Nhân vật trữ tình trong Cung oán ngâm khúc

LỜI CẢM ƠNTôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn – Thạc sỹ Thạch KimHương, các thầy - cô giáo trong tổ văn học Việt Nam I cùng các bạn đãgiúp đỡ tận tâm, nhiệt tình để tơi hoàn thành luận văn này.Sinh viên:Phạm Thị Vân0 PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài:Như chúng ta đã biết, chế độ cung tần là một trong muôn nghìn taihọa của người phụ nữ thời Phong Kiến. Nó là đỉnh cao nhất, dã man nhấtcủa chế độ đa thê. Người cung nữ sau khi bị bắt vào cung phải sống mộtcuộc đời rất khổ cực. Hạnh phúc tuổi trẻ của họ bị vua chúa cướp đoạt, vì“thân phận cái én ba nghìn”, và vì bản chất “chơi hoa cho rữa nhị dần rồithôi” của vua chúa; làm sao tất cả mọi người trong số họ đều được vuachúa lưu ý tới. Tuyệt đại đa số cung nữ không hề biết đến hạnh phúc yêuđương. “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều ra đời trên cơ sởnhững thực tế thảm thương của chế độ đó.Cùng với bản dịch “Chinh phụ ngâm” - Đồn Thị Điểm, “Cung ốnNgâm khúc” của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được coi là hai hạt ngọctrong tác phẩm văn học chữ Nôm thuộc dòng văn học cổ điển Việt Namgiai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Khác với những thếkỷ trước các tác giả của các tác phẩm song thất lục bát của thế kỷ XVIIIđưa thể thơ này vào chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bikịch. Trong những tác phẩm đó, “Chinh phụ ngâm” và “Cung oán ngâmkhúc” được đánh giá là những tác phẩm viết theo thể song thất lục bát cóthành tựu nghệ thuật lớn lao nhất đối với sự phát triển của văn học. Thôngqua các tác phẩm ấy lần đầu tiên văn học Việt Nam hướng đến tâm tư, sốphận của những con người cụ thể mà “Cung oán ngâm khúc” cùng với“Chinh phụ ngâm” trở thành cái mốc đánh dấu sự đổi mới về lí tưởng thẩmmĩ của thời đại và khơi gợi nhiều cảm hứng mới mẻ cho các nhà thơ, nhàvăn sau này.1 Song song với việc khúc ngâm ra đời, tính phi ngã trong văn học cổtruyền bắt đầu đầu bị phá vỡ, để văn học chuyển mình trong một giai đoạnmới rực rỡ, con người tồn tại với tư cách là cá nhân ngày càng xuất hiệnnhiều hơn, đậm nét hơn trong văn chương. Con người trong văn học cổ làcon người bị phủ nhận phần cá nhân của nó, cái tơi cá nhân phải kìm nénmọi tình cảm, ước muốn của bản thân để hoà nhập với cái ta của cộngđồng, của xã hội. Chính vì vậy cuộc sống con người trở nên đơn điệu, tẻnhạt và khuôn sáo. Cùng với sự trỗi dậy của con người cá nhân, văn họcchú ý phản ánh đời sống bên trong của con người, với những khát vọnghạnh phúc lứa đôi, vấn đề quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc trần thếđược biểu hiện một cách rõ ràng, cụ thể, sâu sắc.Viết về đề tài “cung nữ”, “cung ốn” khơng phải là hiếm trong vănhọc. Chỉ tính riêng khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII văn học ViệtNam đã có trên dưới 6 tác phẩm lên án chế độ vô nhân đạo ấy. Các nhânvật trong tác phẩm đã phải trải qua số phận đau khổ; nhưng có lẽ khơng aicó số phận bi kịch và thảm thương như người cung nữ của Nguyễn GiaThiều. Tiếng than của nàng là tiếng nói của con người đau khổ nhưng thiếttha nguyện cầu hạnh phúc và sớm bị chôn vùi tuổi trẻ nơi cung cấm.“Cung ốn ngâm khúc” là tác phẩm có vị trí đặc biệt trong nền vănhọc Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Kểcũng hiếm có tác phẩm nào nói lên cái khát khao thoả mãn cuộc sống ái ânvừa táo bạo, quyết liệt, vừa mạnh mẽ như “Cung oán ngâm khúc”.Bản thân đã được nghe đến tác phẩm từ lâu. Ngay từ khi cịn là họcsinh THPT đã được đọc ở chương trình văn học lớp 10, nhưng chưa có điềukiện tìm hiểu kỹ, do đó chưa hiểu đúng giá trị của tác phẩm. Đây là cơ hộitốt nhất để bản thân đi sâu tìm hiểu khám phá.“Cung ốn ngâm khúc” là tác phẩm từ trước đến nay đã có nhiều bàiviết chuyên luận, đề tài đề cập đến. Nhưng vấn đề “Nghệ thuật diễn tả tâm2 trạng một người cung nữ” chưa được tìm hiểu kỹ, chưa được quan tâmđúng mức, cịn có chỗ để đi sâu tìm hiểu và cần phải bàn đến.Đây là tác phẩm không được đưa vào giảng dạy trong các buổi họcchính khố ở trường THPT, nhưng việc lựa chọn đề tài sẽ giúp ích chochúng tơi rất nhiều trong việc hiểu được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vậtcủa các tác giả Văn học Việt Nam trung đại. Quá trình hồn thành luận văncó ý nghĩa thiết thực đối với bản thân trong công tác giảng dạy văn học saunày, đặc biệt là với việc phân tích những tác phẩm văn học cổ nói chung.Cái làm nên đặc sắc, độc đáo của “Cung oán ngâm khúc” trước hết phải kểđến “Nghệ thuật diễn tả tâm trạng người cung nữ” của Nguyễn GiaThiều.2. Lịch sử vấn đề:Kể từ lúc “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều ra đời chođến nay, ở thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng có bài viết về nó, bàn luận,nghiên cứu,… và ca tụng nó.2.1. Tên các cơng trình, chun luận viết về “Cung oán ngâm khúc”:+ Nguyễn Văn Luận, “Bình luận về Cung oán ngâm khúc”, NamPhong, H, số 50, 1921.+ Đinh Xuân Hội [khảo đính, chú giải], “Cung ốn ngâm khúc”,NXB H, 1931.+ Nguyễn Văn Hoàn, Lịch sử văn học Việt Nam tập 1, NXB KHXH,H, 1980, cũng có bài viết bình về nỗi buồn tủi, giận hờn của người cung nữkhi bị vua ruồng bỏ.+ “Nguyễn Gia Thiều và Cung oán ngâm khúc” của Đặng ThanhLê.+ “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Lộc.+ “Cung oán ngâm khúc” của Phạm Luận.+ “Cung oán ngâm khúc” của Trần Thị Băng Thanh.3 + “Tiếng khóc nhân loại trong tiếng khóc Nguyễn Gia Thiều”Vũ Khiêu.+ “Mấy vấn đề đặt ra từ hội thảo khoa học về Nguyễn Gia Thiều vàCung oán ngâm khúc” – Nguyễn Huệ Chi.+ “Giá trị hư ảo vô nghĩa của cá nhân con người trong Cung oánngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều” – Trần Đình Sử.+ “Nỗi buồn tủi giận hờn của người cung nữ” Hoàng Hữu Yên.2.2. Các ý kiến khác nhau về nghệ thuật xây dựng tác phẩm, cũng nhưnghệ thuật miêu tả tâm trạng người cung nữ trong “Cung oán ngâmkhúc” của Nguyễn Gia Thiều.+ Dương Quảng Hàm, “Việt Nam văn học sử yếu”, xuất bản năm1950 viết: “…Tác giả làm ra lời một cung phi có tài có sắc trước được nhàvua yêu chuộng, nhưng không bao lâu bị chán bỏ, than thở về số phận củamình. Lời văn thì rõ là của bậc túc nho uẩn khúc… thật tả hết nỗi đau khổ,bực dọc của một người đàn bà còn trẻ mà bị giam hãm trong cảnh lẻ loi,lạnh lùng” [15 – 226].+ Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước, Vũ Đình Liên [Bình luận, hiệuđích, chú thích], “Cung ốn ngâm khúc”, Bộ giáo dục xuất biên, H, 1957,đã nêu lên được nội dung nhân đạo của tác phẩm, đó là: “Cung ốn ngâmkhúc đã diễn tả một cách sâu sắc, mạnh mẽ những nỗi đau khổ của ngườicung nữ nói riêng và phụ nữ nói chung dưới chế độ Phong kiến, khôngnhững ở Việt Nam mà còn ở tất cả các nước, giam cầm hàng trăm ngườiphụ nữ trong thâm cung để thoả mãn tình dục của chúng đã được tác phẩmphơi bày và gián tiếp tố cáo trong khúc ngâm ca này” [15 – 226].+ Nguyễn Lộc, văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa cuốithế kỷ XIX, NXB ĐH và THCN, H, 1978 đã khẳng định: “Trong Cung oánngâm khúc tác giả đã đả kích trực tiếp chế độ cung nữ và bọn vua chúa ănchơi trụy lạc” [15 – 225].4 + Hà Như Chi trong “Việt Nam thi giảng luận”, NXB tổng hợpĐồng Tháp, 1994 cũng đã có sự nhận xét đánh giá về con người cung nữ.+ Ở bài viết “thể loại ngâm và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn GiaThiều” – N.I.Niculin đã khẳng định: “Ngâm tập trung vào việc miêu tả conngười cá nhân riêng lẻ mà số phận của nó do bức tranh tồn cảnh xã hộirộng lớn được phản ánh trong tác phẩm quy định”. Và ông khẳng định: “Tác phẩm trước hết nhằm kể về những tâm trạng buồn đau sầu não nhưngtrong đó nó cũng nói lên niềm vui, hạnh phúc , có cơn giận dữ và cũng cótia hy vọng” [10 – 93, 94].+ Đặng Thanh Lê là người có khá nhiều bài viết về “Cung oán ngâmkhúc” và ở SGK văn 10, NXB GD 1998, bà viết: “…Người cung phi bịruồng bỏ đã trải qua những tâm trạng khắc khoải mong chờ, buồn tủi, giậnhờn vì tuyệt vọng, buồn tủi và giận hờn đi đến cực độ…” [1 – 153].+ Ở giáo trình “văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầuthế kỷ XIX”, Nguyễn Lộc tìm hiểu bút pháp nghệ thuật trong “Cung oánngâm khúc” là bút pháp có tính chất ước lệ tượng trưng đậm nét.Theo ông, “Trong tác phẩm tất cả đều mang màu sắc ước lệ từ cáchmiêu tả sắc đẹp, tài năng của người cung nữ, tâm trạng khao khát day dứtcủa nàng, đến cách miêu tả cách ăn chơi trong cung cấm khơng có gì là cụthể xác thực, mà đều được phóng đại, được mĩ hố, được cách điệu” [7 –192].+ Tiếp tục đề cập đến vấn đề này, Nguyễn Thuý Hồng trong cơngtrình “Hai hệ thống ngơn ngữ trong câu thơ Cung oán ngâm khúc củaNguyễn Gia Thiều” khẳng định: “Bên cạnh việc miêu tả cụ thể chi tiết bằngngôn ngữ thuần Việt… thì Nguyễn Gia Thiều dùng nhiều từ láy trong tácphẩm [94 từ]”. Theo Nguyễn Thuý Hồng… “Hệ thống từ láy của tác phẩmđã biểu đạt rất nhiều sắc thái tâm tư, khi thì “tê tái”, lúc âm thầm, khi thì“bâng khng”… chính các từ láy đó giúp độc giả thấy được mức độ sâuhay nông của tâm tư nhân vật” [10 – 136].5 Và Nguyễn Th Hồng cũng khơng qn nêu lên hình ảnh “thiênnhiên trong tác phẩm là thiên nhiên được thẩm thấu qua tâm trạng nhânvật người cung nữ bị bỏ rơi sầu khổ, một thiên nhiên mang đậm tìnhngười” [10 – 136].+ Hồng Hữu n thì cho rằng: “Cung ốn ngâm khúc là tiếng nóiđộc thoại vang lên đầy ai oán, khi thẫn thờ da diết và cuối cùng là nỗi bựcbội giận hờn thì tác giả mượn bút pháp tả cảnh ngụ tình. Ngịi bút lách vàonhững miền sâu thẳm của tâm tư, ý nghĩa của nhân vật…” [18 – 193].Trải qua một thời gian tìm hiểu, phát hiện những tài liệu có ý nghĩaphục vụ cho đề tài, chúng tơi nhận thấy rằng đã có nhiều cơng trình nghiêncứu tác phẩm “Cung ốn ngâm khúc”. Nhưng nhìn chung chưa có cơngtrình nào đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật diễn tả tâm trạng người cung nữtrong “Cung oán ngâm khúc” của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều như mộtcơng trình nghiên cứu khoa học có hệ thống hồn chỉnh, mà người ta chỉ đềcập sơ lược hoặc tổng qt về vấn đề đó khi đi vào phân tích giá trị nghệthuật của tác phẩm. Như vậy, ở phương diện nghệ thuật diễn tả tâm trạngngười cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” là một phương diện quantrọng nhưng chưa được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức. Điều này vừalà khó khăn, vừa là thuận lợi cho chúng tơi trong q trình hồn thành luậnvăn. Khó khăn vì sự ít ỏi về tài liệu thì việc xác định hướng đi của đề tài thìquả thật khơng dễ dàng gì, tài liệu ít chúng tơi khó có thể tham khảo cáccách viết, các quan niệm của nhiều người để lựa chọn ý tưởng hay. Mặtkhác, chính vì sự khó khăn đó buộc chúng tơi phải tự cố gắng để phát huykhả năng, năng lực sáng tạo của bản thân mình.Mặc dù nghệ thuật diễn tả tâm trạng người cung nữ trong khúc ngâmchưa được giới nghiên cứu khảo sát một cách đầy đủ có hệ thống khoa học.Song những bài viết chúng tôi tham khảo đã được nêu lên những vấn đề cốtlõi của đề tài. Từ những công trình ấy chúng tơi tập hợp được nhiều ý kiếnhết sức quý báu để trên cơ cở đó phát triển đề tài sâu rộng hơn, toàn diện6 hơn. Quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài này chúng tơi mới có dịp đi sâutìm hiểu khám phá một cách có hệ thống trực tiếp và tồn diện. Với sự nỗlực hết mình chúng tơi mong sao luận văn sẽ góp phần khơng nhỏ để giúpngười đọc có được cái nhìn khái quát, sâu sắc khi đến với tác phẩm “Cungoán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.Đây chỉ là luận văn tốt nghiệp của một sinh viên mới bắt đầu tìm tịi,thể nghiệm trên con đường nghiên cứu khoa học. Dù đã cố gắng hết mình,nhưng do năng lực có hạn, vì vậy sẽ có những khiếm khuyết… Rất mongđược sự góp ý giúp đỡ của các thầy – cô giáo trong khoa và các bạn.3. Phương pháp nghiên cứu“Cung oán ngâm khúc” là tác phẩm kết tinh nhiều thành công, sángtạo nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều, trong đó “Nghệ thuật diễn tả tâmtrạng người cung nữ” là phương diện thành cơng nhất. Hêghen từng nói:“Phương pháp tương ứng với đối tượng”, để có cách tiếp cận với vấn đềsâu sắc hơn, khoa học hơn, chính xác hơn chúng tôi sử dụng những phươngpháp nghiên cứu sau:- Phương pháp phân tích.- Phương pháp liệt kê.- Phương pháp bình giảng.- Phương pháp so sánh, đối chiếu…Tất cả những phương pháp trên đây đều được quán triệt theo quanđiểm lịch sử: Một tác phẩm văn học không những là con đẻ của nhà văn,của một truyền thống văn học… mà cịn là tác phẩm một hồn cảnh lịch sử– kinh tế xã hội nhất định. Cho nên tìm hiểu mảnh đất sinh ra nó đã trởthành điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc phân tích, đánh giá tác phẩmchính xác. Vì vậy, khi nghiên cứu tác phẩm văn học dù ở phương diện hìnhthức hay nội dung cũng phải trả tác phẩm đó nó về nơi phát sinh ra nó.4. Giới hạn đề tài7 Đến với tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” chúng ta có thể tìm hiểutrên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau. Nhưng ở đây với đề tài nàychúng tôi tập trung đi sâu vào khai thác nghệ thuật diễn tả tâm trạng ngườicung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều. Có nghĩa làchúng tơi đi sâu vào tìm hiểu, phân tích… những biện pháp nghệ thuật màtác giả sử dụng để làm nổi bật những trạng thái tâm hồn, cảm xúc nhân vậtngười cung nữ.PHẦN NỘI DUNG1. Vài nét về tác giả và tác phẩm1.1. Tác giả Nguyễn Gia Thiều [1741 – 1798]Ôn Như Hầu – Nguyễn Gia Thiều biệt hiệu Hi Tôn Tử và Như ÝThiền, được phong tước hầu Ôn Như nên thường gọi là Ôn Như HầuNguyễn Gia Thiều.Nguyễn Gia Thiều sinh năm 1741, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm,huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc [nay là huyện ThuậnThành, tỉnh Bắc Ninh], trong một gia đình đại q tộc, có nhiều người làmtướng, làm quan cho triều đình.Ơng thân sinh của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võquan cao cấp được phong tước hầu. Mẹ Nguyễn Gia Thiều là công chúaQuỳnh Liên. Con gái An Đồ Vương Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọichúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu một, và là con cô cậuvới chúa Trịnh Sâm.Từ nhỏ Nguyễn Gia Thiều đã bộc lộ tư chất thơng minh, đĩnh ngộ.Ngồi văn chương ơng cịn theo võ và tinh thơng kiếm. Năm 19 tuổi, ôngđược tuyển dụng vào trong cung làm chức hiệu Uý Quan Binh Mã, do lậpnhiều công nên được phong tước Ôn Như Hầu.8 Thế nhưng, vốn là con người phóng khống, có tâm hồn nghệ sĩ, ơngkhơng mấy chun chú vào triều đình mà lại thích nghiên cứu văn chương,triết lí, khảo cứu, đạo giáo, giao du cùng các thi sĩ, nhà triết học,… cùngnhau ngâm phong ngợi nguyệt, không màng lắm chuyện công hầu nên dầnbị thất sủng.Khi Tây Sơn diệt Trịnh, Nguyễn Gia Thiều lui về ở ẩn và mất vàonăm 1798, lúc ấy mới 58 tuổi.Nguyễn Gia Thiều sinh trưởng trong một hồn cảnh đặc biệt. Nhữngsóng gió nửa cuối thế kỷ của xã hội Việt Nam đã ảnh hưởng khơng ít đếntư tưởng, tình cảm của Nguyễn Gia Thiều. Đến giữa thế kỷ XVIII, nhànước Phong kiến Việt Nam sau thời cực thịnh [ở thế kỷ XV] đã thực sựxuống dốc. Nhà nước này khơng chỉ suy thối theo nghĩa bình thường mànó trở nên khủng hoảng, bế tắc trầm trọng khơng lối thốt. Những mâuthuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến bộc lộ gay gắt và bùng nổnhưng cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt. Cuộc khởi nghĩa của quần chúngnơng dân nổi đậy đã góp phần vào làm suy yếu chế độ Phong kiến lúc bấygiờ. Bên cạnh đó cịn có sự phát triển trong một chừng mực nhất định củanền kinh tế hàng hoá. Điều đó góp phần làm suy yếu tư tưởng xã hội Phongkiến lúc bấy giờ.Có thể nói chưa bao giờ chế độ Phong kiến, giai cấp Phong kiến ViệtNam lại bộc lộ bản chất tiêu cực, phản động của nó một cách trắng trợn, lộliễu và toàn diện như lúc này. Trong sinh hoạt đạo đức, đây là lúc xuất hiệnnhững bạo chúa khét tiếng tàn ác, ô dâm, lộng quyền như Trịnh Giang[1722 – 1740], Trịnh Sâm [1767 – 1782], những quyền thần chuyên vơ vétcủa dân như Trương Phúc Loan ở Đàng Trong, những hồng thân q thíchđáng ghê sợ như Đặng Mậu Lân ở Đàng Ngoài.Nguyễn Gia Thiều từng được nuôi nấng trong cung từ nhỏ đến lớn.Khi làm quan cũng giữ chức vụ trong phủ Chúa, cuộc sống trụy lac của giaicấp Phong kiến lộ liễu hơn bao giờ hết. Ngoài Đặng Thị Huệ người cung9 phi sùng ái của Trịnh Sâm, Nguyễn Gia Thiều còn được biết về chế độcung tần trong cung vua Lê chúa Trịnh. Chính điều này ảnh hưởng lớntrong các sáng tác của Nguyễn Gia Thiều.Mặt khác giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIXcũng là giai đoạn rực rỡ nhất của văn học dưới chế độ Phong kiến. Nhữngđặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội… chính là nguồn gốc sâu xa quyếtđịnh sự phát triển nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, và đây cũng là giaiđoạn phát triển rực rỡ với những tác giả nổi tiếng và những tác phẩm đạtđến giá trị cổ điển, trong đó khơng thể khơng kể đến tác giả Ôn Như HầuNguyễn Gia Thiều với tác phẩm “Cung oán ngâm khúc”.* Về sáng tác:Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ hán là “Ơn Như thi tập” cóđến nghìn bài [hiện khơng tìm thấy].Phần viết bằng chữ Nơm, ngồi “Cung ốn ngâm khúc ” - là tácphẩm nổi tiếng nhất, Nguyễn Gia Thiều cịn có “Tây Hồ thi tập” và “TứTrai thi tập” hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong “Tạp ký” của Lý VănPhức.Chính nhờ hồn cảnh xuất thân từ trong cung vua phủ chúa, NguyễnGia Thiều đã từng trải với bối cảnh cung đình, cuộc sống phong lưu, nên cóđiều kiện hiểu một cách sâu sắc cuộc sống xa hoa, hưởng lạc hàng ngày củatầng lớp quyền thế trong phủ chúa, cũng như chứng kiến sự khủng hoảng,suy tàn và tan vỡ của giai cấp Phong kiến. Ơng cũng có điều kiện hiểu mộtcách sâu sắc những chuyện thương tâm về cuộc đời những người cung nữvà nhận ra sự bất công tàn bạo của chế độ cung tần. Nguyễn Gia Thiều cảmthơng và thương xót cho số phận của họ. Hơn nữa trong tâm tư giữa “kẻhồng nhan bạc phận” với “người tài tử thăng trầm” dường như đồng điệumột nỗi niềm cay đắng trước cuộc đời đầy đau khổ, bế tắc. Nguyễn GiaThiều chọn người cung nữ làm nhân vật thể hiện tư tưởng nghệ thuật của10 mình và ơng viết “Cung ốn ngâm khúc” dưới hai sự thơi thúc, vừa muốntố cáo tính chất vơ nhân đạo của chế độ cung nữ trong xã hội Phong kiến,vừa muốn qua đó bộc bạch tâm sự của bản thân về cuộc đời và ông đã“đem đến cho văn chương một tiếng nói gay gắt, quyết liệt” [Nguyễn Lộc]về hiện thực cuộc đời người cung nữ.1.2. Tác phẩm “Cung oán ngâm khúc”“Cung oán ngâm khúc” là một trong những tác phẩm có giá trị trongkho tàng văn học Việt Nam và là tác phẩm giữ vị trí chủ yếu trong sựnghiệp sáng tác của Nguyễn Gia Thiều.Hai chữ “Cung oán” tức là sự oán hờn nơi cung cấm của các cungphi, cung tần đã được Vua yêu rồi lại ghét bỏ. “Cung oán ngâm khúc” làkhúc ngâm về nỗi oán hờn của người cung nữ mà Ôn Như Hầu đã mượntình cảnh này để phản ánh những bất cơng của chế độ Phong kiến, đồngthời nói lên tâm sự, thân phận của chính mình.Chế độ cung tần là một trong muôn vàn tai hoạ để doạ người phụ nữthời phong kiến. Chế độ này có từ lâu ở Châu Á, ARập, Ba Tư có chế độHa – rem của chế độ Hồi giáo. Trung Quốc là một nước mà quy mô củachế độ cung tần đạt đến mức phi thường. Đời Tần Thuỷ Hồng, đời MinhHồng đều có đến hàng nghìn cung nữ.Ở Việt Nam chế đơh cung tần có từ đời tiền Lê. Đến đời Trịnh sốcung nữ bị bắt vào chắc phải nhiều hơn, vì ngồi cung vua cịn có phủChúa. Trịnh Giang, Trịnh Sâm đều là những tay ăn chơi khét tiếng.Trong văn học cổ [Trung Quốc cũng như Việt Nam] đề tài cung oánlà một đề tài phổ biến, chỉ riêng khoảng thời gian trước – sau nửa cuối thếkỷ XVIII đã xuất hiện một loạt tác phẩm như “Cung oán quốc âm thi” củaNguyễn Bạch Liên, “Cung oán thi tập” của Vũ Trinh, “Cung oán thi” củaNguyễn Huy Lượng, “Cung oán thi” của Nguyễn Hữu Chỉnh… tất cả đếnmấy trăm bài. Nhưng có lẽ khơng có tác phẩm nào nói đến cuộc đời của11 người cung nữ một cách bi đát, giận dữ và đầy đủ như “Cung oán ngâmkhúc” của Nguyễn Gia Thiều.“Cung oán ngâm khúc” là tác phẩm trữ tình trường thiên gồm 356câu thơ song thất lục bát, miêu tả những trạng thái tâm hồn, cảm xúc…,những diễn biến tâm trạng của người cung nữ sau những tháng ngày hạnhphúc ngắn ngủi bên vua phải chịu một cuộc sống cô đơn, đợi chờ, buồn tủivì bị nhà vua ruồng bỏ. Tác phẩm viết về nỗi oán hờn của người cung nữtrước sự đối xử “ghẻ lạnh” của “đấng chí tơn”. Lời than ấy bắt đầu trongmột đêm thu lạnh. Người cung nữ đau đớn vì cuộc sống cơ đơn nơi cungcấm. Nàng hồi tưởng lại thời trẻ tuổi hồn nhiên với ý thức về sắc đẹp kiêusa và tài năng vượt bậc của mình. Rồi nàng được tuyển vào cung, ngườicung nữ kiêu hãnh thuật lại khoảng thời gian hạnh phúc, được vua yêu dấu.Nhưng nàng bị ruồng rẫy, lãng quên một cách tàn nhẫn, người cung nữsống âm thầm với nỗi thất vọng, nhớ tiếc “thời vàng son” đã qua. Và hivọng đợi chờ bóng xe vua với một tâm trạng cơ đơn, buồn tủi… Có khinàng bật lên những lời ốn hận, bất bình. Đó là một cuộc đời bế tắc, mịnmỏi, cơ đơn nơi cung quế lạnh lẽo… Khúc ngâm kết thúc với khung cảnhmột đêm mưa gió lạnh lùng, người cung nữ quay về mơ màng, khắc khoảichờ ngày được vua đối thương trở lại.Chủ đề chính của “Cung oán ngâm khúc” là số phận của người cungnữ. Người cung nữ trong tác phẩm là một con người rất thiết tha với cuộcsống, khát khao hạnh phúc u đương, tình u đơi lứa. Khi bị ruồng rẫy,nàng luyến tiếc hạnh phúc với tất cả tấm lòng thèm khát tội nghiệp. Vănhọc Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX “bùng nổ” đềtài tình yêu và số phận người phụ nữ. Các nhân vật nữ trong tác phẩmthường trải qua một cuộc đời đau khổ. Nhưng khơng có ai trong số họ có sốphận bi kịch và thảm thương như người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều.Tiếng than của nàng là tiếng nói của con người đau khổ thiết tha nguyệncầu hạnh phúc nhưng sớm bị chôn vùi tuổi trẻ và khát vọng nơi cung cấm.12 Giá trị nhân văn của tác phẩm chính là sự lên án, tố cáo chế độ cungnữ dã man của bọn vua chúa đã giam cầm, giết chết tuổi trẻ, tài sắc của biếtbao nhiêu phụ nữ dưới chế độ Phong kiến. Tác phẩm góp thêm tiếng nói tốcáo, lên án xã hội Phong kiến bất công tàn bạo, đồng thời cũng góp thêmtiếng nói mạnh mẽ địi cho con người được quyền yêu đương, được thoảmãn cuộc sống ái ân. Phải thừa nhận rằng hiếm có tác phẩm nào nói đến cáikhát khao thoả mãn cuộc sống ái ân chồng vợ vừa tào bạo, vừa mạnh mẽ vàcó tính chất nhục cảm như “Cung ốn ngâm khúc”.Có thể nói “Cung oán ngâm khúc” là tiếng than, tiếng kêu thươngcủa người cung nữ luôn thiết tha “nguyện cầu hạnh phúc” nhưng lại sớmbị chôn vùi tuổi trẻ nơi cung cấm. Thơng qua những dịng tâm trạng đó,Nguyễn Gia Thiều đã phơi bày sự thật về cuộc sống xa hoa, trụy lạc củavua chúa thời bấy giờ, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo chế độ cung tần “đỉnhcao nhất và dã man nhất của chế độ đa thê” [Đặng Thanh Lê], đồng thờigóp thêm một tiếng nói mạnh mẽ địi quyền hạnh phúc cho con người trongcuộc đời. Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.2. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng người cung nữ2.1. Tả cảnh ngụ tình:Trong quan niệm của người Phương Tây, thiên nhiên bao giờ cũngtồn tại khách quan, ngoài con người, là đối tượng trực giác để con ngườikhám phá, chinh phục, chiếm lĩnh. Chính vì thế, họ miêu tả thiên nhiên vớitư cách là một khách thể tách biệt với thế giới nội tâm của con người.Ở Phương Đơng thì ngược lại, do hồn cảnh sống, trí tuệ của ngườiPhương Đông đã ảnh hưởng đến cách cảm nhận về thiên nhiên. Không biếttừ bao giờ thiên nhiên và con người đã gắn bó mật thiết, hồ quyện vớinhau. Thiên nhiên là người bạn, là nơi để con người gửi gắm nỗi niềm thầmkín của mình; và cao hơn thiên nhiên là phương tiện để các nhà văn, nhàthơ diễn tả tâm trạng nhân vật. Thiên nhiên luôn gắn bó mật thiết, hồ13 quyện với con người, là nơi để con người gửi gắm những ưu tư, phiềnmuộn cũng như làm khuây khoả nỗi lòng con người.Đã từ rất lâu, thiên nhiên trở thành phương tiện đắc lực và quantrọng trong việc phản ánh nội tâm con người. Nó trở thành thiên nhiên củatâm trạng, thiên nhiên trữ tình, biết đau khổ, buồn – vui, day dứt, băn khoăncùng nhân vật.Ngay từ thế kỷ XV, nhà thơ Nguyễn Trãi đã tìm đến thiên nhiên đểbày tỏ đối với cuộc sống, với xã hội đương thời:“Non lạ nước tiên làm dấuĐất phàm cõi tục tránh xa”Ông đến với thiên nhiên, coi thiên nhiên như là người bạn vỗ về,chia sẽ nỗi buồn cùng ơng:“Cị nằm Hạc lặn nên bầu bạnẤp ủ cùng ta nặng cái con”.Như vậy thủ pháp “tả cảnh ngụ tình” trong thơ đã có từ trước, thơngqua việc tả cảnh để tác giả gửi gắm tình cảm, tâm sự của mình, thiên nhiênhồ quyện gần gũi với con người, có sự tương ứng với con người, nỗi niềmcon người tràn ra cảnh vật, cảnh vật nói hộ tâm trạng con người.Bước sang thế kỷ XVIII, tính phi ngã trong văn học cổ truyền bị phávỡ, con người cá nhân xuất hiện. Lần đầu tiên văn học Việt Nam hướngđến tâm tư, số phận của những con người cụ thể, riêng biệt, văn học lúc nàychú ý phản ánh đời sống bên trong của con người. Cùng với sự chuyểnmình của văn học, thiên nhiên lúc này đi vào thơ ca không chỉ để tỏ chí, tỏlịng, hay chỉ để thể hiện thái độ của tác giả trước cuộc đời, trước xã hội.Thiên nhiên lúc này xuất hiện với tư cách vừa là đối tượng thẩm mĩ, vừa đểthực hiện chức năng thi pháp. Nghĩa là thiên nhiên bắt đầu được tồn tại vớitư cách là một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật riêng biệt, góp phần thể hiệnnội tâm sâu kín của con người. Bấy giờ thiên nhiên góp phần thể hiện, nóihộ tâm trạng nhân vật. Tả cảnh khơng chỉ để tỏ chí, tỏ lịng, tức cảnh sinh14 tình, mà lúc này thiên nhiên đi vào văn học như là một tiếng nói riêng đểbộc lộ nội tâm nhân vật. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một trong nhữngbiện pháp quan trọng để diễn tả tâm trạng nhân vật người cung nữ trong“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.Đến với “Cung oán ngâm khúc”, ta thấy tác giả vừa kế thừa hệthống thi pháp cổ ấy, vừa có sự cách tân đã tạo nên nét riêng, độc đáo. Ởđây, tác giả sử dụng thiên nhiên như một thứ ngôn ngữ nghệ thuật đặc biệtđể chuyển tải tâm tư, tình cảm của người phụ nữ. Điều đó dễ nhận ra khiđọc khúc ngâm chúng ta khó bắt gặp chi tiết, hình ảnh miêu tả ngoại hình,tính cách của nhân vật người cung nữ, mà chủ yếu là gắn liền nhân vật vớithiên nhiên trong cung cấm, qua đó làm nổi lên tâm trạng bế tắc, cơ đơn,buồn chán, thất vọng của người cung nữ. Nàng hầu như khơng quan hệ vớiai, mà chỉ một mình đối diện với lịng mình trước bức tranh thiên nhiênrộng lớn. Đến với khúc ngâm, người đọc chỉ bắt gặp hình ảnh người cungnữ nhỏ nhoi, đơn chiếc trong những đêm mùa thu cô đơn, lạnh lùng nơicung cấm với tâm trạng buồn tủi, giận hờn và hồn tồn bế tắc. Chính vìthế thiên nhiên đã góp phần hết sức quan trọng trong việc khắc hoạ nỗilịng người cung nữ. Tiếng nói thiên nhiên trở thành tiếng nói nội tâm, làtiếng “nhạc lòng” của người cung nữ trẻ nhưng sớm phải chịu cảnh đơn lẻtrong hạnh phúc lứa đôi.Khi diễn tả tâm trạng người cung nữ, tác giả không chỉ trực tiếp sửdụng ngôn ngữ thông thường để miêu tả các trạng thái, cảm xúc con người,mà thông qua thiên nhiên được mơ tả, người đọc có thể cảm nhận được thếgiới nội tâm phong phú của con người. Thiên nhiên – tiếng lịng của conngười; thiên nhiên trong “Cung ốn ngâm khúc” là ngơn ngữ riêng để nóilên tâm trạng người cung nữ, nó hồ quyện thống nhất với nỗi lịng conngười. Cảnh gợi tình và tình phủ lên cảnh, gán cho cảnh những nỗi lòngcủa con người.15 Thiên nhiên chỉ xuất hiện khi tâm trạng nhân vật có nhiều điều khóbộc lộ, khó diễn đạt. Lúc đó tâm hồn con người như muốn tràn ra khỏimình, hồ lẫn vào một cái khác. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng viết:“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.Bức tranh thiên nhiên trong tác phẩm như có linh hồn. Có tiếng nói,và mỗi cảnh khác nhau thì được gắn với nỗi lịng, những cảm xúc, nhữngtrạng thái tâm hồn khác nhau của người cung nữ.Ban đầu, khi mới được tuyển vào cung vua, người cung nữ sungsướng hạnh phúc và rất đỗi tự hào về điều đó. Niềm vui, niềm hạnh phúcđó của người cung nữ như lây lan sang cảnh vật; cảnh vật, thiên nhiên nhưreo cười cùng nàng:“Sân đào lí giâm lồng man mácNền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng”Dưới con mắt của nàng, cảnh vật tất cả đều có tâm hồn và như đanghân hoan chào đón nàng, sung sướng hạnh phúc với nàng:“Khoa thược dược mơ mịng thụy vũĐố hải đường thức ngủ xn tiêuCành xn hoa chúm chím chàoGió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai”Thời gian người cung nữ được kề cận “đấng chí tơn” là những ngàytuyệt đẹp và hạnh phúc. Nguyễn Gia Thiều quả là thành công khi mô tảcảnh tượng tưng bừng, lộng lẫy trong cung cấm qua một đêm vui:“Xiêm ghê trọ tả tơi trước gióÁo vũ kia lấp ló trong trăngSanh ca mấy khúc vang lừngCái thân Tây Tử lên chừng điện Tô”.16 Những câu thơ tả cảnh cho thấy bút pháp nghệ thuật của tác giả vượtra ngồi khn khổ của văn chương Phong kiến. Đây không chỉ là vẻ đẹpcủa người cung nữ mà đằng sau những từ ngữ đầy tính gợi hình đó là cảtâm hồn chơi vơi hân hoan trong muôn niềm hạnh phúc của nàng trongđêm vui. Nàng đã thật hạnh phúc bên “cửu trùng” trong những ngày đầuvào cung:“Đệm hồng th thơm tho mùi xạBóng bội hồn lấp ló trăng thanhMây mưa mấy giọt chung tìnhĐình trầm hương khoá một cành mẫu đơn”.Tất cả những từ chỉ cảnh vật như “thơm tho”, “lấp ló”,…để nói lênsự rộn ràng, niền hạnh phúc, sung sướng hân hoan của người cung nữ khiđược tận hưởng giây phút hạnh phúc bên “đấng chí tơn” – chồng nàng.Những ngày đầu ở cạnh quân Vương, được nhà vua thương yêu,chiều chuộng, người cung nữ thực sự mãn nguyện, sung sướng, hạnh phúc.Dưới ánh mắt của nàng, cảnh vật trong vườn Thượng Uyển - lâu đài hạnhphúc cũng như đang say đắm chứa chan tình yêu:“Vườn Thượng Uyển khúc trùng thanh dạGác Lâm xuân điệu ngả đình hoaThừa ân một giấc canh tàTờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son”.và nàng tự nhủ lòng mình: “Cũng cam một tiếng thuyền qun với đời”.Khơng chỉ có con người yêu nhau, say đắm nhau mà cảnh vật xungquanh cũng có tình với nhau, hồ quyện vào nhau thành từng cặp từng đơi:“Tranh tỉ dực nhìn ưa chim nọĐồ liên chi lần trỏ hoa kiaChữ đồng lấy đó mà ghiMượn điều thất tịch mà thề bách niên”.17 Thế nhưng cung vua, phủ chúa là nơi có đến hàng trăm nghìn ngườicon gái đẹp, là nơi “Mn hồng nghìn đố đua tươi”. Nhà vua chỉ quantâm chăm sóc người cung nữ trong một trời gian rất ngắn, sau đó nhà vuađã chán nản, bỏ rơi nàng. Những tháng ngày sống bên cửu trùng nàng đãsung sướng hạnh phúc biết bao để đến khi bị bỏ rơi, ruồng bỏ, một mìnhtrong thâm cung lạnh lẽo, nàng đã thất vọng chán chường cho số kiếp củamình.Khi ngồi một mình trong phịng tiêu lạnh lẽo đối diện với chính lịngmình, nàng cung nữ đã nghĩ về cuộc đời mình, số kiếp mình với sự liêntưởng:“Chiếc thuyền bào ảnh lơ xơ gập ghềnh”Sự thất vọng chán chường đã khiến nàng có ý nghĩ trái ngược vớiban đầu khi nghĩ về kiếp con người:“Lò cừ nung nấu sự đờiBức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”Trở lại với những câu thơ đầu khúc ngâm, chúng ta như có dự cảmvề số kiếp long đong của người cung nữ trong cuộc đời, về con người trongxã hội cũ; đó là một chế độ xã hội đã đi vào suy tàn, đổ nát:“Đền Vũ tạ nhện giăng cửa mốcThú ca lâu dễ khóc canh dàiĐất bằng bỗng rấp chông gaiAi đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương”.Hình ảnh ánh chiều tà ở đây dường như đã nhuốm màu lên vạn vậtlàm cho mọi vật trở nên võ vàng. Đây không đơn thuần chỉ là những câuthơ tả cảnh mà đằng sau đó là nỗi lịng con người, tâm trạng bế tắc, thấtvọng, cô đơn của con người trước thảm cảnh sụp đổ của vàng son tráng lệ.Trong sự thất vọng, chán chường do tình cảnh lẻ loi đơn chiếc củamình, thế nhưng người cung nữ vẫn khơng ngi hi vọng đợi chờ bóng nhà18 vua, nàng tìm đến những nơi đã cùng nhà vua thề non hẹn biển, hy vọngphần nào nguôi đi nỗi nhớ mong đó:“Nào lối dạo vườn hoa năm ngối”.“Nào lúc tựa lầu Tần hơm nọ”.Một âm thanh [trận gió], một hình bóng [bóng thỏ], cũng làm bừngtỉnh niềm hy vọng le lói thường trực trong người cung nữ:“Đè chừng nghĩ tiếng tiểu địiNghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo”.Những cảnh vật đó nói lên niềm hi vọng chờ đợi của người cung nữđã khiến nàng rơi vào trạng thái hoang tưởng. Những câu thơ đó vừa thểhiện tâm trạng bế tắc, “hoảng loạn” của người cung nữ, vừa là thái độ lênán mạnh mẽ của tác giả đối với chế độ đa thê trong xã hội Phong kiếnđương thời.Người cung nữ mong chờ bóng dáng cửu trùng đến để xua đi cái tĩnhmịch cô liêu của màn đêm, để sưởi ấm con tim cô đơn, lạnh giá giữa đêmthu dài dằng dặc. Nhưng càng chờ đợi thì càng mất hút, càng chờ đợi, cànghy vọng bao nhiêu thì thất vọng bấy nhiêu. Giờ đây nàng thật sự thấm thíanỗi cô đơn buồn tủi đến cùng cực. Những cảnh vật đẹp đẽ nên thơ đã từngchứng kiến sự sum vầy hạnh phúc, đã từng chứng kiến lời thề non hẹn biểncủa “bậc chí tơn” với nàng…tất cả như đang giễu cợt, mỉa mai nàng, tất cảtrở thành vật “cợt phường lợi danh”.Ngịi bút của nhà thơ thật tài tình khi thể hiện sự cô đơn, lẻ loi củanàng trước thiên nhiên rộng lớn hoang vắng, lặng lẽ và tĩnh mịch. Mộtmình đối diện với khơng gian thâm cung rộng lớn, vắng lặng càng nổi bậthơn sự cơ quạnh, vị võ, cô đơn nhỏ bé của người cung nữ.Thông thường con người ta ai cũng vậy, lúc về đêm là lúc ta sốngthật với mình nhất, bởi đó là lúc mình có thể cởi bỏ hết tất cả những gìthuộc về bổn phận, nghĩa vụ để trở về với chính mình, sống với con ngườithực của mình. Ở đây, người cung nữ cũng vậy, nỗi nhớ chồng ban ngày19 không buông tha nàng, ban đêm càng ập tới và chính ban đêm là lúc tất cảnhững gì tích luỹ trong lịng bị kìm hãm chờ đến lúc tự do, phá vỡ nhữngcái đê ngăn giữ nó:“Trong cung quế âm thầm chiếc bóngĐêm năm canh trơng ngóng lần lần”.Chúng ta đã từng bắt gặp nỗi lịng trống trải mong ngóng của ngườichinh phụ trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” [Đặng Trần Cơn - Đồn ThịĐiểm dịch] khi tiễn đưa chồng ra trận để rồi khi đêm về một mình nàngphải chịu cảnh:“Trời hơm tựa bóng ngẩn ngơTrăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai”.Nỗi cơ đơn, trống trải của người cung nữ ở đây dường như đã phủlên tất cả cảnh vật xung quanh:“Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũGác thừa lương thức ngủ thu phongPhòng tiêu lạnh ngắt như đồngGương ban bẻ nửa, dải đồng xẻ đơi”.Hình ảnh người cô phụ ở đây tách ra khỏi sự giao tiếp với mọi người,với xã hội và trở về với chính mình, giao tiếp với nội tâm của mình. Lúcnày đây ngôn từ của con người không đủ khả năng để diễn đạt những cảmxúc, những nỗi lịng tê tái, cơ đơn buồn tủi của nàng. Thế giới nội tâm vốnlà một thế giới huyền bí, bí ẩn vơ thuỷ, vơ chung khơng thể nắm bắt đượchết. Nó khơng phải là thế giới của sự chia cắt rạch ròi mà là sự hợp lưu củavô số cảm nghĩ. Như thế ta mới hiểu vì sao thiên nhiên thường xuyên xuấthiện trong cuộc sống cô đơn, lẻ bạn, trống trải của người cung nữ. Khơngmột mối dây liên hệ với bên ngồi, với xã hội, nàng chỉ có thiên nhiên làbạn, ln hiển hiện bên nàng chứng kiến nỗi cô đơn dày vò, chứng kiến sựbuồn tủi cùng cực của đời nàng:“Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa20 Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên”.Phải thừa nhận rằng bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” màNguyễn Gia Thiều sử dụng đã dựa trên cơ sở truyền thống có sẵn của vănhọc Trung Quốc cũng như văn học Việt Nam trước đó. Ở đây cảnh xen vàotâm trạng của người cung nữ để làm nổi bật tâm trạng ấy, nên nhiều khi tácgiả không trực tiếp miêu tả nội tâm nhân vật mà thông qua cảnh vật để gợilên tâm trạng, để nói lên tâm trạng.Tình cảnh cơ đơn lẻ loi của người cung nữ được thể hiện qua câuthơ:“Thâm khuê vắng ngắt như tờCửa Châu gió lọt rèm ngà sương gieo”.Không gian vắng lặng, hiu quạnh trong một đêm thu buồn càng làmnổi bật lên sự khắc khoải chờ đợi bóng xe vua, hy vọng hình bóng nhà vuasẽ đến với mình. Nhưng thực tế mong đợi đó chỉ là vơ vọng. Thật tộinghiệp cho nàng, thật hồi cơng chờ đợi của nàng, bởi trong đêm vắng,trước sự chờ đợi khát khao đằng đẵng, tha thiết của nàng chỉ có gió lọt quacửa, sương gieo vào rèm. “Gió – sương” lúc này như khơi sâu, khoétmạnh, bào mịn chút nghị lực chờ đợi cịn sót lại trong lòng nàng. Tất cảghé thăm nàng như để cười cợt, khiêu khích, thương hại cho nàng: Lúc nàyđiều người cung nữ sợ nhất là sự cô độc. Trong đêm vắng một mùi hương,một bóng đèn cũng chỉ gợi thêm cảm giác u buồn, lạnh lẽo mà thôi:“Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắngĐêm năm canh tiếng lắng chuông rềnLạnh lùng thay giấc cơ miênMùi hương tịch mịnh bóng đèn thâm u”…Hình ảnh người cung nữ hiện lên yếu ớt, tội nghiệp, nàng nhận ra sựcô đơn đến ghê rợn và tự thấy rằng mình sẽ chết dần chết mịn trong đaukhổ. Thời gian chờ đợi hình bóng hạnh phúc của cứ nàng đằng đẵng, dadiết và khứa sâu vào tâm can nàng. Nàng ngồi đến từng khắc giờ chờ đợi.21 Ngày trôi qua đủ “sáu khắc” không tin tức, đêm trôi qua hết “năm canh”chỉ nghe tiếng chuông rền. Tiếng chuông vang vọng như không dứt là âmthanh duy nhất nàng tiếp nhận được nhưng nó chỉ làm cho khơng gian bênngoài trở nên mơ hồ, mênh mang, lạnh lẽo. Qua cảm nhận của người cungnữ, mùi hương chỉ làm cho tiêu phịng thêm vắng vẻ, im ắng; ngọn đènkhơng tỏ chỉ làm cho không gian thêm sâu tối, hiu quạnh. Lúc này ngườicung nữ rùng mình ớn lạnh cho thân kiếp mình và bật lên tiếng kêu:“Lạnh lùng thay giấc cơ miên”.Căn phịng đã từng là nơi hạnh phúc biết bao, ấm cúng biết bao. Giờđây chỉ còn lại một mình một bóng nơi phịng khơng, nàng cảm thấy mìnhđơn chiếc, cơ độc, góa bụa trước sự ghẻ lạnh của nhà vua – chồng nàng.Hương thơm và ánh sáng chốn nội cung chỉ tăng thêm cảm giác ớn lạnh, sựlẻ loi của nàng lúc này mà thôi.Một điều đặc biệt ở đây là không phải chỉ là khi người cung nữ bị bỏrơi mới được tác giả đặt vào thời gian của khung cảnh buổi đêm để nàngbộc lộ tâm trạng, mà xuyên suốt tác phẩm, từ lúc được nhà vua sủng ái,cũng như đã là “thân câu chõ”, người cung phi cũng mượn thời gian buổiđêm để kí thác tâm sự và cảnh ngộ vui, buồn của mình. Nào là:“Cái đêm hơm ấy hơm gìBóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng”.Hay:“Thừa ân một giấc canh tàTờ mờ nét ngọc, lập loà vẻ son”.Đấy là người cung phi đang sống hạnh phúc với niềm vui và sự thoảmãn cuộc sống ái ân vợ chồng. Cịn giờ đây thì khi đã bị ruồng bỏ thì cũngthời gian là buổi đêm nhưng lại là:“Trong cung quế âm thầm chiếc bóng”.“Đêm năm canh trơng ngóng lần lần”.Hay:22 “Khi bóng nguyệt chơng chênh trước ốc”.Đó là những đêm cô đơn, ảo não. Tâm trạng ngậm ngùi, buồn tủiđáng sợ của người cung phi như nhuốm lên cảnh vật, tràn ra, lây sang cảnhvật xung quanh nàng. Nàng dường như ngày một chìm sâu vào tuyệt vọng,bế tắc khơng lối thoát.Nguyễn Gia Thiều đã triệt để khai thác các biện pháp tu từ đảo ngữ:“Tin mong nhạn vắng”.“Ngày sáu khắc”, “Đêm năm canh”.“Mùi hương tịch mịch – bóng đèn thâm u”…Để diễn tả sự cô đơn đến cùng cực của người cung phi trước khônggian rộng lớn, hoang vu và tịch mịch.Chúng ta đã từng bắt gặp những đêm dài mong nhớ chồng của chinhphụ trong “Chinh phụ ngâm”:“Thức mây đôi lúc nhạt nồngChuôi sao Bắc Đẩu thôi đông lại đoài”.Hay bao đêm trằn trọc của bà chúa thơ nơm Hồ Xn Hương khinghĩ về tình dun lận đận của kiếp người:“Tiềng gà văng vẳng gáy trên bomOán hận trơng ra khắp mọi chịm”.[Tự tình]Thậm chí là sự thảng thốt, vật vã của nàng Kiều khi nghĩ đến thânphận gái lầu xanh của mình:“Khi tỉnh rượu lúc tàn canhGiật mình mình lại thương mình xót xa”.[Truyện Kiều – Nguyễn Du]Liên tưởng đến điều đó để thấy được rằng các nhà thơ cổ điểnthường chọn thời điểm này để nhân vật trữ tình bộc lộ tâm sự, Nguyễn Gia23 Thiều cũng trên cơ sở kế thừa đó để góp phần tạo nên bút pháp nghệ thuậttả cảnh ngụ tình tuyệt diệu.Người cung nữ cảm thấy mình như đang chết dần chết mòn trongđau khổ, trong sự chờ mong buồn thương đến tuyệt vọng, nàng chỉ còn biếtcách than thở cùng nguyệt, thổ lộ cùng hoa:“Một mình đứng tủi ngồi sầuĐã than với nguyệt, lại rầu với hoa”.Những cảnh vật, âm thanh ở đây như: Tin nhạn, tiếng chuông, mùihương, bóng đèn, tranh tố nữ, cửa nghiêm lâu, trăng, hoa, bướm…chỉ lànhững hình ảnh tượng trưng ước lệ được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm,nhưng nó có hiệu quả nghệ thuật cao trong việc diễn tả tâm trạng nhân vật,khắc hoạ tâm trạng nhân vật với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau, nhàthơ muốn mượn cảnh để tả tình. Tâm trạng người cung phi được khắc hoạrõ nét hơn ở việc sử dụng điệp ngữ “đêm năm canh”. Phải khó khăn chonàng lắm trong việc chờ đợi từng canh giờ trôi qua và thời gian trôi đi nhưchà xát tâm can nàng. Đó là nỗi đau của sự dày vò, niềm khắc khoải chờđợi, tâm trạng buồn tủi giận hờn vì bị ruồng bỏ và nàng ốn trách:“Hoa này bướm nỡ thờ ơĐể gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng”.Nỗi cơ đơn, thất vọng q lớn lịng người khơng thể chứa đựng nổiđã tràn ra ngồi, thấm vào cảnh vật, vào không gian. Cảnh vật ở đây dườngnhư cũng hiểu được tâm trạng cô đơn, sầu tủi của người cung nữ nên lặnglẽ hơn, tịch mịch hơn… Tất cả như thấu hiểu nàng và không muốn khuấyđộng nàng. Cảnh vật vô tri, vô giác đã trở thành một người bạn ln có mặtbên cạnh nàng, một người bạn lặng im nhưng thấu hiểu tâm trạng nỗi lòngcủa con người:“Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏVẻ tiêu hao lại võ hoa đèn”.“Vắng tanh nào thấy vân mòng24

Video liên quan

Chủ Đề