Nghiên cứu thị trường may công nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU Nhiều năm qua, dệt may là ngành “tiên phong” trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới, thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn. Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao, bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005 . Thành quả này là nhờ Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào, khéo tay; chi phí lao động thấp, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu tố bất lợi và ít lợi thế cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp phần lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công xuất khẩu là chính [chiếm tới 70-80% kim ngạch], hình thức thương mại bán sản phẩm chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Từ khi chế độ hạn ngạch giữa các thành viên WTO xoá bỏ [1/1//2005] thì tốc độ tăng xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc không những đã đe doạ ngành công nghiệp dệt may các nước nhập khẩu lớn mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều nước xuất khẩu dệt may khác, trong đó có Việt Nam. Xu thế toàn cầu hoá thương mại cùng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đang đặt ngành dệt may Việt Nam trước những áp lực và thách thức to lớn. Dù Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới [WTO], trong những năm tới ngành dệt may vẫn chưa thể phát triển i ii nhanh và cạnh tranh được với nhiều nước xuất khẩu. Dệt may Việt Nam vẫn chưa thể cất cánh như một số chuyên gia phân tích thị trường đã nhận định, nếu các doanh nghiệp chưa thực sự đổi mới mạnh mẽ hơn trong cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. Trong những nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp và ngành hàng gia tăng hiệu quả xuất khẩu, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh [ITPC] đã thu thập, xử lý thông tin và biên soạn tài liệu nghiên cứu này với một số lượng thông tin khá đa dạng về ngành dệt may Việt Nam và các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Tuy nhiên, lượng thông tin phân tích, đánh giá và dự báo còn rất hạn chế, những nghiên cứu về thị trường mcụ tiêu còn giới hạn về nguồn dữ liệu cũng như thời gian phân tích. Rất mong nhận được sự đóng góp của độc giả để tập tài liệu này ngày càng có giá trị thiết thực hơn cho doanh nghiệp và ngành hàng. TP. Hồ Chí Minh, tháng ….. năm …. iii MỤC LỤC ------oOo------ Phần I: NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1 1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam 1 2. Năng lực của ngành may Việt Nam 3 - Ngành bông xơ - Ngành sợi - Ngành vải - Ngành may 3. Nguồn lao động 9 4. Vấn đề nội địa hóa 10 5. Thị trường nội địa 12 6. Xuất khẩu 18 7. Kế hoạch phát triển ngành 23 8. Dệt may Việt Nam những thách thức 25 khi gia nhập WTO Phần II: NGÀNH DỆT MAY THẾ GIỚI 29 A. Tổng quan ngành dệt may thế giới 29 B. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm 32 I. Thị trường EU 32 1. Giới thiệu thị trường EU 32 2. Tổng quan ngành may mặc EU 32 - Đặc tính sản phẩm 35 - Sức tiêu thụ 41 - Phân khúc thị trường 44 - Mô hình và khuynh hướng tiêu thụ 48 - Sản xuất 52 - Nhập khẩu 61 iv - Xuất khẩu 80 - Cơ cấu thương mại 86 - Giá 90 - Những yêu cầu về tiếp cận thị trường EU 92 - Để trở thành bạn hàng của đối tác Châu Âu100 - Một số vấn đề các DN 109 cần lưu ý khi xuất hàng may mặc sang châu Âu. II. Thị trường Hoa Kỳ 1. Giới thiệu thị trường Hoa Kỳ 118 2. Tổng quan ngành may mặc Hoa Kỳ 123 - Các nhóm sản phẩm 125 - Sức tiêu thụ 125 - Phân khúc thị trường. 127 - Thuế quan. 148 - Hệ thống phân phối. 156 III. Thị trường Nhật Bản 1. Giới thiệu thị trường Nhật Bản 159 2. Tổng quan ngành may mặc Nhật Bản 161 - Lịch sử phát triển ngành dệt may Nhật Bản161 - Đặc điểm sản phẩm 171 - Sức tiêu thụ 180 - Phân khúc thị trường 183 - Thuế quan 187 - Quy định và yêu cầu liên quan 194 đến nhập khẩu hàng may mặc hiện nay vào Nhật Bản LIỆT KÊ BẢNG – BIỂU ĐỒ ---------oOo---------- Bảng 1.1: Thông tin máy móc thiết bị trong ngành 7 Bảng 1.2: Số doanh nghiệp dệt may Việt Nam theo 8 các tiêu chí Bảng 1.3: Dự báo quy mô thị trường nội địa 13 Biểu đồ 1.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 19 Việt Nam giai đoạn 2000-2006 Bảng 1.4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu chủ yếu 19 của Việt Nam giai đoạn 2003 – 2005 Bảng 1.5: Kim ngạch xuất khẩu dệt may 22 Việt Nam sang các thị trường Bảng 1.6: Số dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may Bảng 2. 1: Tỷ giá hối đoái các đồng tiền của EU 33 so với đồng euro năm 2005-2006 Bảng 2.2: Bảng tóm lược hệ thống HS 40 Bảng 2.3: Tiêu dùng trang phục bên ngoài theo 42 giá trị của các quốc gia EU, 2002-2005 Bảng 2.4: Cơ cấu sản xuất hàng may mặc của 52 EU, 2003-2004 Bảng 2.5 : Chỉ số sản lượng của ngành trang phục 54 EU giai đoạn 2002-2004 [năm 2000 = 100] Bảng 2.6 : Tỷ phần theo doanh thu của các công 56 ty may mặc lớn tại EU, 2003-2004 Bảng 2.7: Nhập khẩu trang phục bên ngoài 62 của EU, 2000-2004 Bảng 2.8: 10 nhà cung cấp trang phục bên 65 ngoài hàng đầu của EU Bảng 2.9 : Nhập khẩu trang phục bên ngoài của 66 EU theo nhóm sản phẩm Bảng 2.10: Các nhà cung cấp trang phục bên 68 v vi ngoài hàng đầu của EU theo nhóm sản phẩm và % thị phần về giá trị Biểu đồ 2.1: Áo bó, áo len chui đầu, áo len dài 70 tay dệt kim nhập khẩu theo nguyên liệu năm 2004 Biểu đồ 2.2: Áo T-shirt nhập khẩu theo chất liệu, 71 năm 2004 Bảng 2.11: Nhập khẩu quần dài, quần soóc, quần 75 yếm có dây đeo dệt thoi 2000-2004 Bảng 2.12: Nhập khẩu trang phục bên ngoài của EU 78 từ các quốc gia đang phát triển theo xuất xứ, 2002-2004 Bảng 2.13 : Xuất khẩu trang phục bên ngoài của 82 các thành viên EU, 2000-2004 Bảng 2.14 : 10 điểm xuất khẩu trang phục bên 85 ngoài hàng đầu của EU giai đoạn 2002-2005 Biểu đồ 2.3: Các kênh phân phối và thương mại 87 trang phục bên ngoài tại EU Bảng 2.15: Chỉ số giá so sánh trang phục tại các 91 nước EU năm 2004, EU=100 Bảng 2.16 : Thuế nhập khẩu trang phục bên ngoài 96 Bảng 2.17: Hạn ngạch nhập khẩu trang phục bên 98 ngoài của EU áp dụng cho hàng Trung Quốc 2006-2007 Bảng 3.1: Các chỉ số kinh tế 121 Bảng 3.2: Tổng xuất khẩu hàng dệt may của 129 Hoa Kỳ theo quốc gia Bảng 3.3 : Tổng xuất khẩu hàng dệt may của 130 Hoa Kỳ theo ngành Bảng 3.4: Tổng xuất khẩu hàng may mặc 131 của Hoa Kỳ theo quốc gia Bảng 3.5: Xuất khẩu hàng dệt của Hoa Kỳ 132 vii theo quốc gia Bảng 3.6: Tổng nhập khẩu hàng dệt may 133 Hoa Kỳ theo quốc gia Bảng 3.7: Tổng nhập khẩu hàng dệt may Hoa Kỳ 134 theo ngành hàng Bảng 3.8: Các công đoạn chế biến, gia công mà 143 hải quan chấp nhận và không chấp nhận là sự biến đổi thực chất Bảng 3.9: Các quy định về nhập khẩu hàng dệt, 146 len, lông thú Bảng 3.10 : Cơ cấu các kênh bán lẻ tại Hoa Kỳ 156 Bảng 3.11: Các nhà bán lẻ lớn nhất tại Hoa Kỳ 157 Bảng 3.12: Doanh thu bán lẻ hàng may mặc 157 của Hoa Kỳ năm 2005 Bảng 4.1: Tình hình sản xuất hàng dệt may 163 tại Nhật 2000-2005 Bảng 4.2: Các chỉ số trong ngành sản xuất 164 hàng may mặc Nhật Bảng 4.3: Nhân lực trong ngành dệt may 165 Bảng 4.4: Nhập khẩu quần áo và vải vào Nhật 167 giai đoạn 1999 – 2005 Bảng 4.5: Nhập khẩu quần áo vào Nhật năm 2005 171 Bảng 4.6: Phân loại sản phẩm nhập từ nước 172 ngoài vào Nhật Biểu đồ 4.1: Các kênh phân phối và thương mại 178 trang phục bên ngoài tại Nhật Bảng 4.7: Chi tiêu cho trang phục trung bình 181 của một hộ gia đình Nhật Bảng 4.8: Chi tiêu trung bình hàng năm 181 cho quần áo của một hộ gia đình Nhật năm 2005 Bảng 4.9: Phân khúc thị trường theo sản phẩm 184 hàng may mặc Nhật Bản viiiBảng 4.10: Xếp hạng các nhà bán lẻ quần áo 185 nam, nữ ở Nhật Bảng 4.11: Mức thuế quan chung cho hàng 189 may mặc nhập khẩu vào Nhật Bảng 4.12: Hệ thống hài hòa HS của các mặt 190 hàng may mặc Nhật Bản 1 Phần I : NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam: Ngành may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những thành công của sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong toàn ngành Dệt may, may mặc là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, có lợi thế cạnh tranh lớn trên trường quốc tế. Sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam được ghi nhận với những kết quả đáng khích lệ. Đến thời điểm hiện nay dệt may là một trong những ngành công nghiệp sản xuất, xuất khẩu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, là một ngành thu hút lượng lao động lớn, vừa tạo ra giá trị hàng hóa, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Năng lực sản xuất của ngành dệt may phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Số lượng doanh nghiệp tăng gấp 5-6 lần so với 10 năm trước. Trình độ công nghệ được cải thiện đáng kể, 2 nhiều công đoạn sản xuất đạt trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Hàng dệt may Việt Nam hiện đã có mặt tại trên 100 nước và vũng lãnh thổ, trong đó có các thị trường quan trọng của thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản...vv. Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế, thách thức. Thứ nhất: Năng lực sản xuất tuy đã được nâng cao nhưng mức sản xuất thực tế vẫn thấp hơn năng lực sản xuất thiết kế. Tay nghề công nhân còn thấp, việc đào tạo chuyên gia kỹ thuật và thiết kế mẫu còn chưa theo kịp với nhu cầu thị trường và đỏi hỏi phát triển của ngành Thứ hai: Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả xuất khẩu còn thấp do có tới 70% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia công, trong khi đó ngành dệt may vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà chủ yếu phải nhập nước ngoài Thứ ba: Thị trường xuất khẩu còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, còn bị phụ thuộc vào hạn ngạch, chưa tận dụng hết khả năng khai thác thị trường và mặt hàng xuất khẩu không hạn ngạch, chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân phối của các thị trường lớn, thường phải xuất khẩu qua trung gian. Thứ tư: Thị trường nội địa với sức mua ngày càng tăng đang bị bỏ ngỏ chưa được quan tâm đúng mức. Đến nay ngành dệt may Việt Nam đã sử dụng gần 2 triệu lao động, với khoảng gần 2000 doanh nghiệp. Trong đó số lao động làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước chiếm 10%, doanh 3nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 70% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 20%. Hàng năm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến hơn 100 nước với kim ngạch đạt trên con số 4,3 tỷ USD; chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 4,83 USD.vào năm 2004 Dệt may Việt Nam cũng như những ngành kinh tế khác đứng trước vận hội và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị phần đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành phải liên kết với nhau tạo ra Tập đoàn kinh tế mạnh. Đứng trước tình hình đó Tổng Công ty Dệt may Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Kinh tế Dệt may Việt Nam. Tập đoàn Dệt may Việt Nam có nhiều đơn vị thành viên, sử dụng nhiều lao động, kinh doanh đa lĩnh vực và có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Ngành may dệt may chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: trước năm 2000, chủ yếu gia công, xuất khẩu 100 triệu USD/năm. Giai đoạn 2: mở đường xuất khẩu vào thị trường châu Âu [1992-2002]. Đỉnh cao xuất khẩu khoảng 2 tỉ USD vào năm 2001. Giai đoạn 3: mở vào thị trường Hoa Kỳ [2002-2006], tối đa xuất khẩu gần 5 tỉ USD/năm 2005, năm nay dự kiến khoảng 5,5 tỉ USD. Giai đoạn 4: sau 2006, hậu WTO, giai đoạn cạnh tranh quyết liệt. 2. Năng lực của ngành may Việt Nam: 2.1. Ngành bông, xơ: 4 + Diện tích trồng bông niên vụ 2005/2006 trong năm 2005: 24.000 ha. + Sản lượng bông hạt: 22.000 tấn. + Sản lượng bông xơ: 10.000 tấn. Nhu cầu sử dụng bông xơ hàng năm: + Nhu cầu sử dụng bông của ngành dệt may Việt Nam: 150.000 tấn, tỷ lệ bông Việt Nam được sử dụng 7% do bị hạn hán, phải nhập khẩu 140.000 tấn/năm + Nhu cầu xơ PE: 100.000 tấn/năm, 100% phải nhập khẩu Giá trị ngoại tệ sử dụng nhập khẩu bông xơ bình quân: 195 triệu USD/năm. 2.2. Ngành sợi: Số lượng cọc sợi: Ngành dệt may Việt Nam: 2.000.000 cọc, trong đó các đơn vị thành viên Tổng công ty Dệt-May 926.000 cọc, đạt tỷ lệ 46% Sản lượng sợi: + Ngành dệt may Việt Nam: 200.000 tấn, trong đó năng lực sản xuất sợi của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam đạt 110.000 tấn, chiếm tỷ lệ 55% + Nhu cầu sử dụng sợi bình quân năm: 430.000 tấn, phải nhập khẩu 230.000 tấn/năm Giá trị ngoại tệ sử dụng nhập khẩu sợi bình quân: 360 triệu USD/năm. 2.3. Ngành vải: Vải dệt thoi: + Số lượng thiết bị dệt thoi: 5Ngành dệt may Việt Nam dự kiến có 20.000 máy, trong đó Tổng công ty Dệt-May Việt Nam có 6.073 máy, chiếm tỷ lệ 30% + Năng lực sản xuất vải dệt thoi: Ngành dệt may Việt Nam: 600 triệu m2, trong đó Tổng công ty Dệt-May Việt Nam với năng lực sản xuất 230 triệu m2, chiếm tỷ lệ 38%. + Nhu cầu sử dụng vải: 1 tỷ 600 triệu m2, phải nhập khẩu 1 tỷ m2 Vải dệt kim: + Số lượng thiết bị dệt kim: * Ngành dệt may Việt Nam dự kiến có 4.000 máy, trong đó Tổng công ty Dệt-May Việt Nam có 614 máy, chiếm tỷ lệ 15% + Năng lực sản xuất vải dệt kim: * Ngành dệt may Việt Nam: 100.000 tấn, trong đó Tổng công ty Dệt-May Việt Nam 17.000 tấn, chiếm tỷ lệ 17% + Nhu cầu sử dụng vải dệt kim: 200.000 tấn/năm, phải nhập khẩu 100.000 tấn/năm Giá trị ngọai tệ sử dụng nhập khẩu vải các lọai là 2 tỷ USD/năm. 2.4 Ngành may: Số lượng thiết bị máy móc: + Ngành dệt may Việt Nam: 300.000 thiết bị các loại + Tổng công ty dệt may Việt Nam: 58.267 chiếc, tỷ lệ 19% Năng lực sản xuất: + Ngành dệt may Việt Nam: 750 triệu sản phẩm may các loại 6 + Tổng công ty dệt may Việt Nam: 150 triệu [trong đó có 32 triệu sản phẩm dệt kim và 118 triệu sản phẩm dệt thoi ], chiếm tỷ lệ 20%. + Các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty: 74 đơn vị * Các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm, len: 25 doanh nghiệp - Phía bắc: 14 doanh nghiệp [trong đó có 1 doanh nghiệp cổ phần] - Phía nam: 11 doanh nghiệp [trong đó có 1 doanh nghiệp cổ phần] * Các doanh nghiệp may: 18 doanh nghiệp - Phía bắc: 10 doanh nghiệp [trong đó có 5 doanh nghiệp cổ phần] - Phía nam: 08 doanh nghiệp [trong đó có 5 doanh nghiệp cổ phần] * Các doanh nghiệp cơ khí: 04 doanh nghiệp - Phía bắc: 03 doanh nghiệp [trong đó có 2 doanh nghiệp cổ phần] - Phía nam: 01 doanh nghiệp * Các ngành khác và liên doanh: 10 doanh nghiệp. - Các ngành bông, tài chánh, đầu tư hạ tầng: 5 doanh nghiệp [ trong đó có 3 doanh nghiệp cổ phần ]. * Các công ty liên doanh: 5 doanh nghiệp . * Các công ty thương mại phụ thuộc: 10 doanh nghiệp. * Các Viện nghiên cứu: 03 Viện nghiên cứu. * Các trường đào tạo: 03 trường đào tạo. * Bệnh viện: 01 trung tâm y tế dệt may. 7Bảng 1.1: Thông tin máy móc thiết bị trong ngành Máy móc thiết bị Năng lực Số TT Chủng loại Số nhà máyĐVT Tổng số máy ĐVT Khối lượng/năm Chế biến nguyên liệu 1 Bông 7 Tấn 60.000 2 Xơ sợi tổng hợp 2 Tấn 150.000 Cọc roto 15.000 3 Kéo sợi xơ ngắn 100 Cọc sợi 2.200.000 Tấn 300.000 Dệt thoi Mét 680.000.000 4 Dệt thoi 305 Máy 16.750 Tấn khăn 38.000 Dệt kim 5 Dệt kim tròn Máy 3.700 6 Dệt kim bằng 86 Máy 500 Tấn 300.000 Vải không dệt 7 Tấm xơ 5 8 Vải địa KT 2 Tấn 5.000 May mặc 9 May mặc 1471 Máy 771.447 Sản phẩm 2.150.000.000Phụ liệu 10 Chỉ may 8 Tấn 11 Mex dựng 3 M2 50.000.000 12 Dây kéo 3 Mét 70.000.000 13 Nút 7 14 Tấm bông Polyester 5 Tấn 2.000 Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam 8 Bảng 1.2: Số doanh nghiệp dệt may Việt Nam theo các tiêu chí Tiêu chuẩn Doanh nghiệp Theo vùng TP.Hồ Chí Minh 1090 Hà Nội 157 Đồng Nai 142 Bình Dương 116 Long An 27 Đà Nẵng 55 Các tỉnh khác 364 Theo lĩnh vực Nguyên phụ liệu & kéo sợi 96 Dệt 382 Vải không dệt 6 May 1446 Thiết bị 35 Dịch vụ 265 Theo nguồn vốn sở hữu Doanh nghiệp nhà nước 307 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1172 Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 472 Theo số vốn Dưới 500 triệu 79 Từ 500 triệu - dưới 1 tỷ 73 Từ 1 – 5 tỷ 174 Trên 5 tỷ 108 Số lao động Dưới 500 lao động 1270 Từ 500 đến 1000 399 Từ 1000 đến 5000 244 Từ 5000 trở lên 8 Nguồn :Hiệp hội Dệt May Việt Nam 93. Nguồn lao động Ngành dệt may Việt Nam hiện có khoảng 700 doanh nghiệp lớn làm hàng xuất khẩu. Từ 2001 - 2004, toàn ngành đã thu dụng thêm khoảng nửa triệu lao động, đưa tổng số lao động lên khoảng 2 triệu người. Với chỉ tiêu xuất khẩu đạt 5 tỷ USD, theo các chuyên gia thì số lao động toàn ngành sẽ phải tăng thêm khoảng 5% và đây sẽ là thách thức lớn đối với ngành. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, công nhân may Việt Nam được đánh giá có tay nghề khá so với khu vực và thế giới. Với ngành dệt thì đây là điều đáng lo ngại. Với kỹ thuật, công nghệ trung bình thì công nhân dệt Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu về tay nghề nhưng với các phương tiện máy móc hiện đại, công nhân Việt Nam còn bất cập. Nguyên nhân chính là do Việt Nam không có trường đào tạo công nhân dệt, các doanh nghiệp phải gửi đi nước ngoài hoặc tự đào tạo. Lao động ngành dệt may hiện nay chủ yếu tự học, đào tạo theo phương thức kèm cặp trong các nhà máy, xí nghiệp là chính. Toàn bộ ngành chỉ có 4 trường đào tạo với "công suất" mỗi năm khoảng 2.000 công nhân, không thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, thậm chí khi về doanh nghiệp phải chấp nhận tự đào tạo lại. Chính vì thế, các nhà máy, công ty may vẫn lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn vị. Với mức tăng trưởng trung bình 18%, kim ngạch xuất khẩu trong năm 2004 đạt 4,4 tỷ USD, ngành dệt may khẳng định vị thế quan trọng, đóng góp to lớn vào nền kinh tế đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực tạo việc làm. Các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh, phát triển nên việc gia tăng số lao động trong năm 2005 là tất yếu, toàn ngành sẽ tăng thêm khoảng 5%, tương đương 100.000 lao động. Ngoài việc tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại, tăng số công nhân đồng thời cần phải đi đôi với nâng cao chất lượng lao động. 10 Một số đơn vị đã giữ người bằng hình thức yêu cầu người lao động đóng tiền thế chấp đào tạo, cam kết làm việc trong một thời gian nhất định sau khi được đào tạo. Số tiền thế chấp sẽ được trả lãi như ngân hàng. Tuy nhiên, giải pháp này cũng không "cầm chân" được những lao động có chất lượng, tay nghề "chạy" sang các đơn vị khác. Trước đây Việt Nam vẫn được coi là có lợi thế về giá nhân công rẻ, nhưng hiện nay tình trạng người lao động không còn thiết tha với ngành dệt may đã trở nên phổ biến. Trước yêu cầu phát triển nhanh trong thời gian tới, tận dụng cơ hội Việt Nam gia nhập WTO, giá lao động sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn. Chi phí lao động dệt may Việt Nam vẫn cao hơn lương công nhân của một số vùng nông thôn Trung Quốc do đó đây không còn là lợi thế của ngành dệt may Việt Nam. Những vấn đề lao động trên có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ngành dệt may. Phần lớn các doanh nghiệp không ngại đầu tư mở rộng năng lực sản xuất mà điều khiến họ chùng tay là lao động ngành dệt may vừa thiếu lại vừa yếu. Nếu không có những biện pháp căn cơ hơn để thúc đẩy đào tạo nghề, nhất là đào tạo công nhân ngành dệt may thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư của ngành. 4. Vấn đề nội địa hóa: Một trong những mục tiêu quan trọng nhằm thúc đẩy công nghiệp dệt may có đủ tiềm lực phát triển là phấn đấu nâng cao tỉ lệ nội địa hóa. Tuy vậy vấn đề nội địa hóa vẫn là một chặng đường còn rất xa đối với ngành dệt may Việt Nam. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, tỷ lệ nội địa hóa năm 2003 dù đã tăng trên 14,2% so với năm 2001, nhưng đến nay mới chỉ dừng lại ở mức xấp xỉ 40%, như vậy chặng đường nội địa hóa 50% ngành dệt may 2001-2005 đã hoàn toàn vỡ kế 11hoạch. Do đó, đích đến năm 2010 với tỷ lệ nội địa hóa lên đến 75% là rất khó đạt được. Chỉ tiêu tăng sản xuất vải dệt thoi để cung cấp cho ngành may trong những năm qua đạt thấp vì sản lượng vải đến năm 2005 mới đạt gần 600 triệu m2/năm, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra 800 triệu m2/năm và 1,2 tỷ m2/năm vào năm 2010. Thực tế của ngành dệt may trong thời gian qua cho thấy, ngành dệt may nước ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Áp lực cạnh tranh sẽ càng được nhân lên khi Việt Nam thiếu nguồn nguyên liệu tại chỗ, thiếu ngành công nghiệp phụ trợ và hiện vẫn phải nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu. Trong thời gian qua, kế hoạch phát triển một ngành công nghiệp phụ trợ triển khai quá chậm cũng là vấn đề không ít doanh nghiệp dệt may lo ngại khi Việt Nam hội nhập. Bên cạnh đó tình trạng người lao động không còn thiết tha với ngành dệt may, cụ thể là làn sóng chuyển dịch lao động thời gian qua, ưu thế chi phí nhân công thấp không còn, ngành công nghiệp phụ trợ lại yếu càng khiến cho doanh nghiệp khó cạnh tranh hơn. Nói chung sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thế giới vẫn còn thấp, ngay cả trong điều kiện được bãi bỏ hạn ngạch. Như vậy, rõ ràng khi mở cửa thị trường những lợi thế cạnh tranh cho ngành dệt may như giá nhân công thấp [vốn là lợi thế trước đây] sẽ không còn là điểm mạnh để ngành dệt may và các doanh nghiệp dựa vào. Cái gốc để phát triển tại thời điểm này là phải có một nền công nghiệp phụ trợ đủ mạnh, đủ sức để cung cấp vải, nguyên liệu cho các doanh nghiệp chủ động xuất khẩu và làm ra những sản phẩm có tính cạnh tranh lớn với hàm lượng giá trị tăng cao. Kể từ thời điểm hạn ngạch dệt may được dỡ bỏ [ngày 1/1/2005], mối quan hệ cung-cầu giữa nhà sản xuất và khách 12 hàng đã được định dạng lại. Các doanh nghiệp thay vì thụ động ngồi chờ đơn hàng như trước, nay phải tích cực chủ động tìm kiếm và xây dựng quan hệ hợp tác kinh doanh với khách hàng. Nhưng có một thực tế là, chỉ có những doanh nghiệp lớn có công nghệ tốt, quy mô sản xuất bài bản mới thiết lập được những mối bạn hàng tin cậy và có khách hàng lâu dài là những nhà nhập khẩu lớn. Trong khi thực tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, do đó khó khăn để phát triển thị trường là rất lớn. 5. Thị trường nội địa Trong những năm gần đây thị trường nội địa dệt may Việt Nam có xu hướng mở rộng nhanh chóng, do các sản phẩm dệt may được xếp vào loại sản phẩm không thể thay thế được, mặt khác với thị trường dân số hiện trên 80 triệu người và thu nhập từng bước được nâng cao. Hiện nay, nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc của thị trường trong nước tương đương 389.000 tấn sản phẩm dệt/năm. Như vậy, mỗi năm trung bình một người Việt Nam tiêu thụ khoảng 4,8 kg hàng dệt. Hiện chưa có một công thức chính xác để quy đổi con số trên ra số bộ quần áo [và sản phẩm may mặc khác] một người Việt Nam tiêu thụ trung bình mỗi năm. Tuy nhiên, có thể khẳng định là tiêu dùng nội địa hiện thấp hơn nhiều so với mức chung của thế giới. Trong những năm tới, nhu cầu hàng may mặc của thị trường nội địa sẽ ngày càng tăng cao cùng với sự tăng trưởng đều đặn thu nhập và mức sống dân cư [khoảng 5%/ năm]. Mặc dù mức tiêu dùng còn khiêm tốn nhưng xét về tương quan thì quy mô thị trường nội địa không quá nhỏ bé so với thị trường xuất khẩu: năm 2000, tổng giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 1,9 tỷ USD thì tiêu thụ dệt may nội địa cũng khoảng 1 tỷ USD. 13Bảng 1.3: Dự báo quy mô thị trường nội địa 2000 2002 [D.kiến] 2010 [D.kiến] 2020 [D.kiến] [Giả thiết]Thu nhập bình quân đầu người thực tế [USD] 350 500 700 1300Công thức dự tính [Kết quả sơ cấp] tiêu dùng dệt trong nước tính theo đầu người [gồm cả nhập khẩu] [kg] 4,8 5,8 6,3 10,1[Giả thiết về dân số] tốc độ tăng hàng năm 1,2% [đơn vị triệu dân] 81 89 99 120[Kết quả thứ cấp] tiêu dùng dệt [1.000 tấn] 389 516 623 1212Giả thiết giá bình quân không đổi [đơn vị USD/tấn] Lý do: cạnh tranh với hàng nhập khẩu 2570 2570 2570 2570[Kết quả cuối cùng] Quy mô của thị trường nội địa [tỷ USD] 1,0 1,3 1,6 3,1Nguồn: Viện Nghiên cứu Nomura tổng hợp Ngoài đặc điểm thuận lợi đối với ngành may Việt Nam là dung lượng thị trường khá lớn và tiềm năng tăng trưởng khá, thì tiêu dùng nội địa hiện nay còn khá "dễ tính". Chỉ ở thành phố, 14 thị xã ... mới có sự lựa chọn kỹ càng về kiểu dáng, chất liệu, màu sắc, thời trang... còn đa số người dân nông thôn chỉ mới chú trọng đến yếu tố “ăn chắc, mặc bền”. Trong tiêu dùng hàng may mặc hiện nay thì hàng may sẵn là hình thức chủ yếu vì nhanh gọn, đơn giản và tiện lợi, giá rẻ lại phong phú, đa dạng về mẫu mã, chủng loại. Đồ may sẵn thường xuyên phải giảm giá do chất lượng thấp, tiêu thụ chậm, tồn đọng nhiều. Những sản phẩm gắn mác chất lượng cao chỉ phù hợp với một bộ phận nhỏ tiêu dùng trong xã hội. Tại Việt Nam, mức sống của người dân thành thị ngày càng cao và đang theo xu hướng chuyển sang tiêu dùng hàng may mặc cao cấp nhập khẩu từ Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản ... Một bộ phận dân cư ưa chuộng phương thức may đo không chỉ với những bộ quần áo sang trọng mà cả quần áo mặc thường ngày. Hàng may mặc nội địa cũng có một vị thế khá vững chắc với nhiều thương hiệu nổi tiếng như Việt Tiến, May 10, Thành Công, Thăng Long. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà với hàng dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtan…, nhất là hàng may mặc từ Trung Quốc vì hàng Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường sản phẩm may mặc đơn giản, thường ngày và đáp ứng nhu cầu cho các tầng lớp dân cư có thu nhập từ thấp đến trung bình và khá. Đặc điểm của thị trường may mặc nông thôn là tiêu dùng ít, tập trung vào một số thời điểm trong năm [ngày Tết, cuối thu - đầu đông ...]. ở đây hầu như không xuất hiện hàng may mặc nội địa mà chỉ có hàng Trung Quốc giá rẻ, chất lượng trung bình và thấp cùng với hàng may sẵn của các hộ gia đình địa phương. Thực tế là cả số hàng địa phương này sản xuất cũng hầu như sử dụng 100% vải vóc, nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc. Như vậy, ảnh hưởng của nhân tố Trung Quốc đối với thị trường may mặc nội địa là rõ ràng và rất lớn. 15 Thứ nhất, hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập, hàng Việt Nam muốn mở rộng kinh doanh nội địa phải vượt qua được thách thức cạnh tranh gay gắt về nhiều mặt của hàng Trung Quốc. Hàng Trung Quốc cũng đã làm thay đổi một phần thói quen tiêu dùng sản phẩm may mặc trong một bộ phận dân cư. Thứ hai, sự buôn lậu tràn lan các mặt hàng may mặc Trung Quốc vào Việt Nam đã gây ra sự biến động lớn về thị trường, gây tác hại xấu đến môi trường kinh doanh trong nước. Thứ ba, hàng dệt Trung Quốc nhập khẩu xét theo khía cạnh tích cực cũng đã bổ sung nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành may trong nước. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng [Bộ Thương mại và Tổng công ty dệt may Việt Nam] các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện có thể đáp ứng đến 80% nhu cầu nội địa, khoảng 10% được phép nhập khẩu nhằm thỏa mãn nhu cầu của tầng lớp có thu nhập cao gồm các loại quần áo thời trang cao cấp của Hoa Kỳ, Anh, Ý, Pháp… Tuy nhiên, vấn đề là 10% nhu cầu còn lại đang bị cuốn hút bởi hàng ngoại nhập khẩu trái phép. Nghiêm trọng nhất là tình trạng nhiều hàng Trung Quốc, Thái Lan được nhập khẩu trốn thuế, giá bán rất thấp làm khuynh đảo cả hàng nội địa ngay trên sân nhà. Cũng như nhiều mặt hàng tiêu dùng khác, hàng may mặc trong nước rất đa dạng và khó quản lý. Bên cạnh những ưu điểm như phong phú về mẫu mã và chủng loại, đa dạng về chất lượng, linh hoạt về giá cả, thị trường dệt may nội địa đang bộc lộ một số hạn chế như: - Hàng không rõ nguồn gốc tràn lan. Do xu hướng tự do hóa thương mại nên hàng vải sợi, may mặc ở nước ta rất nhiều nguồn hàng. 16 - Giá cả không theo quy chuẩn. Sự tràn ngập hàng dệt may trên thị trường nội địa làm tăng tính cạnh tranh. Hàng hóa sản xuất trong nước có chất lượng tốt nhưng giá cả cao, trong khi hàng hóa không rõ nguồn gốc giá cả linh hoạt tùy thuộc vào người bán người mua. - Chất lượng hàng hóa rất khó nhận biết và không được đảm bảo. - Hàng dệt trong nước bị cạnh tranh quyết liệt ngay trên sân nhà. Nguyên nhân của tình trạng này là do hoạt động quản lý thị trường chưa thật chặt chẽ. Việc hàng nhập lậu không xuất xứ bán tràn lan đã gây ra biến động lớn về thị trường, gây tác động xấu đến môi trường kinh doanh, tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa hàng lậu trốn thuế với hàng hóa dệt may trong nước sản xuất. Hơn nữa, hàng dệt may sản xuất trong nước có chất lượng tốt nhưng mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành còn cao Để phát triển thị trường nội địa các doanh nghiệp dệt may trong nước vấp phải một số khó khăn: Một là, muốn bán sản phẩm trong nước các doanh nghiệp phải mở các cửa hàng của chính họ hoặc bán qua các đại lý. Gánh nặng tài chính trong lưu kho và hình thành các kênh phân phối cùng với sự tràn lan của hàng lậu và hàng nhái là quá lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hai là, ngành may Việt Nam hiện đang phụ thuộc quá lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu là từ Trung Quốc. Với gần 70% nguyên liệu phải nhập khẩu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không chủ động được kế hoạch sản xuất và nguồn sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Ba là, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà với hàng dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtan…bởi vì hàng rào thuế nhập khẩu 50% đối với hàng may mặc và 40% đối với vải sẽ phải giảm xuống từ 10-15%

Video liên quan

Chủ Đề