Mạng lưới đô thị nước ta hiện nay như thế nào

Tin tức

Phát triển mạng lưới đô thị biển - một hướng đi mới của kinh tế biển nước ta

03/11/2020 13:23
Xem cỡ chữ
Print
Vùng ven biển, biển và các đảo nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên, tập trung sôi động các hoạt động phát triển của con người, ở ba vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế biển, khu công nghiệp và khu chế xuất,.... Không ít đảo/cụm đảo có lợi thế địa lý, có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế đảo với các cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ biển xa hiện đại, giúp Việt Nam tiến ra đại dương, hội nhập với thế giới.

Tiềm năng, lợi thế phát triển đô thị biển ở nước ta

Đô thị biển được hiểu gồm 3 kiểu loại: đô thị ven biển [Coastal city], đô thị đảo/quần đảo [Island city] và đô thị biển [Ocean-based city], thường được tổ chức thành các chuỗi đô thị và chiếm cứ các mảng không gian tương ứng: không gian ven biển, không gian đảo/quần đảo và không gian biển. Gắn với không gian biển, đảo và vùng ven biển nên các đô thị biển có lợi thế về các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, đặc sắc, đa dụng [multi-use]; về vị trí cửa ngõ giao thương đường biển, đường bộ, đường không; có thế mạnh về phát triển đa ngành, đa lĩnh vực kinh tế ven biển, kinh tế đảo và kinh tế biển. Vì thế, mỗi đô thị biển trở thành một cực phát triển chủ công, có tác động lan tỏa, có vai trò kiến tạo liên kết vùng trong quá trình phát triển kinh tế biển, đồng thời là các trung tâm tích tụ và điều tiết dân số biển, đảo...

Đất nước ta ba phần là biển; bờ biển dài hơn 3.260 km với 114 cửa sông lớn, trên 50 vũng vịnh và 12 đầm phá ven biển điển hình; hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, tập trung ở vùng biển ven bờ và ngoài khơi thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Đặc biệt có một quần thể khoảng 2.400 đảo đá vôi lớn nhỏ phân bố tập trung ở vùng biển sát bờ Quảng Ninh - Hải Phòng, chứa đựng các giá trị ngoại hạng toàn cầu, độc nhất vô nhị, trong đó có Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.

Vùng ven biển, biển và các đảo nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên, tập trung sôi động các hoạt động phát triển của con người, ở ba vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế biển, khu công nghiệp và khu chế xuất,.... Không ít đảo/cụm đảo có lợi thế địa lý, có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế đảo với các cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ biển xa hiện đại, giúp Việt Nam tiến ra đại dương, hội nhập với thế giới.

Mạng lưới đô thị biển - một lĩnh vực kinh tế biển mới ở nước ta

Cả nước đang triển khai thực hiện Chiến lược biển 2030, tiềm năng kinh tế biển nước ta đang được đánh thức, cần cụ thể hóa và chú trọng giải quyết đồng bộ các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; với bảo đảm an sinh xã hội và các gía trị văn hóa biển; với sử dụng hợp lý tài nguyên biển; với bảo vệ môi trường biển; với kinh tế ven biển, kinh tế đảo và kinh tế nội địa.

Theo đó, trong số các mảng không gian dành cho phát triển của các ngành, nghề kinh tế biển, không gian đô thị biển cần phải được đặt vào vị trí xứng đáng, tương xứng tiềm năng và lợi thế trong bình đồ tổ chức không gian phát triển kinh tế biển nước ta đến năm 2045 và xa hơn. Nói cách khác, cần phải xem phát triển đô thị biển như một lĩnh vực của kinh tế biển.

Xây dựng Mạng lưới đô thị biển để hình thành các cực phát triển động lực, có khả năng nối kết không gian kinh tế ven biển với không gian kinh tế đảo và không gian kinh tế biển. Phát triển đúng hướng và hiệu quả, mạng lưới chuỗi đô thị biển này sẽ tạo ra thế và lực mới, vững chắc cho kinh tế biển nước nhà trong tương lai; đánh thức tiềm năng vốn có ở các vùng biển, ven biển và đảo. Rộng hơn, phát triển mạng lưới đô thị biển góp phần khẳng định thế đứng của một Quốc gia biển chứ không phải Quốc gia ven biển, để Việt Nam không mãi đứng ven bờ. Khi đó, Việt Nam mới thực sự tiến ra biển lớn, đánh thức mặt tiền, chuẩn bị điều kiện công nghệ hiện đại để sớm tiến ra đại dương, lấy đại dương nuôi đất liền.

Hiện thực hóa mạng lưới đô thị biển ở nước ta

Để hiện thực hóa mạng lưới đô thị biển ở nước ta, cần nhiều giải pháp, nhưng phải đồng bộ và làm tốt khâu phối hợp liên ngành,... Trước hết, cần thay đổi tư duy và tầm nhìn để ra biển với tâm thức, tư thế mới; cụ thể hóa một bước chủ trương và nhiệm vụ của Chiến lược biển 2030. Thứ hai, phải điều chỉnh và hoàn thiện luật pháp và chính sách để phát triển bền vững kinh tế biển, dựa trên cơ sở của kinh tế biển xanh với việc bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển.

Thứ ba, biển phải được quản lý tổng hợp theo không gian, phù hợp với Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 [UNCLOS 1982], phù hợp với quy hoạch không gian biển quốc gia [theo Luật Quy hoạch 2017]. Đặc biệt, loại hình quy hoạch mới này phải trở thành công cụ kiểm soát phát triển biển, đảo và vùng ven biển trong thời gian tới.

Thứ tư, trong quy hoạch không gian biển quốc gia, ngoài các không gian sử dụng cho các ngành/lĩnh vực kinh tế biển truyền thống [khai thác và nuôi trồng thủy sản, cảng và luồng tuyến hàng hải, du lịch biển, khai thác khoáng sản biển,...], cần phải dành riêng không gian cho phát triển các đô thị biển, năng lượng biển tái tạo và các khu bảo tồn tự nhiên biển. Thứ năm, cần xây dựng lộ trình và hướng dẫn kỹ thuật phát triển từng kiểu loại đô thị biển: đô thị ven biển, đô thị đảo và đô thị biển để cung cấp những nguyên tắc cơ bản cho các nhà đầu tư lựa chọn và thúc đẩy sáng tạo cho những khu đô thị biển cụ thể.

Cần nhấn mạnh rằng, việc huy động vốn để phát triển đô thị biển như nói trên không thể chỉ dựa vào Nhà nước, nhất là các khu đô thị biển mới. Cho nên, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp/tập đoàn kinh tế lớn chủ động đầu tư vào làm giàu cho đất nước, làm lợi cho xã hội, hỗ trợ người dân. Đặc biệt, cần chú ý vận dụng hai nguyên tắc cơ bản: [i] bảo đảm cân bằng và hài hòa giữa phát triển và bảo tồn, không đánh đổi môi trường bằng mọi giá; [ii] bảo đảm công bằng giữa phát triển và bảo tồn thông qua tăng cường trách nhiệm pháp lý của Nhà nước và nhà đầu tư thông qua các cam kết có ràng buộc pháp lý./.

Nguồn: biengioilanhtho.gov.vn

Video liên quan

Chủ Đề