Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng

Chương trình “Kết nối ngân hàng - doanh nghiệp” do Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước [NHNN] tỉnh triển khai thời gian qua đã có tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng tín dụng trên địa bàn, hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp duy trì, phát triển sản xuất, kinh doanh.

Công ty TNHH Xuất khẩu Việt Trang [Khu Công nghiệp làng nghề, thị trấn Nga Sơn] được vay vốn ngân hàng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả.

Giữ vai trò là “cầu nối” giữa ngân hàng và doanh nghiệp, thời gian qua, Chi nhánh NHNN Thanh Hóa thường xuyên tham dự các hội nghị gặp mặt, đối thoại với doanh nghiệp do UBND tỉnh tổ chức; chủ động gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, khó khăn và đề xuất của doanh nghiệp; đồng thời giải đáp, tháo gỡ theo thẩm quyền hoặc tổng hợp, báo cáo, kiến nghị NHNN Việt Nam. Bên cạnh đó, Chi nhánh NHNN tỉnh chỉ đạo các tổ chức tín dụng [TCTD] tiếp tục triển khai mở rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. Qua các hoạt động trong khuôn khổ của chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, các đơn vị tham gia đã nhận diện chi tiết hơn những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiếp cận vốn ngân hàng. Từ đó, đề xuất các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả, khả thi, đáp ứng tốt điều kiện vay vốn của các ngân hàng. Cùng với đó, các TCTD cũng tập trung hạ, giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ các khách hàng tiếp cận với các gói tín dụng ưu đãi để phục hồi, giữ vững sản xuất, kinh doanh, ổn định kinh tế, bảo đảm việc làm thường xuyên cho người lao động.

Bà Trần Thị Việt, Giám đốc Công ty TNHH Xuất khẩu Việt Trang [Khu Công nghiệp làng nghề, thị trấn Nga Sơn], cho biết: Thời gian qua, doanh nghiệp đã được các TCTD chia sẻ, hỗ trợ thông qua việc giảm lãi vay. Điều đó giúp doanh nghiệp tiếp cận được cùng lúc nhiều nguồn vốn vay ưu đãi, đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho nhiều lao động. Mới đây, Công ty TNHH Xuất khẩu Việt Trang đã được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Chi nhánh huyện Nga Sơn - Bắc Thanh Hóa, giải ngân hơn 4 tỷ đồng với lãi suất thấp.

Tính đến ngày 15-2-2022, chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp đã giải ngân được gần 1.000 tỷ đồng, với 123 doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi từ chương trình. Các doanh nghiệp tham gia chương trình đều sử dụng vốn hiệu quả, không có nợ xấu phát sinh. Nhất là từ đầu năm 2020 đến nay, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp tham gia chương trình. Chi nhánh NHNN tỉnh đã nhanh chóng chỉ đạo các TCTD “vào cuộc” thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay nhằm hỗ trợ khách hàng, doanh nghiệp bị ảnh hưởng do dịch. Theo báo cáo của các TCTD, đến ngày 15-2-2022, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch là 3.689 khách hàng, dư nợ gốc là 4.889 tỷ đồng; miễn giảm lãi cho 209 khách hàng, số tiền miễn giảm là gần 900 tỷ đồng. Cho vay mới áp dụng lãi suất ưu đãi cho 8.919 khách hàng, dư nợ gần 20.000 tỷ đồng.

Bên cạnh những nỗ lực từ phía các TCTD, chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do doanh nghiệp của tỉnh đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn hạn chế, thiếu tài sản bảo đảm hoặc tài sản bảo đảm có giá trị thấp, quyền sở hữu tài sản chưa được xác nhận. Bên cạnh đó, tính minh bạch, chính xác của thông tin liên quan đến tình hình tài chính và kinh doanh của doanh nghiệp chưa rõ ràng hoặc chưa đủ tin cậy. Ngoài ra, trình độ quản trị kinh doanh của một số doanh nghiệp yếu; thiếu chiến lược kinh doanh dài hạn; dự án sản xuất, kinh doanh thiếu tính khả thi. Vì vậy, các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng quy mô tín dụng. Để chương trình kết nối thực sự phát huy hiệu quả, ngoài sự chủ động từ phía các TCTD, bản thân doanh nghiệp cần nỗ lực cải thiện năng lực quản trị kinh doanh, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh rõ ràng và mang tính chiến lược có mục tiêu, giải pháp cụ thể. Thực hiện cơ cấu lại tài sản chính xác, rõ ràng; minh bạch các báo cáo tài chính để dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng.

Thời gian tới, Chi nhánh NHNN Thanh Hóa tiếp tục chỉ đạo các TCTD trên địa bàn rà soát, đơn giản hóa thủ tục, quy trình cho vay, rút ngắn thời gian làm thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn. Thực hiện công khai, minh bạch quy trình, thủ tục cho vay; tiếp tục cải tiến, đa dạng hóa, tối ưu các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bảo đảm an toàn, hiệu quả, dễ tiếp cận, phù hợp với đối tượng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Ưu tiên nguồn vốn cho vay các lĩnh vực sản xuất, phát huy tối đa thế mạnh của địa phương; đẩy mạnh cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo chủ trương của Chính phủ.

Bài và ảnh: Lương Khánh

Đón xuân mới năm nay, nhiều hộ nghèo, đối tượng chính sách trên địa bàn tỉnh đã đầm ấm hơn, cuộc sống có nhiều thay đổi nhờ các chương trình cho vay tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội [NHCSXH] - Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa; góp phần củng cố, tạo lòng tin vững chắc của Nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cán bộ NHCSXH huyện Yên Định giải ngân vốn vay cho hộ nghèo, gia đình chính sách tại xã Yên Thịnh.

Để nguồn vốn tín dụng chính sách hoạt động thực sự hiệu quả, thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tín dụng trên địa bàn. Với mô hình hoạt động ưu việt, hiệu lực, hiệu quả của cả hệ thống, chính sách tín dụng ưu đãi đã được chuyển tải một cách kịp thời tới các đối tượng thụ hưởng, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho người dân.

Là ngân hàng chủ lực trong cho vay giảm nghèo, NHCSXH Thanh Hóa luôn sát cánh cùng người nghèo, đưa nguồn vốn tín dụng ưu đãi đến với các đối tượng trong diện thụ hưởng. Ngay cả khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát, gây nhiều trở ngại đến tình hình sản xuất, đời sống của Nhân dân, nguồn vốn tín dụng chính sách vẫn đến tay người nghèo kịp thời để đầu tư sản xuất, kinh doanh hiệu quả, vượt qua khó khăn, trở thành động lực mở hướng thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Cùng với đó, ngân hàng phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể trong việc đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến tận cơ sở. Do đó, mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách ngày càng được hoàn thiện hơn, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Hiện có 4 tổ chức hội đoàn thể là nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh và đoàn thanh niên đang phối hợp với NHCSXH tham gia quản lý nguồn vốn tín dụng. Ngân hàng phối hợp xây dựng, củng cố hệ thống tổ tiết kiệm và vay vốn ở cơ sở, với những yêu cầu đặt ra là: ban quản lý tổ phải là những người có uy tín, có trình độ quản lý và nhiệt tình với công việc; các thành viên trong tổ được duy trì, có số lượng phù hợp với quy mô tổ. Hiện cả tỉnh có 6.668 tổ tiết kiệm và vay vốn.

Bên cạnh chú trọng tăng trưởng tín dụng, NHCSXH Thanh Hóa tập trung nâng cao chất lượng tín dụng; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò ban chỉ đạo giảm nghèo cấp xã, các tổ chức đoàn thể nhận ủy thác; thường xuyên đối chiếu nợ, kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc việc trả nợ, trả lãi của hộ vay khi đến hạn. Tổ chức tốt việc giao dịch tại xã, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hộ vay, tăng cường tiếp xúc, nghe ý kiến phản ánh của hộ vay, báo cáo kịp thời và có biện pháp khắc phục ngay những tồn tại trong thực hiện quy trình vay vốn ở địa phương.

Trên chặng đường đồng hành cùng với người nghèo và các đối tượng chính sách, NHCSXH Thanh Hóa đã không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện chủ trương công khai, dân chủ, minh bạch; bảo đảm nguồn vốn đến tận tay các đối tượng thụ hưởng. Tính đến ngày 31-1, tổng dư nợ của NHCSXH Thanh Hóa đạt hơn 10.800 tỷ đồng, với 246,7 nghìn hộ nghèo, cận nghèo và các gia đình chính sách còn dư nợ.

Đồng chí Lê Hữu Quyền, Giám đốc NHCSXH Thanh Hóa, khẳng định: Trong các chính sách xã hội, tín dụng chính sách là một điểm sáng, được đánh giá là giải pháp sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn, góp phần thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra về xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế. Chính sách tín dụng đặc thù này đã góp phần tạo dựng niềm tin của Nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với nhóm người dễ bị tổn thương; tăng cường tính chủ động, sáng tạo, nâng cao ý thức trách nhiệm, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại của người thụ hưởng chính sách.

Bài và ảnh: Lương Khánh

Ông Võ Hữu Hiển

Tuy đã đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác quản lý, vay và trả nợ công, nợ Chính phủ trong thời gian vừa qua nhưng chúng ta không thể phủ nhận nhiều vấn đề còn tồn tại trong cả giải ngân, cả huy động vốn cũng như trong điều hành. Ông có chia sẻ gì về những vấn đề này?

- Trong giai đoạn 2016-2020, công tác quản lý nợ công được chú trọng và về cơ bản đã đáp ứng được các mục tiêu đề ra, thực hiện tốt nhiệm vụ tổ chức huy động vốn với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Các chỉ tiêu an toàn nợ công được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần nợ được Quốc hội phê chuẩn và giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2016-2019, góp phần làm tăng dư địa chính sách tài khóa, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Tuy vậy, khách quan mà nói, vấn đề quản lý nợ công còn một số vấn đề đặt ra cần phải được tập trung giải quyết để nâng cao hiệu quả. Có thể tóm gọn trong 5 nội dung như sau:

Thứ nhất, việc giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ còn chậm và hạn chế.

Năm 2020, nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, do đó các dự án sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn vay nước ngoài theo kế hoạch vốn 2020 tương đối cao so với mức cùng kỳ của năm 2019.

Mặc dù vậy, nếu so với kết quả giải ngân của nguồn vốn đầu tư công trong nước thì tỷ lệ giải ngân vốn nước ngoài vẫn còn thấp. Với tốc độ giải ngân như hiện nay, nếu các bộ, ngành, địa phương không có các giải pháp quyết liệt khắc phục khó khăn thì sẽ khó hoàn thành được nhiệm vụ Quốc hội giao đối với nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi của năm 2020 và cho cả nhiệm kỳ 2016-2020.

Thứ hai, huy động vốn của Chính phủ gặp áp lực nhất định tại một số thời điểm với việc không phát hành trái phiếu Chính phủ [TPCP] kỳ hạn dưới 5 năm.

Công tác tái cơ cấu danh mục nợ công theo hướng bền vững căn cứ trên các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội tuy đã phát huy hiệu quả, song lại phát sinh một số hạn chế. Đơn cử, việc tập trung huy động TPCP kỳ hạn dài trên 5 năm làm mất tính tham chiếu của thị trường trái phiếu đối với các thị trường vốn khác và tác động ngược trở lại đến khả năng phát hành TPCP của NSNN. Khi thị trường biến động mạnh sẽ gặp khó khăn trong phát hành TPCP kỳ hạn ngắn để ổn định thị trường. Bên cạnh đó, không đáp ứng được nhu cầu của một số nhà đầu tư trên thị trường, đặc biệt đối với một số ngân hàng thương mại chỉ có nhu cầu đầu tư trái phiếu kỳ hạn ngắn dưới 5 năm.

Thứ ba, quy mô nợ đã có sự thay đổi tích cực. Đến cuối năm 2020, dưới tác động của đại dịch Covid-19, tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP dự kiến tăng so với năm 2019, tuy vậy vẫn được kiểm soát tương đối tốt ở mức 50,8% [so với mức 52,7% vào năm 2016]. Tuy vậy, đặc điểm chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam “tốt nghiệp IDA”, hay nói cách khác là việc dừng nhận các khoản vay ODA có tính ưu đãi cao từ Hiệp hội phát triển Quốc tế [IDA] thuộc Ngân hàng thế giới [WB] kể từ năm 2017.

Thứ tư, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu NSNN có xu hướng tăng nhanh và có nguy cơ vượt ngưỡng 25% trong một số năm trong giai đoạn tới. Nguyên nhân chủ yếu do lịch trả nợ gốc không đồng đều, tập trung cao vào một số năm; các khoản TPCP phát hành để bù đắp bội chi trước đây đến giai đoạn tới thì đến hạn trả nợ. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế chậm lại, thu NSNN năm 2020 giảm sâu so với dự toán; những năm tới dự báo dư địa tăng thu ngân sách còn hạn chế để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi hậu đại dịch. Vấn đề này có thể gia tăng rủi ro thanh khoản cho Chính phủ khi phải huy động vốn với chi phí cao hơn để đảo nợ trong những năm trả nợ gốc cao. Mặt khác, tiềm ẩn rủi ro đối với an ninh tài chính quốc gia, có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến hệ số tín nhiệm quốc gia nếu không bố trí đủ nguồn để thanh toán đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ nợ của Chính phủ.

Thứ năm, việc quản lý, giám sát chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia có bất cập cả về công cụ cũng như phương thức quản lý. Việt Nam đã được quốc tế xếp vào nhóm các quốc gia có khả năng tiếp cận thị trường vốn thay vì phải dựa nhiều vào các khoản vay ODA như trước đây.

Với khả năng vay vốn nước ngoài của cả Chính phủ lẫn khu vực tư nhân có nhiều thay đổi căn bản bản, các chỉ tiêu trần và hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia áp dụng trong giai đoạn trước đây đang mất dần ý nghĩa. Chính phủ đã chủ động nghiên cứu, tham vấn với một số tổ chức quốc tế như IMF, WB cũng như các cơ quan trong nước về khuôn khổ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia. Các tổ chức và cơ quan này đều khuyến nghị Việt Nam xem xét, điều chỉnh chính sách và công cụ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia.

Theo kinh nghiệm quốc tế, không có quốc gia thuộc thị trường mới nổi nào áp dụng hạn mức trần chung cho chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia [bao gồm cả khu vực công và khu vực tư nhân], cũng như không quốc gia nào đề ra mức trần chung đối với các khoản vay nước ngoài của khu vực tư nhân. Thay vào đó, các nước thường áp dụng công cụ quản lý đối với từng loại doanh nghiệp, tổ chức cụ thể.

Vậy dự kiến các chỉ tiêu cơ bản của nợ công trong năm 2021 sẽ như thế nào, thưa ông?

- Với dự toán NSNN năm 2021, Chính phủ đang trình Quốc hội thông qua, trường hợp không có những biến động lớn vĩ mô, thị trường vốn cũng như tỷ giá, dự báo đến cuối năm 2021 nợ công khoảng 46,1% GDP trên cơ sở GDP đánh giá lại [khoảng 58,6% trên cơ sở GDP chưa đánh giá lại], nợ Chính phủ khoảng 41,9% GDP trên cơ sở GDP đánh giá lại [khoảng 53,2% trên cơ sở GDP chưa đánh giá lại]; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN có thể cao hơn 25% với dự báo thu ngân sách còn gặp khó khăn, cần có biện pháp để kiểm soát chỉ tiêu này.

Để tiếp tục tăng cường công tác quản lý nợ công, những giải pháp nào sẽ cần được chú trọng, thưa ông?

- Trước tiên, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách về quản lý nợ công và triển khai công cụ quản lý nợ chủ động, kiên định với các mục tiêu cơ cấu lại NSNN, nợ công, cải thiện dư địa chính sách tài khóa theo định hướng tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia.

Tổ chức huy động vốn để đáp ứng nhu cầu cân đối ngân sách cho đầu tư phát triển với chi phí – rủi ro hợp lý. Đối với vay trong nước, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức và kỳ hạn huy động vốn vay của Chính phủ để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

Tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều rộng, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu.

Đối với nguồn vốn nước ngoài, tận dụng tối đa các khoản vay ODA còn lại và tranh thủ huy động hợp lý các khoản vay ưu đãi; tập trung giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài đối với các hiệp định đã ký vay đến cuối năm 2020 chuyển sang giai đoạn 2021-2025.

Các bộ, ngành, địa phương thường xuyên đôn đốc hoàn tất các thủ tục đầu tư trong nước để thúc đẩy việc đàm phán, ký kết các hiệp định vay nước ngoài của Chính phủ mới, đảm bảo huy động vốn kịp thời cho các dự án đầu tư.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, gắn với trách nhiệm trả nợ. Đặc biệt quan trọng là bảo đảm nguồn để thanh toán mọi nghĩa vụ nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn ảnh hưởng đến cam kết của Chính phủ và xếp hạng tín nhiệm của quốc gia. Thực hiện nghiệp vụ quản lý nợ chủ động, mua lại, hoán đổi để giãn đỉnh nghĩa vụ trả nợ cao tại một số năm nhằm kéo dài kỳ hạn nợ Chính phủ.

Bên cạnh đó, cần tăng cường quản lý nợ công, kiểm soát các nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng bằng các công cụ, chính sách phù hợp hơn với thông lệ tốt của quốc tế và điều kiện phát triển của Việt Nam hiện nay.


Xin cảm ơn ông!

Video liên quan

Chủ Đề