng cuối cùng, đâu là khâu bán hàng trunggian. Do vậy cứ có hành vi mua hàng là phải tính thuế. Số thuế GTGT ở khâu trước sẽđược tự động chuyển vào giá bán hàng ở khâu sau và người tiêu dùng cuối cùng là ngườiphải trả toàn bộ số thuế GTGT đánh trên hàng hoá đó. Tổng số thuế người tiêu dùng cuốicùng phải trả bằng tổng số thuế phát sinh qua từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinhdoanh hàng hoá, dịch vụ.Ví dụ:Giả sử vải bán trên thị trường được luân chuyển qua các khâu: từ bông kéo thànhsợi, sợi dệt thành vải và bán trên thị trường, thuế suất thuế GTGT ở mỗi khâu là 10%, cóbảng sau:Cơ sở kinhdoanhGiá muaGiá bán [chưacó thuế GTGT]Giá trị giatăngSố thuế GTGTphải nộp[1][2][3][4] = [3] - [2][5] = [4]*10%Bông-10001000100Sợi1000150050050Vải1500230080080Bán trên thịtrường230030007000703000300Tổng cộngQua bảng trên thấy ở mỗi khâu luân chuyển thì cơ sở kinh doanh đều phải nộpthuế GTGT trên GTGT tương ứng của khâu đó, và tổng số thuế GTGT ở các khâu cộnglại chính bằng số thuế cuối cùng mà người tiêu dùng phải chịu [100 + 50 + 80 + 70 =300].So với thuế doanh thu thấy: thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sởđể thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phátsinh của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếucác sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăngthêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặpđối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tácđộng tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như vậy, đặc điểm trên cho thấy thuếGTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là “thuế chồng lên thuế”.- Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao.Tính trung lập biểu hiện ở hai khía cạnh:Thứ nhất, thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của ngườinộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ khoản thuếnày vào NSNN. Do vậy thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí sản xuất mà chỉ đơnthuần là một khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hoá dịchvụ.Thứ hai, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá trìnhsản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số thuế tính trên giábán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.- Về phạm vi đánh thuế: thuế GTGT chỉ đánh vào hoạt động tiêu dùng diễn ratrong phạm vi lãnh thổ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh thổ. Đặc điểm nàytạo ra sự công bằng trong những giao dịch quốc tế thông qua việc không thu thuế đối vớihàng hoá, dịch vụ xuất khẩu và đánh thuế đối với hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăngThuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ môđối với nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thịtrường có sự quản lý của nhà nước, do đó thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng vàđược thể hiện như sau:- Thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân tiêu dùng hànghoá, dịch vụ chịu thuế GTGT.- Thuế GTGT là khoản thu quan trọng của Ngân sách nhà nước.Thuế giá trị gia tăng tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sáchnhà nước.Ở Việt Nam, thuế GTGT hiện nay chiếm tỷ trọng khoảng 20-23% trong tổng thutừ thuế, phí và lệ phí.Nguồn: Bộ Tài chính- Thuế GTGT không trùng lắp, do thuế GTGT chỉ tính vào giá trị tăng thêm của hànghoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, không tính vào phần giá trị đã chịuthuế GTGT ở các khâu trước, thuế đã nộp ở các khâu trước được tính khấu trừ ở khâu saunên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyếnkhích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với pháttriển kinh tế thị trường.- Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thông qua áp dụng thuế suất 0%,doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ không những không phải chịu thuế GTGT ởkhâu xuất khẩu mà còn được hoàn toàn bộ số thuế đầu vào đã thu ở khâu trước nên có tácdụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh về giá hàng hoá,dịch vụ xuất khẩu trên thị trường quốc tế.- Thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ vàthanh toán qua ngân hàng vì việc tính thuế đầu ra, khấu trừ thuế GTGT đầu vào quy địnhrõ phải căn cứ trên hoá đơn mua vào, bán ra; hàng hoá xuất khẩu mua bán phải thanhtoán qua ngân hàng.Tóm lại: Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến; việc áp dụng thuế GTGT khắcphục nhược điểm của thuế doanh thu trước đây là “thuế chồng lên thuế”; thuế GTGT cónhiều ưu điểm, tác dụng tích cực tới khuyến khích sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăngcường đầu tư, tăng thu cho NSNN.

Pháp luật quy định thuế là bắt buộc đối với người nộp thuế, thuế có nhiều loại như thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng….Vậy vai trò, đặc điểm thuế giá trị gia tăng được pháp luật quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu những quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Luật sư tư vấn luật miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Thuế giá trị gia tăng là gì?

Thuế GTGT còn gọi là VAT là từ viết tắt của Value Added Tax. Tại một số quốc gia như Australia, New Zealand, Canada, Singapor thì thuế này được gọi là “Goods and Services Tax” viết tắt là GST nghĩa là thuế hàng hóa và dịch vụ, còn tại Nhật Bản thì nó được biết đến dưới tên gọi: “thuế tiêu thụ”. Do VAT có mục đích là một khoản thuế đối với việc tiêu thụ, cho nên hàng xuất khẩu [theo định nghĩa này thì người tiêu dùng ở nước ngoài] thường không phải chịu thuế VAT hoặc VAT đối với người xuất khẩu được hoàn lại.

VAT được một nhà kinh tế học người Pháp là Maurice Lauré nghĩ ra vào năm 1954 khi là giám đốc cơ quan thuế của Pháp dưới tên gọi là taxe sur la va le ur ajoutée [TVA trong tiếng Pháp] và áp dụng nó lần đầu từ ngày 10/4/1954 đối với các doanh nghiệp lớn và mở rộng theo thời gian với tất cả các bộ phận kinh tế. Theo đó người tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ không thể hoàn lại được VAT khi mua hang nhưng các doanh nghiệp thì có thể được hoàn lại VAT đối với các nguyên vật liệu và dịch vụ mà họ mua để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ tiếp theo để trực tiếp hay gián tiếp bán cho người sử dụng cuối cùng. Theo cách này tổng số thuế phải thu trong mỗi công đoạn trong dây chuyền kinh tế là một tỷ lệ cố định đối với phần giá trị gia tăng được công đoạn kinh doanh thêm vào trong sản phẩm và phần lớn chi phí trong thu thuế được sinh ra bởi việc kinh doanh chứ không phải bởi nhà nước.

Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Tính đến nay đã có 130 quốc gia áp dụng thuế GTGT.

Ở nước ta để thay thế cho Luật thuế doanh thu 1990, Luật thuế GTGT được quốc hội khóa X thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 đã có hiệu lực thi hành 01/01/1999; và sau này là Luật thuế GTGT 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.

Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hoá, nhận dịch vụ.

Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lư thông đến tiêu dùng”. Như vậy, xét về bản chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông qua giả cả hàng hoá dịch vụ. Điều này giúp cho cơ quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự phản ảnh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Những phân tích này cho thấy việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại một quốc gia cần phải cân nhắc tỉnh phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại thuế này cho nền kinh tế.

Thực hiện thuế giá trị gia tăng, có thể làm ảnh hưởng tới các vấn đề tiêu dùng, mức độ lạm phát.

Xem thêm: Hoạt động ngân hàng là gì? Khái quát về hoạt động ngân hàng?

Thuế giá trị gia tăng có thể ảnh hưởng tới sức tiêu dùng của công chúng. Xuất phát từ chỗ thuế giá trị gia tăng cấu thành trong giá bán [giá thanh toán], sức tiêu dùng của công chúng phụ thuộc vào quan hệ giữa thu nhập với giá cả hàng hoá dịch vụ. Tỷ trọng giữa giá cả và thu nhập của người chịu thuế càng cao, càng làm giảm cơ hội tiêu dùng trong công chúng. Phân tích yếu tố này giúp cho cơ quan lập pháp tìm ra phương án tối ưu về cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trong những giai đoạn nhất định. Nếu xét theo khía cạnh thuế với các chỉ số giá cả, dương nhiên cũng có mối liên quan nhất định. Số tiền thuế giá trị giá tăng trong giá bán làm thay đổi chỉ số giá cả, lạm phát trong những giai đoạn có sự thay đổi về thuế. Xác định mối liên quan giữa loại thuế này với chỉ số giá cả, lạm phát có ý nghĩa đối với nhà lập pháp khi quyết định chính sách thuế suất hợp lí trong những giai đoạn nhất định để đảm bảo khi thực hiện thuế giá trị gia tăng không gây ra những xáo trộn lớn trong dân chúng. Việc áp dụng thành công thuế giá trị gia tăng tại Pháp được đánh giá là nhờ chính sách thuế suất hợp lí qua các giai đoạn cụ thể.

2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng:

Thuế giá trị gia tăng có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hoá dịch vụ khác [như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu nhập khẩu] nhưng có thể nhận diện thuế giả trị gia tăng thông qua đặc điểm của nó.

Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi chủ thể tồn tại trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Chính đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với đời sống kinh tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với những trường hợp cần phải khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế đến mức tối đa việc trả tiền thuế từ phần thu nhập ít ỏi của họ do hành vi tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất. Phương án ngược lại được áp dụng đối với trường hợp hạn chế tiêu dùng.

Thứ hai, thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ. Việc đánh thuế chi trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hoá dịch vụ làm cho số thuế giá trị gia tăng áp dụng trong mỗi khẩu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế giá trị gia tăng còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương

thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.

Làm rõ phần giá trị tăng thêm là nội dung quan trọng, một mặt lí giải cơ sở quy định phần chịu thuế trong pháp luật thuế giá trị gia tăng, mặt khác đưa ra các phương án khả thi để xác định phần giá trị tăng thêm đối với các chu trình lưu thông khác nhau của hàng hoá,

Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu kinh tế, giá trị gia tăng là phần chênh lệch giữa giá trị sản xuất, tiêu dùng và giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hóa dịch vụ tiêu thụ, theo C. Mác, đây chính là quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Nếu xét về lí thuyết và cơ cấu hình thành giá trị tăng thêm, có nhiều phương án lựa chọn. Tuy vậy, việc xác định phần giá trị gia tăng gần với quan hệ pháp luật thuế, phải có đủ căn cứ thực tế chính xác, đảm bảo quyền của Nhà nước nhưng không vi phạm nguyên tắc công bằng [theo chiều ngang] giữa các chủ thể nộp thuế.

Trong thực tiễn pháp lí, các quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng đều xác định giá trị tăng thêm dựa trên cơ sở chứng từ chứng minh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể nộp thuế, Cụ thể, các chứng từ hóa đơn được coi là bằng chứng quan trọng khi xác định phần giá trị tăng thêm. Lựa chọn phương pháp xác định giá trị tăng thêm theo chứng từ hoa đơ có rất nhiều lợi thế: Một mặt, Nhà nước kiểm soát mọi hoạt động của chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế; mặt khác, các chủ thể kinh doanh dần đi vào khuôn khổ pháp luật và Nhà nước tạo cơ hội cho các chủ thể này tự kiểm soát lẫn nhau.

Xem thêm: Khác biệt giữa thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt

Thứ ba, nếu dựa trên giả mua cuối cùng của hàng hoá dịch vụ, số thuế giá trị gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khẩu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá ở trong nước, khu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khẩu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hoá dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế giá trị gia tăng phải nộp qua các khẩu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hoá dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế giá trị gia tăng so với thuế hàng hoá dịch vụ thông thường [thuế doanh thu] mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây,

Nếu như thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời thì thuế giá trị gia tăng có thể coi là loại thuế hiện đại, áp dụng chính thức lần đầu tiên tại Pháp năm 1954, mặc dù đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ những năm 1920 ở các quốc gia khác nhau. Cho đến nay, loại thuế này đã được áp dụng ở trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Ở Việt Nam, trước năm 1990, thuế doanh thu áp dụng đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành theo Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày 18/01/1966 quy định loại thuế này. Đối với các xí nghiệp quốc doanh, áp dụng chế độ thu quốc doanh”, được quy định cụ thể trong từng thời gian nhất định. Mức thu quốc doanh được xác định riêng cho từng mặt hàng, từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Do áp dụng hai chế độ thu khác nhau, thể hiện phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bên cạnh đó chế độ thu quốc doanh cũng bộc lộ những nhược điểm cơ bản. Năm 1990, Quốc hội ban hành Luật thuế doanh thu, áp dụng chung cho các chủ thể có hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thuế doanh thu áp dụng đối với tất cả các tổ chức cá nhân kinh doanh, có doanh thu phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.

Căn cứ tính thuế của thuế doanh thu là doanh thu tỉnh thuế và thuế suất. Theo đó, doanh thu tính thuế được xác định là toàn bộ doanh thu phát sinh của mỗi khẩu sản xuất, lưu thông Như vậy, hàng hóa công qua nhiều khâu của quá trình lưu thông, số tiền thuế doanh thu được tính cho hàng hoa đó càng lớn. Vì đánh thuế dựa trên toàn bộ giá trị bán hàng [lả giá đã có thuế doanh thu], hiện tượng thuế đánh chồng trên thuế được coi là hạn chế cơ bản. Bên cạnh đó, chế độ thuế suất của thuế doanh thu cũng rất phức tạp, theo từng ngành nghề, hoạt động kinh doanh, rất khó khăn cho quá trình áp dụng và cũng dễ này sinh những vi phạm pháp luật về thuế.

Những hạn chế của thuc doanh thu hoàn toàn có thể khắc phục được bởi thuế giá trị gia tăng. Vì vậy, Việt Nam cũng thực hiện từng bước, thay thế Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế giá trị gia tăng, tạo cơ sở pháp lí cho việc thực hiện loại thuế mới, với nhiều ưu việt.

Video liên quan

Chủ Đề