Theo phương pháp định giá sản phẩm dựa vào chi phí [cost based-pricing], giá bán
được đưa ra dựa vào các chi phí liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Chí phí là yếu tố quyết định giá bán. Ngược lại, nhiều công ty định giá sản phẩm
của họ dựa vào giá trị nhận được [value based-pricing]. Giá bán được xây dựng
trước khi tính đến các chi phí liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Công ty
ước tính giá trị nhận được của người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa/ dịch vụ của
công ty là giá bán. Căn cứ vào giá trị mục tiêu và giá bán mục tiêu, các quyết định
về thiết kế sản phẩm và chi phí được đưa ra [Kotler và Armstrong, 2001, dẫn theo
Breidert , 2005]. Việc định giá sản phẩm dựa và giá trị nhận được khó khăn hơn dựa
vào chi phí nhưng tiềm năng lợi nhuận của chiến lược giá dựa vào giá trị nhận được
lớn hơn nhiều so với bất kỳ phương pháp định giá nào khác [Monroe, 2003, dẫn
theo Breidert, 2005]. Tuy nhiên, việc nhận định giá trị nhận được của khách hàng
sai gây ảnh hưởng lớn đến doanh thu của sản phẩm. Nếu công ty nhận định giá trị
khách hàng nhận được nhiều dẫn đến định giá sản phẩm quá cao, sản phẩm sẽ
không tiêu thụ được, doanh thu bị ảnh hưởng. Ngược lại, nhận định giá trị nhận
được thấp dẫn đến giá bán thấp, doanh thu cũng bị ảnh hưởng.
3.1.1.2 Giá tối đa:
Nagle và Holden [2002], Monroe [2003], dẫn theo Breidert [2005], định
nghĩa giá tối đa như sau:
Giá tối đa [pmax] của một sản phẩm được hình thành bởi người tiêu dùng như
là sự nhận biết mức giá tham khảo của các sản phẩm tham khảo cộng với giá trị
khác biệt giữa sản phẩm tham khảo và sản phẩm quan tâm.
Mức giá tối đa được thể hiện như sau:
Pmax = pref + pdiff
trong đó: Pmax là giá tối đa, pref là giá trị tham khảo, pdiff là giá trị khác biệt. Giá trị
tham khảo [pref] là chi phí mà khách hàng bỏ ra để mua một sản phẩm cạnh tranh mà
họ cho là sự thay thế tốt nhất của sản phẩm họ đang quan tâm. Giá trị khác biệt
[pdiff] là giá trị của bất kỳ sự khác biệt nào giữa sản phẩm quan tâm và sản phẩm
tham khảo. Như vậy, sản phẩm hoàn hảo, ưu việt nhất so với các sản phẩm cạnh
tranh sẽ có giá bán tối đa. Mấu chốt để có giá bán tối đa là khác biệt hóa sản phẩm,
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
tức là sửa đổi một sản phẩm làm nó thu hút hơn, khác biệt hơn đối với một nhóm
khách hàng nhất định. Sự khác biệt đòi hỏi một chiến lược giá tinh vi dựa vào giá trị
nhận được của sản phẩm [Kotler và Armstrong [2001], dẫn theo Breidert [2005]].
3.1.1.3 Giá hạn chế:
Theo Varian [[2003], dẫn theo Breidert [2005]]: Các nhà kinh tế gọi mức sẵn
lòng chi trả tối đa của một người là mức giá hạn chế của người đó. Giá hạn chế là
mức giá cao nhất mà một người chấp nhận và vẫn mua sản phẩm. Nói cách khác,
giá hạn chế của một người là mức giá mà tại đó anh ấy hoặc cô ấy quyết định giữa
việc mua hàng và không mua hàng.
Theo Breidert [2005], giá hạn chế [pres] của một vài sản phẩm là mức giá mà
tại đó người tiêu dùng không thấy sự khác biệt giữa việc tiêu thụ hoặc không tiêu
thụ sản phẩm [hoặc bất kỳ loại hàng hóa nào khác của cùng một lớp sản phẩm].
3.1.2 Mức sẵn lòng chi trả theo lý thuyết marketing
Theo Breidert [2005], khi mua sắm một sản phẩm, khách hàng sẵn lòng chi
trả bao nhiêu phụ thuộc vào giá trị kinh tế nhận được và mức độ hữu dụng của sản
phẩm. Hai giá trị xác định mức giá một người sẵn lòng chấp nhận là mức giá hạn
chế và mức giá tối đa. Tùy thuộc nhận định của khách hàng khi mua sản phẩm là
sản phẩm dự định mua không có sản phẩm thay thế thì để có được độ hữu dụng của
sản phẩm, khách hàng sẵn sàng chi trả khoản tiền cao nhất là mức giá hạn chế; hoặc
sản phẩm thay thế của sản phẩm dự định mua có giá trị kinh tế thấp hơn mức hữu
dụng thì mức giá cao nhất khách hàng chấp nhận chi trả bằng với giá trị kinh tế của
sản phẩm thay thế là mức giá tối đa. Mức sẵn lòng chi trả được định nghĩa là mức
giá cao nhất một cá nhân sẵn sàng chấp nhận chi trả cho một hàng hóa hoặc dịch vụ.
Theo Turner, Pearce và Bateman, [1995], dẫn theo Phan Đình Hùng, 2011
cho rằng mức sẵn lòng chi trả đo cường độ ưa thích của một cá nhân hay xã hội đối
với một thứ hàng hóa đó. Đo lường mức độ thỏa mãn khi sử dụng một hàng hóa nào
đó trên thị trường được bộc lộ bằng mức giá sẵn lòng chi trả của họ đối với mặt
hàng đó.
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
3.1.2 Khái niệm về mức sẵn lòng chi trả theo lý thuyết kinh tế học
3.1.2.1 Cầu người tiêu dùng
Theo David Begg [2009], cầu của người tiêu dùng về một hàng hóa được
định nghĩa như là mối quan hệ tồn tại giữa giá cả và lượng cầu của hàng hóa tại một
thời điểm. Mọi điểm trên đường cầu [D] của hàng hóa biểu diễn quan hệ giữa giá cả
và lượng cầu tương ứng thể hiện tất cả các mức độ sẵn sàng trả tiền của người tiêu
dùng đối với hàng hoá đó. Giá cả và lượng cầu tồn tại mối quan hệ nghịch biến,
lượng cầu hàng hóa tăng lên khi giá cả hàng hóa thấp đi.
Xem xét đường cầu của sản phẩm A tại hình 1, người tiêu dùng sẽ mua Q 1
đơn vị sản phẩm với mức giá 1 đơn vị sản phẩm là P 1. Người tiêu dùng sẽ mua Q 2
đơn vị sản phẩm nếu mức giá 1 đơn vị sản phẩm là P 2. Người tiêu dùng sẽ mua
thêm lượng hàng hóa là [Q 2 – Q1] đơn vị nhưng giá bán sản phẩm cũng đã giảm từ
P1 xuống P2.
Hình 1: Đường cầu
P
P1
P2
Như vậy, khi số lượng hàng hóa tiêu thụ
tăng lên, sự sẵn sàng trả tiền của người tiêu
[D]
O
Q1
Q2
Q
dùng cho mỗi đơn vị hàng hóa mua thêm sẽ
giảm xuống. Điều này hoàn toàn phù hợp
với quy luật về hữu dụng cận biên giảm dần
3.1.2.2 Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
.
Xem xét sản phẩm A có đường cầu [D] và đường cung [S] như hình 2. Tại
điểm cân bằng thị trường M là điểm cắt của đường cung và đường cầu, mức giá cân
bằng thị trường của sản phẩm A là P* và sản lượng cân bằng thị trường là Q*.
Hình 2: Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
P
P1
[S]
Thặng dư tiêu dùng
CS
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
P*
M
PS
P2
O
[D]
Thặng dư sản xuấtQ*
Q
Nguồn: Mankiw [2003]
Phần thặng dư của nhà sản xuất là chênh lệch giữa tổng doanh thu [diện tích
hình P*MQ*O] và tổng chi phí [diện tích hình P 2MQ*O], là diện tích tam giác
P2MP*.
Đối với người tiêu dùng, họ nhận được lợi ích [quy ra tiền] khi mua 1 sản
phẩm A bằng đúng số tiền họ bằng lòng bỏ ra để mua nó. Như vậy, tại hình 2, khi
người tiêu dùng mua Q* sản phẩm A thì lợi ích họ nhận được là diện tích hình
OP1MQ*. Chi phí thực tế bỏ ra để mua Q * sản phẩm A là diện tích hình P*MQ*O.
Lợi ích ròng mà người tiêu dùng nhận được khi sử dụng sản phẩm A là diện tích
tam giác P*MP1. Lợi ích ròng này chính là thặng dư tiêu dùng. Thặng dư tiêu dùng
là sự chênh lệch giữa lợi ích của người tiêu dùng nhận được khi tiêu dùng hàng hóa
và những chi phí thực tế để có được lợi ích đó.
3.1.2.3 Mức sẵn lòng chi trả theo lý thuyết kinh tế học
Người tiêu dùng thường chi tiêu cho sản phẩm A họ muốn tiêu dùng với mức
giá thị trường là P*. Tuy nhiên, tùy thuộc sở thích tiêu dùng của cá nhân người tiêu
dùng, họ chấp nhận chi tiêu với mức giá cao hơn giá thị trường để có được sản
phẩm A. Tại hình 2, mức giá cao nhất người tiêu dùng chấp nhận bỏ ra để mua sản
phẩm A là P1. Như vậy, mức sẵn lòng chi trả [WTP] chính là biểu hiện sở thích tiêu
dùng, là thước đo sự thỏa mãn của khách hàng. Người tiêu dùng mua Q * sản phẩm
A với giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm A chính là giá trị của sản phẩm cuối cùng là
Q*. Người tiêu dùng được hưởng thặng dư tiêu dùng vì họ chỉ phải trả một lượng
giá trị là Q* đồng đều cho từng đơn vị hàng hóa đã mua. Theo quy luật về hữu dụng
cận biên giảm dần, mức độ thỏa mãn của khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm A
giảm dần từ đơn vị sản phẩm thứ 1 đến đơn vị sản phẩm thứ Q *. Mức thỏa dụng
thặng dư người tiêu dùng sẽ nhận được từ đơn vị sản phẩm thứ 1 đến đơn vị sản
phẩm thứ Q*-1. Do vậy, đường cầu được mô tả giống như đường sẵn lòng chi trả của
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
người tiêu dùng. Miền nằm dưới đường cầu, bao gồm chi phí người tiêu dùng bỏ ra
để mua sản phẩm theo giá thị trường và thặng dư người tiêu dùng nhận được khi sử
dụng sản phẩm, đo lường tổng giá trị của WTP. Hay nói cách khác:
SOP MQ =SOP MQ +SP MP
*
1
*
*
*
1
trong đó:
SOP MQ : là diện tích hình OP MQ
*
1
1
*
thuộc miền nằm dưới đường cầu, biểu thị tổng
giá trị mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng.
SOP MQ : là diện tích hình OP MQ , biểu thị chi phí tính theo giá thị trường của
*
*
*
*
sản phẩm.
SP MP : là diện tích hình P MP , biểu thị thặng dư người tiêu dùng nhận được khi
*
1
*
1
mua sản phẩm.
3.1.3 Các phương pháp xác định mức sẵn lòng chi trả
Đối với nhà sản xuất, trước khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu
dùng họ thường xem xét sẽ bán hàng hóa, dịch vụ của mình với mức giá là bao
nhiêu tiền. Để tránh việc định giá hàng hóa một cách trực quan, không có sự tính
toán chính xác, dẫn đến những sai lầm về giá cả ảnh hưởng đến doanh thu và lợi
nhuận, nhà sản xuất phải cân nhắc về giá bán, số lượng bán ra và lợi nhuận kì vọng
thu được.
Đối với người tiêu dùng, khi mua một hàng hóa hay sử dụng một dịch vụ, họ
quan tâm đến mức độ thặng dư tiêu dùng mà họ nhận được khi sử dụng. Vì ngân
sách của người tiêu dùng là hữu hạn nên họ luôn lựa chọn mua các sản phẩm mang
lại cho họ nhiều thặng dư tiêu dùng hơn.
Do đó, việc xác định mức sẵn lòng chi trả cần được áp dụng trong quá trình
định giá bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và xác định đặc điểm cần có của hàng hóa,
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
dịch vụ [trong quá trình xây dựng sản phẩm] của nhà sản xuất. Mục đích của việc
xác định mức sẵn lòng chi trả là xác định thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng, xác
định mức chi phí khách hàng sẵn sàng bỏ ra để xây dựng giá bán tối ưu nhằm tối đa
hóa lợi nhuận thu được.
Mức sẵn lòng chi trả được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Theo Turner, Pearce và Bateman [1995] có 02 nhóm phương pháp cơ bản để xác
định là: phương pháp đánh giá hàng hóa thông qua đường cầu [cách của Marshall
hoặc Hicks] và phương pháp đánh giá hàng hóa không thông qua đường cầu.
Các phương pháp không thông qua đường cầu: phương pháp này không thể
cung cấp thông tin đánh giá, các đo lường về lợi ích thực nhưng vẫn là công
cụ tìm tòi hữu ích để thẩm định chi phí lợi ích của các dự án sản xuất. Bao
gồm các phương pháp:
• Phương pháp Thay đổi năng suất [Changes in Productivity]: được sử
dụng để xác định giá trị kinh tế của sự thay đổi sản lượng. Ưu điểm
của phương pháp này là đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện vì có thể xác
định được trực tiếp giá trị kinh tế, dựa trên các thông tin dễ thu thập
và quan sát được về giá và các mức sản lượng trên thị trường. Tuy
nhiên, việc áp dụng phương pháp này gặp phải vấn đề nhất định chẳng
hạn như sản lượng, giá trị hàng hóa có thể bị phản ánh sai trong một
số tình huống thay đổi hoặc hàng hóa sử dụng đa mục đích cần có sự
đánh đổi về giá trị…
• Phương pháp Chi phí thay thế [Substitue Cost Method]: được sử dụng
để tính các chi phí để sử dụng biện pháp thay thế hoặc phục hồi để
loại bỏ hoặc giảm lược các tác động bất lợi chẳng hạn như tác động
của ô nhiễm không khí đối với cơ sở hạ tầng là cầu đường, nhà cửa…
Phương pháp này khá đơn giản trong ứng dụng do không phải thực
hiện các cuộc điều tra chi tiết nhưng việc xác định các biện pháp thay
thế hoặc phục hồi đôi khi rất khó khăn dẫn đến tính toán chi phí
không chính xác.
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
• Phương pháp chi phí phòng ngừa [Preventive Cost Method]: Để tránh
các thiệt hại có thể nhìn thấy trước, các biện pháp phòng ngừa thường
được sử dụng với chi phí thấp hơn thiệt hại thực tế xảy ra. Chi phí
phòng ngừa này được dùng làm cơ sở tính toán chi phí thiệt hại.
Phương pháp này đơn giản và có chi phí thấp hơn thực tế thiệt hại
nhưng chi phí phòng ngừa luôn bị hạn chế bởi thu nhập. Chẳng hạn
như việc tiêm chủng phòng bệnh, chi phí xây dựng đê điều,…
• Phương pháp chi phí y tế [Cost of Illness]: được sử dụng trong trường
hợp phát sinh chi phí do sức khỏe con người bị ảnh hưởng bởi ô
nhiễm môi trường. Chi phí về dịch vụ y tế chẳng hạn như chi phí
khám chữa bệnh, thuốc men, chi phí do năng suất lao động giảm …
được tính là chi phí do ô nhiễm môi trường tác động đến sức khỏe con
người.
Phương pháp thông qua đường cầu: cung cấp các thông tin đánh giá và các
đo lường về lợi ích, giá trị thặng dư tiêu dùng. Bao gồm các phương pháp:
• Phương pháp đo lường mức thỏa dụng [Hedonistic Pricing Method]:
được sử dụng để ước tính giá trị của môi trường ẩn trong giá trị của
các hàng hóa, dịch vụ thông thường như giá trị của khung cảnh bờ
sông ẩn trong giá bán của mảnh đất ven sông. Giá bán của mảnh đất
ven sông sẽ cao hơn giá bán của mảnh đất không có khung cảnh bờ
sông, mức chênh lệch giữa hai mảnh đất này là cơ sở để tính giá trị
kinh tế của khung cảnh bờ sông.
• Phương pháp chi phí du lịch [Travel Cost Method]: được sử dụng để
đánh giá giá trị giải trí tại các địa điểm có khách tham quan như công
viên, khu bảo tồn thiên nhiên, bãi biển…Giá vé vào cửa mà khách
tham quan phải bỏ ra khi đến thăm công viên, khu bảo tồn… thường
rất rẻ, không phản ánh đúng giá trị giải trí nơi đó nhưng có thể dùng
dữ liệu tổng chi phí du lịch khách tham quan phải chi trả để đến khu
bảo tồn, công viên… để xem xét. Ưu điểm của phương pháp này là dễ
được chấp nhận vì dựa trên sự chấp nhận chi trả thực tế của khách
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
tham quan nhưng việc này đòi hỏi phải có điều tra quy mô rộng, phân
tích thống kê phức tạp và vấn đề đa mục đích khi du khách tham quan
nhiều địa điểm trong cùng một chuyến đi.
• Phương pháp định giá ngẫu nhiên [Contigent Valuation Method]: là
phương pháp thực hiện khảo sát, đưa tra nhiều câu hỏi về sản phẩm
cũng như các đặc điểm kinh tế xã hội, tạo nên tình huống giả định, đề
xuất một hoặc nhiều phương án bán sản phẩm với nhiều mức giá khác
nhau cho người tiêu dùng lựa chọn. Phương pháp này phức tạp và tốn
kém hơn, đòi hỏi thực hiện phân tích thống kê phức tạp.
3.1.4 Các yếu tố tác động đến mức sẵn lòng chi trả:
Khái niệm mức sẵn lòng chi trả được sử dụng khá nhiều trong lĩnh vực kinh
tế môi trường. Theo Hanley và Spash [1993], dẫn theo Hoàng Thị Hương [2008],
mức sẵn lòng chi trả của người được điều tra có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
hoặc các biến khác nhau, bao gồm đặc điểm kinh tế xã hội của người đó như thu
nhập, trình độ học vấn, ...và một số biến đo lường "số lượng" của chất lượng môi
trường. Nói cách khác, mức sẵn lòng chi trả có thể được biểu diễn bằng hàm số như
sau:
WTP = f[Ii, Ai, Ei, qi]
Trong đó:
- i: chỉ số quan sát hay số người được điều tra.
- WTP: mức sẵn lòng chi trả.
- I: Biến thu nhập
- A: Biến tuổi
- E: Biến trình độ học vấn
- q: Biến đo lường "số lượng" của chất lượng môi trường.
Khi áp dụng khái niệm mức sẵn lòng chi trả vào các lĩnh vực khác bên ngoài
kinh tế môi trường, cần xem xét thêm các biến có thể ảnh hưởng đến mức sẵn lòng
chi trả. Về các biến thuộc đặc điểm kinh tế xã hội của người được điều tra, các biến
có thể ảnh hưởng như tuổi, ngành nghề, nơi sống, học vấn, thu nhập,....Các biến đo
lường "số lượng" của chất lượng môi trường ở đây nên được hiểu là chất lượng của
hàng hóa. dịch vụ mà nghiên cứu đang xem xét.
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
3.2 Các nghiên cứu trước
Johnson và ctg [2006] thực hiện nghiên cứu về “mức sẵn lòng chi trả cho các
hoạt động giải trí và thể thao không chuyên” của người dân tại thành phố Alberta
[Canada]. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên và lý thuyết hành
vi theo kế hoạch [Theory of Planned Behavior] để xác định mức sẵn lòng chi trả
cho thể thao và giải trí ở Alberta và các tiêu chuẩn đạo đức cá cược có ảnh hưởng
đến mức sẵn lòng chi trả này không. Khảo sát sử dụng kết quả điều tra trả lời của
967 người. Đối tượng khảo sát được đưa ra hai kịch bản giả thuyết, một liên quan
đến thể thao và một liên quan đến nghệ thuật. Kịch bản về thể thao cho rằng chính
quyền Alberta dường như đề nghị mở rộng các chương trình giải trí và thể thao
không chuyên, nhưng cũng đòi hỏi gia tăng thuế thu nhập địa phương. Kịch bản về
nghệ thuật cũng được đưa ra tương tự. Mỗi kịch bản được khảo sát trên 50% đối
tượng khảo sát của nghiên cứu. Mô hình WTP đối với các chương trình giải trí và
thể thao tại Alberta được các tác giả xây dựng:
WTP = f[$TAX, SCOPE, FIRST, MALE, RURAL, INCOME, MORAL]
với $TAX: mức gia tăng thuế thu nhập hàng năm đối tượng khảo sát bị yêu cầu trả;
SCOPE: điểm phần trăm gia tăng khi tham gia, FIRST: biến giả chỉ ra rằng kịch bản
giải trí và thể thao được giới thiệu trước, MALE: giới tính [nam hoặc nữ], RURAL:
khu vực sống, INCOME: thu nhập hàng năm các hộ gia đình, MORAL: là biến tỷ
lệ chỉ sự gia tăng độ ổn định đạo đức khi sử dụng tiền cá cược để gây quĩ chương
trình giải trí và thể thao. Kết quả khảo sát ước tính mức sẵn lòng chi trả ước tính
hàng năm là 18.33$ trên một hộ dân tại Alberta [Canada] cho việc nâng cấp nhỏ các
chương trình giải trí và thể thao không chuyên vượt xa mức sẵn lòng chi trả ước
tính của các hộ gia đình tại Mỹ để tránh gây tổn hại cho các đội tuyển thể thao tham
gia giải chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng nhận xét các tiêu chuẩn đạo
đức cá cược không ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả của người dân.
Zaiton Samdin [2008] thực hiện nghiên cứu mức sẵn lòng chi trả giá vé của
khách du lịch khi đến tham quan Công viên quốc gia Taman Negara [TNNP] tại
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
Malaysia để sử dụng các hàng hóa phi thị trường là vẻ đẹp phong cảnh, rừng nhiệt
đới và cuộc sống hoang dã. Khảo sát sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên
CVM, thu thập số liệu bằng cách đưa ra bảng câu hỏi phỏng vấn 180 khách du lịch
tại công viên. Khảo sát sử dụng lấy mẫu phân tầng với các mẫu được đặt trong 2
nhóm dựa trên quốc tịch là người Malaysia [gồm có 80 khách] và quốc tế [gồm có
100 khách]. Bảng câu hỏi được chia thành 3 phần: đặc điểm của chuyến thăm, đặc
điểm chi trả và đặc điểm xã hội - nhân khẩu học. Phần đầu tiên được thiết kế để có
thông tin về các đặc điểm liên kết với TNNP chẳng hạn như các nguồn thông tin về
TNNP và lý do của chuyến thăm. Phần thứ hai được thiết kế để xác định đặc điểm
của việc chi trả và giá trị trung bình của mức sẵn lòng chi trả đối với phí vào cửa
TNNP. Phần này hỏi đối tượng khảo sát có sẵn lòng chi trả nếu phí vào cửa hiện
nay tăng lên hay không? Câu hỏi được đưa ra để khám phá sự sẵn lòng của khách
hàng để trả phí cao hơn. Cách tiếp cận này được gọi là "trò chơi đấu thầu" với 3
mức giá khác nhau là thấp, trung bình và cao được chọn phù hợp với cả khách
người Malaysia và khách quốc tế mang lại cho họ cơ hội phản ứng câu hỏi cho đến
khi họ có mức sẵn lòng chi trả tối đa. Phần cuối cùng của bảng câu hỏi đề cập đến
các thông tin nhân khẩu học của khách tham quan như quốc tịch, tuổi, giới tính, tình
trạng hôn nhân, học vấn và thu nhập. Kết quả khảo sát thu được: [i] về đặc điểm chi
trả: khảo sát cho rằng khách tham quan sẵn lòng cho trả mức phí vào cửa cao hơn.
Tỷ lệ đồng ý chi trả của khách giảm dần khi phí vào cửa tăng lên. 80.6% khách
đồng ý trả phí vào cửa ở mức phí thấp [3RM], chỉ có 15% khách đồng ý mức phí
vào cửa cao [30RM], 23.9% khách tham quan trả tiền để vào cửa và sử dụng các
thiết bị giải trí, 11.1% trả tiền để sử dụng các thiết bị giải trí tốt hơn, 56.1% trả tiền
vào cửa để tham quan và hướng đến việc bảo tồn công viên; [ii] về giá trị sẵn lòng
chi trả trung bình: mức sẵn lòng chi trả trung bình của khách tham quan là
13.06RM, khách quốc tế sẵn lòng chi trả phí vào cửa 18.47 RM, con số của khách
Malaysia là 6.32 RM; [iii] về đặc điểm nhân khẩu học của khách tham quan, kết quả
khảo sát thu được là 60% khách tham quan nam giới, 53.3% đã kết hôn, khách tham
quan có độ tuổi từ 26 đến 35 chiếm 41.7%, độ tuổi từ 18 đến 25 chiếm 31.7%,
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung
55,6% là khách quốc tế, 27.2% khách tham quan có trình độ tốt nghiệp trung học,
26.7% tốt nghiệp đại học và 23.9% có trình độ học vấn sau đại học, 52.8% khách
tham quan có thu nhập dưới 1000 đô la, 17.2% khách có thu nhập từ 1001 - 2000 đô
la; [iv] về đặc điểm của chuyến tham quan: thông tin về TNNP được tìm hiểu thông
qua sách hướng dẫn du lịch có 95 phản hồi, 91 phản hồi thông qua gia đình và bạn
bè, hầu hết khách tham quan [158 phản hồi] liên tưởng TNNP với rừng nhiệt đới, 93
phản hồi liên tưởng với sự đa dạng động vật thực vật, 93 phản hồi liên tưởng với
cuộc sống hoang dã. 25.4% khách tham quan đến TNNP bằng xe cá nhân, 23%
bằng xe tham quan, 21% bằng xe công cộng và 12.2% bằng thuyền.
Nguyễn Văn Song & ctg [2011] thực hiện nghiên cứu xác định mức sẵn lòng
chi trả của các hộ nông dân về dịch vụ thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn sinh
hoạt ở địa bàn thị trấn Trâu Quỳ và xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội". Nghiên
cứu sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên CVM, thực hiện điều tra trên 116 hộ
dân đang sinh sống trên địa bàn. Nghiên cứu giả định chất lượng hàng hóa dịch vụ
môi trường sẽ được cải thiện đáng kể như có nhiều chuyến chuyên chở chất thải rắn
sinh hoạt hơn, đường phố có thêm nhiều cây xanh và luôn sạch đẹp... nhằm tạo cảnh
quan, môi trường xanh sạch... thì mức sẵn lòng chi trả cho sự cải thiện dịch vụ đó là
bao nhiêu. Bên cạnh đó, các hộ dân còn được hỏi về mức sẵn lòng chi trả của mình
khi tham gia mua hàng hóa dịch vụ môi trường có cảnh quan xanh sạch đẹp. Nghiên
cứu đưa ra các mức chi trả được của 1 người với mức chi trả thấp nhất là 0 đồng,
cao nhất là 20.000 đồng/ tháng. Nghiên cứu xây dựng mô hình hồi quy như sau:
WTPi = β0 + β1 Geni + β2 Edui + β3 Inci + β4 D1i + β5 D2i + β6 D3i + β7 D4i + β8 Age +
β9 Nf+ ui
trong đó: WTP là mức sẵn lòng chi trả của 1 người dân [đơn vị tính: nghìn đồng];
Inc: biến thu nhập [đơn vị tính: triệu đồng]; Edu: biến trình độ học vấn [đơn vị tính:
số năm đi học]; Age: số tuổi của người được phỏng vấn; N f: số người trong một hộ
gia đình; Gen: giới tính, D 1, D2, D3, D4 là các biến giả thể hiện nghề nghiệp của
người được phỏng vấn tương ứng lần lượt với buôn bán, công chức nhà nước, nông
Đề cương nghiên cứu
Ngô Thành Trung