Phát triển bền vững vào việc bảo vệ môi trường có mối quan hệ như thế nào

– Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi trường. Sự phân tích của tác giả theo 3 vấn đề tác động đến môi trường để chúng ta lựa chọn, xem xét cả trên bình diện quốc tế, quốc gia, vùng lãnh thổ và từng địa phương. Suy cho cùng thì mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau.

Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên [bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên] cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên: Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,… Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung [trong đó có cả tài nguyên] có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế – xã hội [KT-XH] ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì:

Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.

Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.

Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập nâng cao hiểu biết,… Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi trường.

Như vậy chính các yếu tố môi trường [yếu tố vật chất kể trên – kể cả sức lao động] là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người [thiên tai], và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên.

Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải [cả khí thải, nước thải, chất thải rắn]. Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái, hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.

Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển KT-XH.

Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

Trong hệ thống KT-XH, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.

Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.

Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên – đối tượng của sự phát triển KT-XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động KT-XH trong khu vực.

Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi truờng khác nhau. Ví dụ:

– Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lương của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường [đặc biệt là khí thải]. Hiện nay việc có được mua bán hay không quyền phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị thượng đỉnh về môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự tự giác chia sẻ tài lực với các nước nghèo để giải quyết những vấn đề có liên quan tới môi trường.

– Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên [rừng, khoáng sản, đất đai,…] mà không có khả năng hoàn phục. Diễn đàn hợp tác Á – Âu [ASEM] về môi trường họp vào tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã cho rằng nghèo đói là thách thức lớn nhất đối với công tác bảo vệ môi trường [BVMT] hiện nay. Do vậy, để giải quyết vấn đề môi trường, trước hết các nước giàu phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước nghèo giải quyết nạn nghèo đói.

Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và BVMT. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về BVMT,…

Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.

Như trên đã nói, BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững. KT-XH phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để KT-XH phát triển. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt [cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con người…], thì sự phát triển đó phỏng có ích gì! Nếu hôm nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác BVMT, làm cho môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ.

Nhận thức rõ điều đó, trong bối cảnh chúng ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 về “Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Ngay những dòng đầu tiên, Chỉ thị đã nêu rõ: “BVMT là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới”. Như vậy BVMT có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự nghiệp phát triển của đất nước. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” không thể thực hiện được nếu chúng ta không làm tốt hơn nữa công tác BVMT.

Tuy còn có nhiều khó khăn về kinh tế, song Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tích cực về công tác BVMT như: Xây dựng hệ thống pháp luật về BVMT ngày càng hoàn thiện; xây dựng hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về môi trường từ trung ương đến địa phương; tăng cường đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý về môi truờng; đầu tư nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội có ý nghĩa về BVMT, và 26/6/2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam.

Tuy nhiên, trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng còn nhiều điều bất cập trong công tác BVMT mà chúng ta chưa làm được: Môi trường vẫn từng ngày, từng giờ bị chính các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của chúng ta làm cho ô nhiễm nghiêm trọng hơn, sự phát triển bền vững vẫn đứng trước những thách thức lớn lao. Điều này đòi hỏi mọi người, mọi nhà, mọi địa phương trong cả nước phải thường xuyên cùng nhau nỗ lực giải quyết, thực hiện nghiêm chỉnh Luật BVMT. Có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng vào một tương lai với môi trường sống ngày càng trong lành hơn.

Theo tchdkh.org

Môi trường là gì? Phát triển kinh tế xã hội là gì? Thuật ngữ tiếng Anh? Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế xã hội? Thế nào là sự phát triển bền vững?

Môi trường mang đến điều kiện sống, tác động nên chất lượng sống của các loài sinh vật. Trong khi phát triển kinh tế xã hội là nhu cầu tất yếu, định hướng lâu dài của con người. Hai yếu tố này có liên hệ, tác động qua lại trên thực tế. Từ đó mà chúng ta cần thấy được vai trò của bảo vệ môi trường và cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội. Cùng tìm hiểu các tác động này, hướng đến phát triển bền vững trong nhu cầu, mục đích của con người.

Căn cứ pháp lý:

– Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020.

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

Theo Ðiều 3, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 thì khái niệm môi trường được hiểu như sau:

” 1. Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên.”

Phân tích quy định pháp luật:

Môi trường có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Ở đó, con người cùng các yếu tố khác được vận động, sinh sôi và phát triển. Các điều kiện từ môi trường phải thuận lợi thì sinh vật nói chung, con người nói riêng mới đảm bảo được chất lượng sống sinh học.

+ Môi trường là tất cả mọi thứ tồn tại xung quanh chúng ta.

+ Môi trường có thể là những vật sống [sinh học] hoặc vật không sống [phi sinh học].

+ Môi trường bao gồm vật lý, hóa học, và các hiện tượng tự nhiên khác.

Các điều kiện phát triển, tồn tại về mặt sinh học của chúng ta được đảm bảo khi môi trường được bảo vệ.

Các vai trò của môi trường:

+ Môi trường tạo cơ sở vật chất để phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội cho cuộc sống con người.

+ Môi trường cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết [như đất, nước, rừng, khoáng sản, và sinh vật biển] cho cuộc sống và cách hoạt động sản xuất của con người.

+ Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải và ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất và sinh sống của con người.

+ Môi trường cung cấp các dịch vụ môi trường hay hệ sinh thái: ổn định khí hậu, đa dạng sinh học, toàn vẹn hệ sinh thái, và ngăn cản bức xạ tia cực tím… . Từ đó giúp hỗ trợ các sự sống trên Trái Đất mà không cần bất kỳ hành động nào của con người.

+ Môi trường cũng có ý nghĩa trong giá trị giải trí, tâm lý, thẩm mỹ, và tinh thần của môi trường.

Trách nhiệm bảo vệ môi trường:

Bảo vệ môi trường là thực hiện các hoạt động phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường. Qua đó giúp môi trường luôn khỏe mạnh, trong lành, xanh tươi. Bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ các điều kiện sống của chúng ta:

+ Giúp ứng phó sự cố môi trường;

+ Khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường;

+ ử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nếu môi trường giúp duy trì, phát triển chất lượng sống về mặt sinh học thì kinh tế, xã hội mang đến nhu cầu, chất lượng sống tiên tiến, nâng cao giá trị của con người. Con người được phục vụ các nhu cầu về vật chất, được đáp ứng về tinh thần.

Giúp nâng cao sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Con người được phục vụ không chỉ nhu cầu ăn ở mặc, còn là làm đẹp, được sử dụng các dịch vụ,….

Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống.

2. Thuật ngữ tiếng Anh:

Môi trường tiếng Anh là Environment.

Phát triển kinh tế xã hội tiếng Anh là Social economic development.

Xem thêm: Thời kỳ quá độ là gì? Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế xã hội:

Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ:

+ Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển.

+ Còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hóa tham gia trong các giai đoạn. Từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Do đó, sản phẩm của phát triển kinh tế xã hội cũng mang đến thay đổi môi trường.

Các thành phần, sản phẩm luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường do con người tạo ra [môi trường nhân tạo].

– Phát triển kinh tế xã hội là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường:

+ Ở khía cạnh có lợi, phát triển kinh tế xã hội là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó. Con người nhận thức được và thực hiện các chiến dịch bảo vệ môi trường.

+ Nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Bởi các ý thức chưa cao, ý thức kém cũng từ phía con người.

3.2. Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển:

Môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên. Các tài nguyên không thể được sản sinh phù hợp, đáp ứng cho các yêu cầu sử dụng ngày càng lớn.

+ Do đó môi trường đang là đối tượng của hoạt động phát triển, thúc đẩy kinh tế xã hội.

+ Ở khía cạnh khác lại gây ra thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực.

Xem thêm: Nguyên tắc bảo vệ môi trường? Nội dung bảo vệ môi trường?

Có thể thấy được sự tác động của môi trường ở kết quả của các quốc gia phát triển:

Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi trường khác nhau. Khi đó, môi trường được đo lường ở mức độ ô nhiễm. Ví dụ:

– Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lượng của loài người. Các nhu cầu, dịch vụ con người sử dụng càng cao thì càng lãng phí.

– Ô nhiễm do nghèo đói: Những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường phát triển duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên [rừng, khoáng sản, nông nghiệp,…]. Khi đó, họ cố gắng khai thác không kết hợp với tái tạo năng lượng. Do đó, ngoài 20% số người giàu, 80% số dân còn lại chỉ sử dụng 20% phần tài nguyên và năng lượng của loài người. Các nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ khó khăn và đắt đỏ hơn trong khả năng.

3.3. Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển kinh tế xã hội:

Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển xã hội ngày càng gay gắt, mang đến khác biệt thực tế. Kinh tế xã hội càng phát triển, môi trường ngày càng ô nhiễm và ngược lại. Mâu thuẫn trên dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển.

Trong đó, các lý thuyết nổi bật được phát biểu như sau:

– Lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng [0] hoặc mang giá trị [-] để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất. Khi đó, muốn bảo vệ môi trường phải thông qua ý thức, các nhu cầu của con người. Phải kìm hãm, tiết chế các nhu cầu ở mức cần thiết.

– Một số nhà khoa học khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Khi đó, phát triển kinh tế xã hội không được xác định là mục tiêu trọng tâm. Con người cần bảo vệ chất lượng, điều kiện sống sinh học trước khi muốn tiếp cận các nhu cầu, chất lượng sống cao hơn.

Xem thêm: Bảo vệ môi trường là gì? Nội dung và biện pháp bảo vệ môi trường?

– Năm 1992 các nhà môi trường đã đưa ra quan niệm phát triển bền vững: Đó là phát triển trong mức độ duy trì chất lượng môi trường, giữ cân bằng giữa môi trường và phát triển. Phải thể hiện sự cân đối của các nhu cầu, khả năng và mục đích của con người. Phải tiết chế trong các yếu tố để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội cũng đồng nghĩa với bảo vệ môi trường. Các ý thức của từng người trong xã hội phải được thể hiện cao hơn bằng hành động thực tiễn.

Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Phát triển dẫn đến các nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên lớn. Dẫn đến các nhà máy, xí nghiệp, các vấn đề ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí,… Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hóa và ngừng sự phát triển của mình. Cũng như mỗi người chưa thấy được trách nhiệm riêng trong kêu gọi chung của cộng đồng.

Cơ sở để đưa ra khái niệm Phát triển bền vững:

Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển. Khi đó con người mới đạt được các thành tựu, thành công trong đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần. Bởi chúng ta không chỉ muốn tồn tại, chúng ta muốn được sống và tìm kiếm những giá trị.

Nhưng phải giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phải cân đối được lợi ích thực tế, chất lượng cuộc sống sinh học. Bảo vệ môi trường giúp con người khỏe mạnh hơn, tránh được nhiều rủi ro bệnh tật cũng như các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt.

Khái niệm phát triển bền vững:

Do đó, năm 1987, Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm Phát triển bền vững:

“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”.

Con người phải định hướng, phải điều chỉnh và vì tương lai. Như thế thì chất lượng cuộc sống mới được duy trì, tiếp diễn và cải thiện.

Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:

1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.

2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.

3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái Đất.

4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.

5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái Đất.

6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.

7. Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.

8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ.

9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.

Video liên quan

Chủ Đề