Phân biệt giới tính là gì năm 2024

Định kiến giới là những nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. Nói một cách khác, định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả năng làm và loại công việc mà họ có thể làm và nên làm; là tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới hay nữ giới.

Các định kiến giới thường theo xu hướng nhìn nhận ít tích cực, không phản ánh đúng khả năng thực tế của từng cá nhân dẫn đến việc làm sai lệch và hạn chế những điều mà một cá nhân nam, nữ có thể làm, cần làm hoặc nên làm.

Những định kiến giới phổ biến như: “Nam giới giỏi kỹ thuật, nữ giới giỏi nấu nướng”; “Nữ giới giỏi công việc nội trợ và chăm sóc người khác hơn nam giới”, “Phụ nữ là phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực và là người ra quyết định”; “Nội trợ là công việc của phụ nữ, không phải là việc của đàn ông”; “Chồng có quyền dạy vợ, vợ phải nghe lời chồng”; “Nam giới là trụ cột, quyết định các việc lớn trong gia đình, nữ giới nuôi dạy con cái, nội trợ, quản lý chi tiêu”; “Nam giỏi việc xã hội; nữ giỏi việc nhà”...

Đây là quan điểm không đúng về khả năng của nam giới và phụ nữ. Các quan niệm sai lầm này khiến cho cho cả nam và nữ đều bị ảnh hưởng, không có cơ hội thể hiện năng lực thực sự của bản thân.

Thế nào là “Khuôn mẫu giới”

Khuôn mẫu giới là các kỳ vọng hoặc niềm tin đó được tất cả mọi người hướng tới và coi là “chuẩn mực” cần tuân theo, cho dù những niềm tin hay kỳ vọng này có mang hàm ý tích cực hay tiêu cực nhưng nó đều gây áp lực cho tất cả các giới. Chính vì thế nó trở thành rào cản vô hình dẫn đến bất bình đẳng giới.

Theo bà Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS), những khuôn mẫu như: “việc nhà là của phụ nữ”, “phụ nữ thì không cần học quá cao”,… đang là rào cản lớn, tước đi cơ hội của phụ nữ trong khi xét về năng lực, phụ nữ không hề thua kém đàn ông.

Điển hình nhất là cộng đồng kỳ vọng phụ nữ phải là người “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và coi đây là chuẩn mực để phấn đấu. Khái niệm phụ nữ “đảm đang" trong thời đại cũ gắn chặt với định kiến phụ nữ làm việc nhà, quanh quẩn trong bếp. Tuy nhiên, kỳ vọng này khiến cho phụ nữ phải chịu nhiều áp lực và gánh nặng công việc nhà mà không có sự chia sẻ của nam giới.

Tương tự, cộng đồng thường kỳ vọng: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” và cả nam và nữ đều coi đây là chuẩn mực cần đạt được. Song có một thực tế là không thể chỉ một mình đàn ông xây nhà mà cần cả vai trò và đóng góp của phụ nữ thì việc xây nhà mới hiệu quả. Mặt khác, tổ ấm của một gia đình không chỉ có người đàn bà vun đắp mà đòi hỏi nỗ lực của cả người chồng.

Thế nào là phân biệt đối xử về giới

Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Biểu hiện của sự phân biệt đối xử về giới thường được thể hiện ở những nhóm hành vi ứng xử mang tính thiên lệch hoặc không phù hợp với nam, nữ hoặc các giới khác như: không tôn trọng; không ghi nhận và không tạo điều kiện thuận lợi, dựa vào đặc điểm giới tính hoặc những biểu hiện giới khác biệt của họ.

Ở nơi làm việc, phân biệt giới tính thường là trường hợp đàn ông quyết định nhiều hơn phụ nữ hoặc coi thường công việc của phụ nữ.

Ở gia đình, ngay từ khi người phụ nữ mang thai, đã có những cặp vợ chồng có khuynh hướng muốn sinh con trai và tìm những biện pháp để đạt được việc này. Điều đó đã dẫn đến xu hướng mất cân bằng giới tính khi sinh, trẻ em nam nhiều hơn trẻ em nữ. Nhiều gia đình có sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, cha mẹ thường chiều chuộng, quan tâm và dành sự yêu thương nhiều hơn cho con trai.

Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, những người con bị hắt hủi dễ nuôi trong lòng sự tức giận, căm phẫn và có nhiều nguy cơ đối mặt với trầm cảm hơn so với bình thường. Từ đó sẽ có xu hướng tự đánh giá thấp bản thân, giảm lòng tự trọng và dần thu mình lại. Đến khi lấy chồng, người phụ nữ trở nên ít có tiếng nói trong gia đình và còn phải chịu sự bất bình đẳng trong phân chia tài sản, hưởng quyền thừa kế… Đó có thể là nguồn gốc của những bi kịch gia đình. Đồng thời, những cản trở, phân biệt với phụ nữ và trẻ em gái ngay từ trong gia đình, từ chính cha mẹ sẽ khiến xu hướng bất bình đẳng giới trong xã hội gia tăng.

Định kiến giới, khuôn mẫu giới và sự phân biệt đối xử về giới có mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau và đều là nguyên nhân sâu xa dẫn tới bất bình đẳng giới. Định kiến giới và khuôn mẫu giới gây ra những tổn hại và cản trở sự phát triển của cả nam và nữ./.

Tuy nhiều từ mang tính phân biết giới tính, như 'nữ chiêu đãi viên', đã được loại bỏ dần, nhưng vẫn còn nhiều từ khác tồn tại

Ngày nay ngôn ngữ phân biệt giới tính là điều không còn được chấp nhận ở chốn công sở.

Tuy nhiên vẫn có nhiều bằng chứng truyền miệng lẫn khoa học cho thấy ngôn ngữ cũng như thái độ phân biệt giới tính vẫn tồn tại ở nhiều nơi.

Những từ ngữ phân biệt giới tính vẫn được sử dụng một cách phổ biến.

Trong đánh giá về công việc, phụ nữ thường nhận được những nhận xét khá mơ hồ (ví dụ như "bạn đã làm tốt trong năm qua") hoặc phải nhận rất nhiều nhận xét liên quan tới cách giao tiếp, trong khi đàn ông thường nhận được những đánh giá cụ thể hơn về những kỹ năng liên quan đến hiệu suất làm việc.

Sự phân biệt giới tính thậm chí còn xuất hiện rõ hơn trong email. Ngay cả những câu tưởng chừng vô hại như 'hai người đàn ông trong garage để xe' thay vì 'hai người trong garage để xe' (two guys in the garage - chỉ những người khởi nghiệp) cũng ngầm mang tính phân biệt, vì nó ám chỉ một giới tính cụ thể chỉ phù hợp với một công việc, nơi chốn cụ thể.

Việc tách biệt ngôn ngữ và giới tính cũng không phải dễ dàng, bởi cả hai điều này đã từ lâu có một quan hệ phức tạp. Chúng pha trộn vào nhau theo nhiều cách rõ ràng lẫn không rõ ràng.

Định kiến tồn đọng

Nhiều từ ngữ mang tính phân biệt một cách khách quan, giống như những từ mà Deb Liu, một lãnh đạo của Facebook, thu thập từ công sở.

Một số từ ngữ đã có từ lâu đời, từ những năm 1920, ví dụ như từ 'hợp đồng' (gentleman's agreement), vốn có nghĩa đen là 'thoả thuận của một quý ông'.

Phân biệt giới tính là gì năm 2024

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Có một số từ, chẳng hạn như 'guys', có nhiều tầng ý nghĩa mà không phải lúc nào cũng được hiểu một các rõ ràng

Một số từ khác liên quan đến thể thao, như chiến thuật phòng thủ một-chọi-một được gọi là man-on-man defence (phòng thủ giữa một người đàn ông trước một người đàn ông khác).

Một số khác nghe giống như một nhóm siêu nhân đến từ thập niên 1940: wingman (máy bay yểm trợ), strawman (kẻ bù nhìn, hoặc còn có nghĩa là kẻ vô danh tiểu tốt), poster boy (hình mẫu), middleman (người trung gian), right-hand man (người trợ lý đắc lực).

Nhiều từ ngữ đề cập đến phụ nữ mà Liu thu thập được mang tính tiêu cực. Không có đàn ông hay phụ nữ nào muốn bị gọi là 'nữ hoàng sân khấu' ('drama queen'), ám chỉ những người thích trầm trọng hoá vấn đề, hoặc Nancy tiêu cực (Negative Nancy), dù những từ này sử dụng cho cả hai giới tính.

Một số từ ngữ và biểu cảm khác không mang màu sắc phân biệt, nhưng chúng vẫn góp phần củng cố cho các định kiến. Ví dụ, các nhà nghiên cứu tại Học viện Nghiên cứu Giới tính Clayman đã xem xét hai ngôn ngữ điều hành ăn sâu vào nhiều khía cạnh của chốn công sở, từ nơi làm việc, đăng tin tuyển nhân sự hoặc đánh giá hiệu quả công việc: Ngôn ngữ cá nhân và cộng đồng.

Ngôn ngữ cộng đồng thường được cho là đến từ phụ nữ, và nó thường gợi lên nhiều cá tính được cho là điển hình của phụ nữ như nhiệt tình, ấm áp và hay giúp đỡ. Ngôn ngữ cá nhân thường được áp dụng cho đàn ông và nó thường lột tả sự quyết liệt trong công việc, cứng rắn trong vai trò lãnh đạo và làm việc độc lập.

Phân biệt giới tính là gì năm 2024

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Ông Barack Obama hay dùng từ 'folks' để chỉ tới một nhóm người

JoAnne Wehner, một nghiên cứu sinh tại Clayman, gọi agentic là 'ngôn ngữ của tôi' và communal là 'ngôn ngữ của chúng ta'. Mặc dù nhiều đàn ông và phụ nữ không phù hợp với những định kiến này, những khuôn mẫu giới tính này có thể bao trùm lấy mọi người ở công sở, nhất là phụ nữ.

Tầng tầng lớp lớp

Một số từ có nhiều lớp nghĩa giống như những lớp vỏ của củ hành tây vậy.

Từ 'guy' (đàn ông) là thể hiện sự tiến hoá phức tạp, vô lý của ngôn ngữ và cách mà nó phản ánh giới tính. Số nhiều của từ 'guy' được dùng để chỉ cả đàn ông và phụ nữ, mặc dù số ít của từ này lại có nghĩa là đàn ông.

'Two guys in the garage' là thuật ngữ chỉ những người khởi nghiệp, nhưng nó có thể có nghĩa là hai người đàn ông, hoặc hai người ở bất cứ giới tính nào, tuỳ cách diễn giải.

Vậy liệu từ 'guy' có phù hợp với chốn công sở? Một sự lựa chọn an toàn hơn có thể là từ 'folks', vốn thường xuyên được Barack Obama sử dụng. Từ 'folks' cũng có nghĩa là nhiều người, nhưng lại không dùng để chỉ riêng bất cứ giới tính nào.

Ngôn ngữ mang sắc màu giới tính ngày nay, dù chưa phải vô hại, nhưng cũng đã có nhiều tiến bộ hơn xưa.

Những từ như hostess (nữ tiếp viên), stewardess (nữ tiếp viên hàng không) và waitress (nữ bồi bàn) vẫn còn được dùng. Mặc dù đã lỗi thời, nhưng chúng lại sản sinh ra hàng chục những từ liên quan vốn khó chấp nhận hơn.

Một phụ nữ viết sách được gọi là 'nữ tác giả' (authoress), từ vốn xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 1400. Trong những năm 1800, một nữ sát thủ có thể được gọi là 'assassinatress'.

Một xu hướng khác thì lại đặt từ 'lady' (quý bà) trước các từ. Từ điển Tiếng Anh Oxford ghi chú các ví dụ như lady-nurse (quý bà y tá), lady-housekeeper (quý bà giữ nhà) hoặc lady-cook (quý bà đầu bếp).

Một câu đầy xúc phạm do DH Lawrence viết vào năm 1929 sử dụng hai thuật ngữ như vậy: "Bề ngoài nhìn bạn đầy nổi trội và hơn người, nhưng sự thật thì bạn thật kém cỏi, như một quý bà bán hàng hoặc quý bà thư ký'.

Hãy thử tưởng tượng ngày nay nếu ai đó gọi các binh sỹ hoặc các giám đốc điều hành là quý bà binh sỹ hoặc quý bà điều hành, có lẽ người đó sẽ bị gọi là 'quý ông dốt nát'.

Tất nhiên ngày nay, khi nhìn lại cách dùng từ ngữ thời xa xưa , ta có thể cảm thấy xã hội ngày nay đã tiến bộ đến mức nào. Thế nhưng biết đâu trong tương lai, người ta có thể nhìn vào những từ ngữ ngày nay và cảm thấy mình đã tiến bộ hơn bây giờ rất nhiều.