Phân tích các nguyên tắc cần tuân thu khi nghiên cứu tâm lý trong quan trị kinh doanh

Mục lục bài viết

  • 1. Tâm lý học kinh doanhlà gì?
  • 2. Vai tròcủa tâm lí học trongkinh doanh
  • 3. Các lý thuyết cổ điểnvề tâm lý quản trị kinh doanh
  • 3.1. Lý thuyết của Ferderick Winslow Taylor (1856 – 1915)
  • 3.2. Lý thuyết của Henry Lawrence Gautt (1861 – 1919)
  • 4. Các lý thuyết về quản trị hành chính
  • 4.1. Lý thuyết của Henry Fayol (1841-1925)
  • 4.2. Lý thuyết của Max.Weber (1864 – 1920)
  • 5. Các lý thuyết về tâm lý xã hội trong quản trị kinh doanh
  • 5.1. Lý thuyết của Elton Mayo (1880 – 1949)
  • 5.2. Lý thuyết của Douglas Mc.Gregor (1906 –1964)
  • 5.3. Lý thuyết Kaizen do Masaaki Imai người Nhật đề xướng năm 1986
  • 5.4. Lý thuyết của Peter Drucker (1909 – 2005)

1. Tâm lý học kinh doanhlà gì?

Tâm lý học kinh doanh(còn gọi là tâm lý học tổ chức) là một môn khoa học ứng dụng sử dụng trọng tâm vào hành vi của con người để đánh giá cách một tổ chức và nhân viên của tổ chức đó có thể thực hiện các chiến lược nhằm tăng cường sự tham gia và thúc đẩy lợi nhuận. Hiệp hội Tâm lý Kinh doanh mô tả lĩnh vực này là sự kết hợp giữa “khoa học về hành vi con người với kinh nghiệm của thế giới công việc để đạt được hiệu suất hiệu quả và bền vững cho cả cá nhân và tổ chức”.

Các chuyên gia có nhiệm vụ cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty bằng cách sử dụng tâm lý kinh doanh trước tiên chẩn đoán các vấn đề trong tổ chức, sau đó thiết kế, thực hiện và đánh giá các giải pháp. Họ có nhiều phương pháp khác nhau để thu thập dữ liệu về hành vi và cảm xúc của nhân viên, bao gồm phỏng vấn, bảng câu hỏi, thăm dò ý kiến và khảo sát.

Khi phân tích dữ liệu này, các chuyên gia tâm lý kinh doanh sử dụng cả thống kê mô tả và thống kê suy luận. Thống kê mô tả cho phép các chuyên gia tóm tắt tất cả dữ liệu theo cách định lượng - chẳng hạn như tạo biểu đồ và đồ thị để minh họa kết quả khảo sát nhân viên. Mặt khác, với thống kê suy luận, họ làm việc với một tập hợp con dữ liệu (ví dụ: phỏng vấn nhân viên ngẫu nhiên) và đưa ra kết luận hoặc đưa ra suy luận về toàn bộ nhân viên dựa trên mẫu đó.

Phân tích nội dung và chuyên đề là một công cụ quan trọng khác cho các chuyên gia này. Nó cho phép họ phân tích dữ liệu định tính như âm thanh, video và văn bản để tìm các từ khóa lặp lại và các mẫu hoặc chủ đề khác có thể cung cấp thông tin chi tiết quan trọng cho nhân viên.

2. Vai tròcủa tâm lí học trongkinh doanh

– Về mặt lý thuyết: giúp cácnhân sự cấp caocó mộthệ thốnglí luận, các quy luật chung nhất trong việcquản trị nhân sự,trong đối nhân xử thế khi quản trị, lãnh đạo quần chúng,hạn chếđược những sai lầm trongtuyển chọn nhân viên, sai lầm trongứng xử, tronggiao tiếpvà trong hoạch địnhkế hoạchtrong quản trị.

– Về mặt thực tiễn vàáp dụngtâm lí học quản trị:đem tớinhiều lợi íchcho công tác quản trị, đưa xã hộingày càngvăn minh, đưa nền sản xuất lên cao vàtóm tắtvào nhữngtác độngsau:

  • Biếtsử dụngnhân tài.
  • Hiểu được cáchđối nhân xử thếđểhài lòngngười đến, vui lòng người đi.
  • Sản sinh rasức mạnh của tinh thần,thúc đẩysựsáng tạocho mọi người.
  • Tạo rahạnh phúccho các bạn, tạocó thểbầu không khí tự do, dân chủ,bình đẳng.
  • Tránhmọi sai lầm trong quan hệ người với người.

3. Các lý thuyết cổ điểnvề tâm lý quản trị kinh doanh

3.1. Lý thuyết của Ferderick Winslow Taylor (1856 – 1915)

Ông là cha đẻ của lý thuyết quản lý theo khoa học. Phương pháp quản lý này sau đó được áp dụng rộng rãi ở Anh và một số nước khác. Taylor nguyên là công nhân và sau đó là kỹ sư trưởng của nhà máy Midvale, ông nhận thấy phương pháp quản lý đương thời kiểu “trại lính” có rất nhiều nhược điểm, từ đó làm giảm năng suất và rất lãng phí lao động. Năm 1890, Taylor rời Midvale. Năm 1901, ông thôi làm việc và giành phần thời gian còn lại để nghiên cứu và phổ biến lý thuyết “Quản lý theo khoa học” của mình.

- Đặc điểm của lý thuyết của Ferderick Winslow Taylor:

Dựa trên quan điểm về “tính hợp lý”của hành vi và những thao tác của con người trong lao động, coi con người là một bộ phận của máy móc trong dây chuyền sản xuất. Điểm cơ bản của phương pháp quản lý này là quản lý lao động có huấn luyện, có định mức, có hoạch định và phân công chức năng theo từng người rất khoa học, từ đó nâng cao được năng suất lao động và giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng.

Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Taylor là:

Nghiên cứu một cách khoa học mỗi tác động của công nhân để thay thế cho cách làm cũ, đơn thuần dựa vào kinh nghiệm.

Tuyển chọn, huấn luyện công nhân một cách khoa học, đào tạo và giáo dục họ, giúp họ trưởng thành. Còn cách làm cũ là để công nhân chọn việc làm theo ý họ và căn cứ vào khả năng của từng người để đào tạo.

Xây dựng định mức lao động và phân công, hợp tác lao động một cách khoa học.

Chủ và thợ phải cùng nhau chia sẻ công việc và chức trách. Phía chủ gánh vác phần việc quan trọng hơn, không đẩy hết mọi việc và phần lớn trách nhiệm về phía công nhân như trước kia.

Từ những nguyên tắc cơ bản trên, Taylor đã đề ra các biện pháp cụ thể như:

Nghiên cứu toàn bộ quy trình thực hiện công việc của công nhân, chia nhỏ các công việc trên thành các công đoạn khác nhau để tìm cách cải tiến, tối ưu các thao tác và cuối cùng là đem lại thặng dư lớn cho các nhà tư bản.

Xây dựng hệ thống khuyến khích vật chất để kích thích người lao động như trả công theo sản phẩm.

- Ưu, nhược điểm cơ bản của lý thuyết này:

Ưu điểm:

Giúp nhà quản trị có cách thức nhìn nhận, giao việc hợp lý, họ sẽ hình dung các công việc được tiến triển như thế nào, có thuận lợi và khó khăn gì, trên cơ sở đó hướng dẫn, tạo điều kiện cho người lao động thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.

Chú ý phối hợp giữa các bộ phận, cá nhân, một các nhịp nhàng, hiệu quả thì công việc kinh doanh mới đạt được kết quả mong muốn.

Quan tâm đến việc xây dựng định mức lao động và trả công hợp lý để kích thích người lao động.

Nhược điểm:

Máy móc hóa con người, coi người lao động là một mắt xích của quá trình lao động và chỉ chuyên thực hiện một số thao tác nhất định theo vị trí công việc của mình.

Cột chặt người lao động vào dây chuyền công nghệ sản xuất để quản lý. Người lao động bị giới chủ khai thác, bóc lột sức lao động một cách thậm tệ. Không quan tâm tới các nhu cầu tinh thần của người lao động.

3.2. Lý thuyết của Henry Lawrence Gautt (1861 – 1919)

H.Gautt từng làm việc cùng và là trợ lý của Taylor. Sau đó hai ông là cộng sự trong nghiên cứu lý thuyết quản lý theo khoa học.

H.Gautt tập trung vào tính dân chủ trong công nghiệp. Ông là người luôn cố gắng để làm cho ngành khoa học quản lý mang tính nhân đạo. Ông cho rằng, thực chất của dân chủ là tổ chức những hoạt động của con người hài hòa với các quy luật tự nhiên, sao cho mỗi cá nhân sẽ có cơ hội cho người khác để phát huy năng lực của mình ở mức cao nhất.

Khác với Taylor, ông cho rằng việc một người lao động trong doanh nghiệp trong suốt cuộc đời của mình chỉ tinh thông một công việc tại một vị trí cụ thể trong dây chuyền là một điều bất công, thiếu dân chủ với người lao động. Bên cạnh đó ông cũng nhận thấy tính “không thể thay thế” tại các mắt xích công việc sẽ khiến doanh nghiệp rất thụ động trong quản lý nếu một “mắt xích” đó có “vấn đề”. Ông phân chia nhiệm vụ nhỏ tới mức có thể giao cho bất kỳ người lao động có trình độ trung bình, ông hợp lý hóa lao động theo dây chuyền để khai thác tối đa sức lao động và đề ra khái niệm nhịp độ lao động, sau đó nguyên lý này đã được Henry Ford áp dụng khá thành công.

Ngoài hệ thống trả lương theo sản phẩm của Taylor, H.Gautt đã bổ sung hệ thống tiền thưởng để kích thích lao động nếu vượt qua một định mức nào đó. Tuy nhiên để tránh việc người lao động chạy theo năng suất lao động mà coi nhẹ vấn đề chất lượng, H.Gautt khuyên vượt mức nhưng cũng phải giới hạn.

Tóm lại: Trường phái tâm lý quản trị cổ điển tìm cách đưa ra các phương pháp quản trị và tổ chức lao động sản xuất thuần túy khoa học đã máy móc hóa con người, quá đề cao lợi ích vật chất, chưa quan tâm đúng mức ảnh hưởng của môi trường đến tâm lý của con người và vai trò ý thức của con người.

4. Các lý thuyết về quản trị hành chính

Đây là các lý thuyết về quản lý chú trọng việc quản lý bằng các văn bản, giấy tờ. Quan điểm này bổ sung cho lý thuyết quản trị theo khoa học và là một công cụ của quản trị khoa học.

4.1. Lý thuyết của Henry Fayol (1841-1925)

Trong khi thuyết quản lý theo khoa học của Taylor được truyền bá rộng rãi từ Mỹ sang Châu Âu và có ảnh hưởng lớn suốt nửa đầu thế kỷ 20 thì ở Pháp xuất hiện một thuyết mới thu hút sự chú ý. Qua tác phẩm “Quản lý công nghiệp và tổng quát” xuất bản năm 1949 của Henry Fayol đã tiếp cận quản lý ở tầm rộng hơn và xem xét dưới góc độ tổ chức hành chính. Ông cho rằng thành công của quản lý không chỉ nhờ những phẩm chất của nhà quản lý mà chủ yếu nhờ nguyên tắc chỉ đạo hành động của họ và nhờ những phương pháp mà họ sử dụng. Với nhà quản lý cấp cao thì phải có khả năng bao quát còn với cấp dưới khả năng chuyên môn là quan trọng nhất.

Theo ông hoạt động kinh doanh có thể chia thành 6 nhóm:

– Kỹ thuật hay sản xuất

– Tiếp thị

– Tài chính

– Quản lý tài sản và nhân viên

– Kế hoạch thống kê

– Những hoạt động quản lý tổng hợp: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra.

Fayol xây dựng lý thuyết quản trị theo tổ chức với 14 nguyên tắc sau:

– Phân công công việc phù hợp, rõ ràng, tạo được sự liên kết. Tương quan giữa thẩm quyền và trách nhiệm: Mỗi người tự chịu trách nhiệm về công việc của mình.

– Tính kỷ luật: Nhằm đảm bảo kỷ luật lao động trong doanh nghiệp.

– Tính thống nhất trong chỉ huy: Mỗi người nhận lệnh của một người (trong công việc).

– Thống nhất trong lãnh đạo: Thống nhất trong ý kiến lãnh đạo với cấp dưới.

– Cá nhân phụ thuộc vào lợi ích chung: Phải gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích tập thể, làm cho người lao động thấy được sự phát triển của tập thể sẽ có lợi cho mỗi cá nhân, từ đó kích thích lao động, sáng tạo.

– Thù lao tương xứng: Nhằm khuyến khích người lao động làm việc sáng tạo, nâng cao chất lượng công việc.

– Tập trung quyền lực: Quyền quyết định bên trong doanh nghiệp chỉ tập trung vào một đầu mối, từ đó thống nhất trong chỉ đạo và hành động.

– Tuân thủ nguyên tắc thứ bậc: Các nhà quản trị các cấp và nhân viên dưới quyền sẽ được phân cấp theo thứ bậc dựa trên công việc được phân công trong tổ chức.

– Trật tự: Tổ chức phải được sắp xếp, phân cấp.

– Đảm bảo tính công bằng: Tránh mâu thuẫn trong tập thể lao động bằng cách phân công nhiệm vụ rõ ràng, chế độ khen thưởng, kỷ luật minh bạch, đối xử công bằng với các thành viên trong doanh nghiệp.

– Đảm bảo tính ổn định trong việc hưởng thụ và sử dụng: Tạo cho người lao động thấy đây là chỗ làm việc ổn định, lâu dài, từ đó có ý thức phấn đấu trong công việc.

– Tính sáng tạo: Tạo ra nhiều cái mới, bước đẩy, tạo ra những nét riêng, bản sắc cho doanh nghiệp mình so với các doanh nghiệp khác.

– Tính đồng đội: Xây dựng tinh thần tập thể, tính đoàn kết trong toàn doanh nghiệp, từ đó tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong công việc.

Với nội dung nói trên, thuyết quản lý này có ưu điểm nổi bật là tạo được kỷ cương trong tổ chức. Song nó chưa chú trọng đầy đủ mặt tâm lý và môi trường lao động, đồng thời chưa đề cập đến mối quan hệ với môi trường bên ngoài doanh nghiệp.

4.2. Lý thuyết của Max.Weber (1864 – 1920)

Ông là nhà xã hội học đã có nhiều đóng góp cho quản lý tầm vĩ mô gọi là hệ thống thư lại, đó là sự phân công nhiệm vụ căn cứ vào chức vụ theo quy định và thể lệ. Lý thuyết của Weber còn được gọi là lý thuyết hành chính trong quản trị.

Theo lý thuyết này, để quản trị kinh doanh có hiệu quả cần phải xây dựng một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, đồng thời đề ra hệ thống các quy định luật lệ và chính sách hợp lý, phân công, phân cấp quản trị có hiệu quả.

Tư tưởng chính của ông là:

Quản lý các bộ phận chức năng, các khâu của công việc (sử dụng quan điểm của Fayol).

Quản lý chất lượng của từng công việc.

Như vậy các lý thuyết về quản trị hành chính chú trọng tới các vấn đề cơ bản sau:

– Mọi hành động trong tổ chức đều phải được đưa vào văn bản quy định.

– Chỉ có những người có chức vụ mới có quyền ra quyết định.

– Chỉ có người có năng lực mới được giao chức vụ.

– Mọi quyết định trong tổ chức phải mang tính khách quan: Phù hợp với người lao động và có thể thực hiện được nhằm tạo ra một bộ máy làm việc nhịp nhàng, hiệu quả, có sự liên kết, kết nối để phân chia quyền lực và phân chia công việc.

5. Các lý thuyết về tâm lý xã hội trong quản trị kinh doanh

5.1. Lý thuyết của Elton Mayo (1880 – 1949)

Elton Mayo là giảng viên về triết học, logic học và đạo đức học ở Đại học Tổng hợp Queensland, Australia, sau đó chuyển đến Mỹ làm giáo sư nghiên cứu công nghiệp tại Đại học Harvard.

Ông nghiên cứu trên 10 công nhân nữ làm việc trong điều kiện cơ sở vật chất tốt, lương cao, không khí làm việc tốt và nhận thấy rằng năng suất lao động tăng giảm không nhiều khi ông thay đổi các yếu tố trên.

Sau đó ông quyết định chia họ thành hai nhóm: Nhóm 1 (nhóm tích cực) và nhóm 2 (nhóm tiêu cực) và nhận thấy năng suất lao động thay đổi rất nhiều khi các điều kiện trên thay đổi. Từ đó, ông rút ra kết luận rằng: Những yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lý) tác động rất mạnh đến năng suất của người lao động.

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu đó, Mayo đã đưa ra những nguyên lý mới nhằm hoàn thiện về quản lý xí nghiệp. Đó là:

– Công nhân là con người xã hội, là thành viên của hệ thống xã hội phức tạp.

Trong xí nghiệp, ngoài tổ chức chính thức còn có tổ chức phi chính thức.

– Năng lực lãnh đạo kiểu mới được thể hiện thông qua việc nâng cao mức độ hài lòng của nhân viên, khích lệ tinh thần công nhân viên, do đó mà đạt được mục đích nâng cao năng suất lao động.

Nói chung công nhân có xu hướng tuân theo các quy ước của tập thể, dù không chính thức. Lý thuyết này đã mở ra một kỷ nguyên mới trong quản trị, gọi là lý thuyết quan hệ người – người. Công trình này góp phần thúc đẩy nghiên cứu và vận dụng một cách trực tiếp khoa học vào quản lý sản xuất kinh doanh, thúc đẩy việc ứng dụng tâm lý học vào quản trị kinh doanh.

5.2. Lý thuyết của Douglas Mc.Gregor (1906 –1964)

Ông được coi là một trong những lão thành trong các nhà khoa học hành vi và đã dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu hành vi của con người trong tổ chức. Gregor thấy rằng, mặc dù một người nắm vững kỹ thuật để phát triển kinh tế và cải thiện cuộc sống nhưng anh ta chưa chắc đã có đủ kỹ năng quản lý để làm cho tổ chức hoạt động có hiệu quả.

Trong cuốn “Mặt nhân văn của xí nghiệp”, Mc. Gregor đã đưa ra một loạt các đánh giá về con người trong tổ chức. Ông đã đưa ra các lý thuyết X và Y (sẽ được nghiên cứu ở phần sau).

5.3. Lý thuyết Kaizen do Masaaki Imai người Nhật đề xướng năm 1986

Trong lý thuyết Kaizen, ông khuyên các nhà quản trị cần quan tâm đến các vấn đề sau:

– Quản lý thời gian: Rõ ràng trong quản lý thời gian của các nhà quản trị và nhân viên các cấp, cũng như của toàn bộ doanh nghiệp.

– Đề cao tính kỷ luật: Có kỷ luật mới làm cho tổ chức hoạt động suôn sẻ.

– Phát triển tay nghề trong công ty: Mang tư tưởng của Châu Á khác với Châu Âu là yếu tố gắn người lao động với công ty trong suốt thời kỳ dài.

– Tham gia các hoạt động của công ty: Nhằm mục đích cho mọi người lao động đoàn kết, hiểu nhau hơn và tự giác làm việc.

– Tinh thần lao động: Cống hiến hết sức cho lao động với tinh thần cao nhất.

– Sự thông cảm: Thể hiện không bắt công nhân làm những việc họ không muốn làm; quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân; đáp ứng nhu cầu của họ.

– Tư tưởng cốt lõi của học thuyết quản lý này là nhằm đạt tới sự cải tiến, nhưng cải tiến theo từng bước một (nhỏ) và sự cải tiến đó chỉ sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình. Tuy nhiên, nếu cần người Nhật sẵn sàng đầu tư lớn ngay từ đầu.

5.4. Lý thuyết của Peter Drucker (1909 – 2005)

Peter F.Drucker là chuyên gia kinh tế học, một nhà nghiên cứu về quản lý và chính trị học được cho là nổi tiếng nhất thời hiện đại của nước Mỹ và cũng là nhân vật đại diện cho trường phái kinh nghiệm chủ nghĩa phương Tây.

Là một giảng viên về quản lý, ông đề cao tầm quan trọng của quản lý như một thể chế có ưu thế và cơ bản. Theo ông, quản lý có 3 chức năng:

Quản lý một doanh nghiệp: Quản lý một doanh nghiệp tập trung vào làm kinh tế. Điều này không nhất thiết chỉ bao hàm sự tối đa hóa lợi nhuận. Lợi nhuận chỉ là yếu tố kiểm tra khả năng của các nhà quản lý, chính khách hàng mới là toàn bộ tầm quan trọng cho kinh doanh. Kinh doanh tồn tại vì khách hàng và chính khách hàng giữ cho nó tiếp tục hoạt động. Do đó, quản trị một doanh nghiệp có nghĩa là tạo ra khách hàng, chính vì vậy hai chức năng quan trọng của quản trị là marketing và đổi mới.

Quản lý các nhà quản lý: Theo Drucker, các nhà quản trị là nguồn lực cơ bản và đắt giá nhất trong hầu hết các tổ chức kinh doanh. Người ta tốn rất nhiều thời gian và nguồn lực để xây dựng một đội ngũ các nhà quản trị, chính vì vậy việc quản lý họ là một công việc cần được lưu tâm. Có 3 nhiệm vụ quan trọng trong việc quản lý các nhà quản lý: Quản lý theo các mục tiêu và tự điều khiển, lập cấu trúc công việc của một nhà quản lý và tạo ra tính hợp lý trong tổ chức.

Quản lý công nhân và công việc: Ông đề cao vai trò của công nhân với tư cách là tiềm năng con người là duy nhất. Khi được đối xử như một tiềm lực, anh ta có thể được khai thác hay sử dụng một cách có hiệu quả nhất.