Người an nam là ai

Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc hiệu khác nhau, như: Văn lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt…

Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc người Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.

Do nhu cầu trị thủy, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang, tự xưng vua, mà sử cũ gọi là Hùng Vương, con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.

Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với một phần phía nam Quảng Đông, Quảng Tây [Trung Quốc]. Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên [TCN] đến thế kỷ 3 trước Công nguyên.

Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán, thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt, được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 trước Công nguyên, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương [An Dương Vương], liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.

Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng chiến của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta [Âu Lạc] thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên “Âu Lạc” trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của nhân dân ta.

Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế [lấy tên hiệu là Lý Nam Đế], đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đình Trung Quốc [từ năm 602]. Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế [lấy tên hiệu là Đinh Tiên Hoàng] và cho đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt [nước Việt lớn]. Quốc hiệu này duy trì suốt thời Đinh [968-979], Tiền Lê [980-1009] và đầu thời Lý [1010-1053].

Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý [Lý Thái Tông] liền cho đổi tên nước là Đại Việt và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần.

Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu [“ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”]. Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ [tháng 4/1407].

Sau 10 năm kháng chiến [1418 - 1427], cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê lợi lên ngôi, đặt lại tên nước là Đại Việt [lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế]. Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê [1428-1787] và thời Tây Sơn [1788-1801].

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng “Việt Nam” lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí [ghi chép về các đời ở Việt Nam] do Trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi [đầu thế kỷ 15] nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 - 1585], chẳng hạn ngay trong mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ văn đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 - 17 như bia chùa Bảo Lâm [1558] ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ [1590] ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh [1664] ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy Môn Đình [1670] ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” [đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc]. Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ “Việt Nam” kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý [người Việt ở phương Nam].

Cuối thời vua Minh Mạng, quốc hiệu được đổi thành Đại Nam [năm 1838]. Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.

Ngày 19/8/1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946.

Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết, thiêng liêng đối với mọi tầng lớp nhân dân.

Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa ViệtNam. Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.

Huy Hoàng

Đế quốc An Nam và người dân An Nam được đăng lần đầu [nhiều kỳ] trên tờ Công báo Courrier de Saigon [Sài Gòn thư tín] vào năm 1875 - 1876, xuất bản dưới sự bảo trợ của chính quyền thuộc địa. Năm 1889, Jules Silvestre, Giáo sư Trường Khoa học Chính trị Paris, tiến hành định bản phần nội dung công bố trên báo để in thành sách, ông cũng viết thêm tám đề mục và bổ sung một số chỉ dẫn thận trọng, nhằm cập nhật một tác phẩm theo ông là đã hoàn thành vào năm 1859, để khai sáng cho Tổng tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Pháp tại Nam kỳ lúc bấy giờ.

Không rõ tác giả cụ thể của tác phẩm này là ai, nhưng khi đọc kỹ nội dung, chúng ta có thể biết được họ là những người rời nước Pháp vào thập niên 1830 và chuyên sống với người An Nam trong hơn 15 năm, để tìm hiểu văn hóa, tập tính, lối sống, tính cách... của người An Nam. Một số thông tin đề cập trong sách dừng lại ngang thời điểm trước năm 1847; những việc khác kéo dài đến năm 1858.

Công trình thú vị

Đế quốc An Nam có bố cục gồm 5 chương, đề cập đến các vấn đề: địa lý, đất đai, khí hậu, sản vật, nhân chủng học, kiến thức, kỹ nghệ và hoạt động tiêu khiển của người An Nam. Các tác giả bỏ qua vài vấn đề quan trọng liên quan đến chính quyền, lịch sử đất nước An Nam; phần nội dung này sau đó được Jules Silvestre bổ sung trong Phần hai [Phụ lục] cùng với các nội dung khác [than đá, thuế khóa, dân số, tài chính và binh luật An Nam], nhằm làm rõ và hoàn thiện các chủ đề tổng quát quan trọng, hoặc để phát triển một số điểm lý thú giúp người đọc tiếp cận tác phẩm dễ dàng hơn.

Đây là công trình thú vị, là bản tóm tắt các quan sát gần, từ bên ngoài, trong một thời gian dài trên các địa điểm khác nhau của Đế quốc An Nam, bởi những con người sống thành tín và hòa nhập với người bản địa, do đó có độ tin cậy nhất định. Qua ghi chép của các tác giả, một bức tranh tổng thể, đa diện về đất nước và con người An Nam được trưng ra trước mắt người đọc với những gam màu, sắc thái dễ chịu và mang tính tích cực: “Đế quốc An Nam [...] [là] một trong những cường quốc mạnh nhất châu Á, bởi những tiến bộ đạt được trong kỹ thuật chiến tranh, bằng cách áp dụng kỷ luật của người châu Âu” [tr.17], hoặc “quan trọng là phải xem họ [An Nam] như một quốc gia văn minh. [...] xứng đáng được khách viễn du chú ý hơn” [tr.167]...

Các tác giả đã thâm nhập vào bên trong xứ sở An Nam và đi khắp các tỉnh thành nhằm tìm hiểu đời sống, sinh hoạt làng xã, chuyện xây dựng và lưu trú, chuyện tiếp khách ở nhà và sống với gia đình, cách thức giáo huấn cho trẻ em và việc tác thành cho chúng ra sao, những nghi thức chôn cất người chết và để tang cho người qua đời... Từ đó, họ bước đầu ghi nhận sự nhất quán về mặt ngôn ngữ, phong tục và tập quán riêng; đánh giá được các thiết chế tôn giáo, chính trị và dân sự của An Nam; có được sự hiểu biết về tính cách và mức độ trí tuệ của người An Nam, nền văn minh, sự sung túc và quan trọng ở tầm mức một quốc gia.

Với cái nhìn thấu đáo từ quan sát và sự tiếp xúc gần, đời sống văn hóa tinh thần cũng như phong tục tập quán của người An Nam được mô tả tường tận và sống động, cả tốt lẫn xấu: Ít có nhà xây bằng gạch và lợp ngói, nhà gỗ được ưa chuộng, thuận tiện hơn, ít đòi hỏi bảo trì và tồn tại lâu hơn; Mọi người đàn ông trong gia đình đàng hoàng, tự cho là có tài khéo trong nhà, làm tất cả những đồ không có vẻ xa xỉ, như điêu khắc, chọn gỗ; Dáng đi nhanh nhẹn và năng động, thoạt đầu họ dè chừng và giữ lễ, sau đó lễ độ và niềm nở; Sự hiếu khách ở người dân nơi này là tính tốt bụng một cách tự nhiên; Người An Nam, được ăn mặc vào, không kém phần đĩnh đạc và có dáng vẻ trung thực; Người dân tốt bụng và dịu dàng, nói chung không vụ lợi; Người An Nam tốt và đằm tính, trí tuệ và biết cách vận dụng nó, họ nhân ái và rộng lượng; Khi tiếp lữ khách xa nhà, họ rất vui, rộng lòng chia sẻ chỗ ăn ngủ bình thường, và đón khách một cách vinh dự nhất mà họ có thể; Không bao giờ thấy người An Nam phàn nàn về việc có quá nhiều con, người ta coi đó là một phước lớn; Trong gia đình, người ta thấy họ sửa dạy những đứa con cả và con thứ, ngay khi đã lớn, với cái roi mây dữ dằn. Bởi roi mây là cách sửa dạy tốt nhất đối với sự vô lễ, khinh suất, lười biếng hoặc bồng bột của tuổi trẻ, khi sử dụng đúng, chừng mực và không có sự tức giận; Học chữ, một việc học kéo dài, có thể hết phần lớn cuộc đời một con người, và chiếm hết hai mươi đến ba mươi năm đầu của một nho sinh, trước khi anh ta có thể học được điều gì đó; Mọi phụ nữ, kể cả những người vợ, góa phụ hay thiếu nữ, giữ quyền hạn lớn ở nhà và trong làng xã của họ. Họ rất siêng năng trong công việc đồng áng và việc nhà, họ khéo léo và tiết kiệm; Người An Nam tức giận, nhưng họ không hằn thù; Cãi cọ, nguyền rủa và chửi bới rất sống động nhưng bạo hành, giết người, phóng hỏa cực kỳ hiếm; Nhẹ dạ, kiêu căng tự phụ; Mê sự hào nhoáng, thích khoe khoang, dũng cảm khi không cần phải dè dặt; Có thói quen vòng vo và tránh né; Háu ăn, cờ bạc và say rượu là những tệ nạn ở đất nước này...

Những nhận xét tinh tế, góc nhìn phê phán khác lạ từ bên ngoài gần 200 năm trước đem soi chiếu vào xã hội hiện tại có thể sẽ khiến nhiều độc giả ngày nay tự ái hoặc nổi giận. Tuy nhiên, tiếp nhận cuốn sách một cách tỉnh táo, lưu ý đến khung thời gian ra đời của nó, xem đó như một bức tranh sinh động về tự nhiên và xã hội An Nam một thuở, thì đây là một tài liệu tham khảo phong phú và hữu ích, với một số lời cảnh tỉnh cần thiết để soi lại chính mình. 

Hơn một năm trước, cuốn sách Tâm lý dân tộc An Nam [xuất bản năm 1904 sau 3 năm tác giả Paul Giran sống và làm việc ở Đông Dương thuộc địa] được dịch sang Việt ngữ đã tạo ra những cuộc tranh luận về chính trị bản sắc, lịch sử thực dân, khoa học, nhân chủng và căn tính của người Việt trên báo chí cũng như cộng đồng mạng. Người thì khen Paul Giran thẳng thắn, có những nhận định xác đáng về tính cách, bản chất của người An Nam...; bên chê phê bình Paul Giran đã sai phương pháp khi dùng thuyết bất bình đẳng và nhãn quan thực dân đi khai hóa văn minh để nhìn người An Nam như một chủng tộc hạ đẳng. Trong khi đó, ra đời trước Tâm lý dân tộc An Nam gần 50 năm và có mục đích viết tương đối khác, các tác giả Đế quốc An Nam và người dân An Nam đã có một đời sống gần gũi trong khoảng thời gian tương đối dài với người bản địa, có những góc nhìn sắc sảo, không thành kiến, thấu rõ tâm hồn và bản chất người An Nam, vì vậy những đức tính tốt cũng như thói hư tật xấu trong tính cách của người An Nam được họ mô tả tương đối khách quan và chừng mực.

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề