Quách quỳ là ai

Quách Quỳ [1022 – 1088] hiệu là Trọng Thông. Tổ tiên của ông đến từ Ku Loc [nay là huyện Trak, Hà Bắc, Trung Quốc], sau đó di cư đến Lạc Dương. Ông là con trai thứ của Quách Bân – một danh tướng thời Bắc Tống.

Trong 10 năm cầm quân đầu tiên của mình, Kuch Kui đã chiếm được biên giới phía Tây của nhà Tống dưới quyền của Phạm Trọng Yêm. Tại đây, Quách Quỳ đã giành được một số lợi thế, bao gồm cả việc đẩy lùi các cuộc tấn công từ Tây Hạ [Lý Nguyên Hạo của triều đại nhà Tống].

Quách Quỳ là người khôn ngoan, thực sự khâm phục khi bắt được Linh Vũ [nay là Linh Vũ, thành phố Ngàn Thuấn] và mèo Hoài Mẫn: Hoài Mẫn là người dũng cảm, không mưu mô. Anh đã phá hủy cung điện hoàng gia.

Chắc chắn rồi, Kat Howey Man thua trận, toàn bộ quân đội của anh ta bị tiêu diệt. Nhờ vậy, ông được bổ làm lính trấn giữ Chân Định, trấn thủ Bảo Châu [nay là 2 huyện Mãn Thanh và Thanh Uyên là cấp thành Bảo Định] và được giao trấn thủ. Sĩ Quan: Võ Thuật: Quân Mã và Hiệp Sĩ Hoan Hỉ.

Theo Wiki, Kuch Kui từ chức chính phủ khi mẹ anh qua đời. Khi hết tang, ông thay chức Tổng đốc Khinh Nguyên, rồi giáng làm quan ngự sử, dời ra Hà Bắc làm Duyên Bình An Phủ Đô Giám. Ông cùng Ngô Khuê đi đến người Khiết Đan của nước Sở. Sau chuyến công tác trở về, ông được bổ nhiệm làm thống đốc Fen Chau [nay là huyện Fenyang, thuộc địa cấp thành phố của Lư Lương, tỉnh Sơn Tài].

Kuch Kui là tướng dưới quyền của Hàn Châu khi Bàng Thích trấn thủ lộ Hà Đông [nay là tỉnh Sơn Tài]. Liêu Hưng Tông sai sứ đến khai khẩn vùng đất huyện Thiên Trì với lý do đây là đền thờ tổ của các vua Liễu. Bang Chủ không quyết định được. Kwach Kui đã xem xét các sách và tài liệu từ thời Tống Thái Tông [976-984] từ triều đại của Tai Binhng Kuok [976-984] và quyết định bác bỏ, cho thấy lúc đó nhà Lưu đã cầm cố vùng đất này cho nhà Tống. trả hết.

Từ năm thứ 1 đến năm thứ 3 đời Gia Hựu [1056-1058], khi là quận lỵ của lộ Hồ Bắc Kinh kiêm Tri Lễ Châu [nay là huyện Lệ, thành phố Tùng Đức, tỉnh Hồ Nam], ông Có. nguyên nhân thực sự của cuộc nổi dậy Peng Shixi ở Hồ Bắc. Ông được bổ làm lễ tân, chuyển sang làm Binh bộ lộ Hà Nam Khinh, Tri châu Thiếu Châu. Sau đó, ông trở thành Thái phó trông coi Tiết độ sứ Dung Châu, Tiết độ sứ, Khấu Nguyên lộ.

Năm Trị Bình thứ 2 [1065] thời Tống An Tông, ông được ban chức Tổng đốc Bao Đồng Tim Tự của Cơ mật viện Kuch Kui. Thái giám Ngụy Châu được giao làm sứ Sơn Tây.

Sau khi Đường Đường Tông lên ngôi, Kwach Kui trở thành minh quân của Tinh Nan, cải tiến Tuyên Huy ở phía nam và chinh phục Vân Châu [nay là huyện Vận Thành, thành phố huyện Hà Trak, tỉnh Sơn Đông]. Sau 7 ngày, ông chuyển đến thành phố Phúc Châu [nay là Duen An Sơn Tây, huyện Pu].

Ngày 9 năm Hải Ninh [1076], Tống Thắng Thông và Thiệu Thiết đem 100.000 quân đến sông Nhữ Ngạc đánh Diệt Việt, nhưng không tiến thêm được, cuối cùng phải rút lui. Ông bị giáng xuống làm Tả tướng quân. Sau đó, ông buộc phải nghỉ hưu và sống trong ngôi nhà này trong 10 năm. Khi Thông Trit Thong lên ngôi [1086], ông trở về Trì Lộ Châu, tức Quảng Châu, Tri Hà Trung. Năm Nguyên Hựu thứ 3 [1088], ông lâm bệnh, thọ 68 tuổi.

Đánh bại Lee Tung Kit, Kuch Kui bị người Trung Quốc chế giễu

Trong năm Năm 1077, quân của Lee Tung Kit tiêu diệt quân của Trit Thiet và bao vây quân của Kwach Kui. Tình thế quân Tống là cá nằm trên thớt vì không đánh mà tránh được.

Trong cuốn “Một số trận đánh chiến lược quan trọng trong lịch sử Việt Nam” có mô tả tình hình quân Tống sau 2 lần tấn công vào phòng tuyến Như Nguyệt. Đang phát triển mạnh mẽ hơn và bất khả chiến bại hơn từng ngày. Lee Tung Kit ngày nào cũng cho binh lính của mình nổi cơn thịnh nộ, nhưng kẻ địch không dám tấn công liều lĩnh. Họ chỉ sử dụng máy bắn đá từ Bờ Bắc để bắn vào Bờ Nam.

Sau lưng là kẻ thù, quân và dân ta luôn tiến hành chiến tranh quấy rối, tàn phá quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc và Đông Bắc có vai trò quan trọng và có nhiều đóng góp. Quân đội Tây Nguyên là một lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh của họ. Trong trận tập kích đồn Ung Châu, có tù trưởng đã tập hợp gần như toàn bộ dân chúng trong vùng để chiến đấu.

Hai tháng trôi qua, quân ca càng ngày càng ít và đặc biệt là mệt mỏi và hoang mang nghiêm trọng. Tin hy vọng cuối cùng là lực lượng thủy quân lục chiến cũng đã tàn lụi, thiếu lương thực, thực phẩm lại càng thêm suy yếu. Thêm vào đó, thời tiết bắt đầu chuyển mùa từ xuân sang hè không thích hợp với người miền Bắc.

Vào thời điểm đó, nhà Tống đã ra lệnh lựa chọn nhiều loại thuốc để chữa trị kết giới thiên giới và cử một số bác sĩ có tay nghề cao trong việc điều trị kết giới thiên giới đi cùng với quân đội. Nhưng khí hậu ẩm ướt, với những căn bệnh nhiệt đới vẫn hoành hành, khiến quân Trục bị ốm, và một số đã chết vì bệnh tật. Vua Tống lo lắng, ra lệnh dựng bàn thờ để cầu tài, nhưng không được.

Kiệt sức và bị áp đảo, lực lượng của quân Tống sụp đổ. Quân Tống vướng nhiều tình huống đáng tiếc, vừa rút lui vừa khó khăn. Cuộc tấn công hai tháng trước là một nỗ lực tuyệt vọng của kẻ thù. Một cuộc rút lui sẽ là một sự ô nhục đối với tòa án và một sự kết án. Khi đứng chờ, thủy quân không tìm được dấu vết, bộ binh và kỵ binh kiệt sức, có nguy cơ phân tán.

Trước tình hình đó, Lee Tung Kit đã tung quân đánh một trận làm kiệt quệ ý chí của kẻ thù. Trong Đại Việt sử ký toàn thư nhà Trần có chép rằng: “Lí Tùng Bộ biết quân Tống gặp khó khăn, ban đêm băng qua sông mai phục, đánh tan quân Trục mười, năm sáu trận”.

Sau đợt phản công, lương thảo đi vào tình trạng kiệt quệ. Nếu họ tiếp tục tăng quân, họ có nguy cơ tuyệt chủng hoàn toàn. Nhưng nếu bạn bỏ đi, bạn sẽ rất mất mặt. Biết rằng dã tâm xâm lược của kẻ địch đã bị dập tắt, Lee Tung Kit lập tức chủ động đề nghị “giảng hòa”, cụ thể là mở ra một lối thoát cho quân Tống.

Lúc này, Kuch Kui rất lo lắng, nhưng vẫn tức giận nói: “Chúng ta không thể tiêu diệt được thành trì của địch [quân ta]. Hãy lấy Hãn Đức [vua Lý Nhân Tông] để báo trước cho triều đình. Trời ạ! Cứu được nhiều hơn” 100.000 người. “

Tháng 3 năm 1077, quân Tống hỗn loạn rút lui. Kwach Kui sợ quân ta đánh nhau nên đã bí mật xuất quân ngay trong đêm. Nhưng khi ông ta ra lệnh rút lui, ai cũng muốn thoát chết và trở về thật nhanh. Họ đá nhau để tranh giành đường đi.

Trên đây là những điều được ghi lại theo sử sách Việt Nam. Sử sách Trung Quốc ghi lại trận thua này của Kwach Kui trong Sử ký Trịnh như sau: “Kui muốn rút quân, sợ địch tấn công nên buộc phải rút vào ban đêm, tiêu chuẩn không tốt. Tình thế loạn lạc, loạn lạc, anh em đánh nhau ”[Tống Sử, Sử ký Đạo Bạt].

Học giả nhà Tống, Guo Kui cũng kể về việc mình bị đánh bại nhưng vẫn giả vờ: “May mà kẻ địch mềm lời thì sẽ làm hòa”. Thật tốt biết bao nếu không có kẻ thù đầu hàng ”[Cheng] Di, Trinh Hao, Nhi Trinh Confession, xem Tong-Li Bang ghi chép].

Nhưng có lẽ bi thảm nhất đối với Guo Cui, sau khi thua trận, ông đã bị người dân Trung Quốc chế giễu vì tài cầm quân của mình. Theo truyền thống, câu chuyện về “Chiến lược Kwach Kui” trong tiểu sử cổ đại của Kim đã được ghi lại bởi người viết thư Pung Mong Long vào cuối thời nhà Minh. Tiểu sử Kim cổ đại đã được dịch sang tiếng Việt và hiện ra mắt bạn đọc:

“Quo Quy được lệnh xâm lược Giao Châu, quân đội hành quân ra ngoài không có kỷ luật, từ chuẩn bị đến thực hiện có nhiều điều nực cười.

Vào ngày dấy binh, các tướng lĩnh dưới quyền ông được trao cho một tập tài liệu lớn chứa các chỉ thị, mệnh lệnh của tướng quân. Từ hình ảnh đến chữ viết, mọi thứ đều tinh tế, các chủ đề phức tạp và khó hiểu. Một lần nữa, đừng quên cảnh báo các tướng quân đừng để lộ thân phận. Các tướng phải đến gần ánh sáng mới nhìn rõ …

Ghi chép rất nhiều, đọc suốt 3 ngày 3 đêm mà có đoạn văn như thế này: “Trước hết, người Giao Châu thường cưỡi voi, voi sợ tiếng lợn. Theo đó, các phòng phải Nó nuôi thú thật, nhiều lợn là voi, hễ thấy nó đến, chọc cho lợn một cái, con lợn kêu lên và voi sẽ tự nhiên lùi lại.

Tất nhiên, voi không sợ lợn, hoặc cũng chưa từng thấy voi đuổi lợn như thế nào. Đây có phải là trò đùa về khả năng lãnh đạo quân sự, về chiến lược của Kuch Kui sau thất bại trước Lee Tung Kit? Nhưng ở một khía cạnh nào đó, trong câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rằng người dân miền Bắc rất rụt rè trước những người lính Dế Việt và không nghĩ ra cách đối phó hiệu quả.

Một điều khác có thể hiểu được từ câu chuyện này là cách quân Tống bị chế giễu khi tiến quân xuống phía nam là vì người ta bắt lợn là vô kỷ luật. Chính vì vậy người ta mới ngạc nhiên khi thấy quân Tống đi thu gom lợn theo lệnh của Kuch Kui để nuôi tượng binh của dân tộc Việt Nam.

Quách Cối không gặp may sau khi đem quân đi đánh quân ta. Sau khi trở về nhà dẫn quân bị đánh bại, Cui bị buộc tội đã trì hoãn việc tiến quân. Thật không công bằng với Quách Quim vì dù đã tiến nhiều lần vào thời điểm đó nhưng anh ta phải dừng chân ở sông Bắc Nữ Nuguit để chờ viện binh. Nhưng tôi sợ quân Tống sẽ không quay lại nếu Kui cứ tiến lên.

Sau đó, Thôi được thuyên chuyển đến Ngạc châu, rồi giáng xuống chức Tả tướng quân, đặt dưới quyền Thái Khiết. Gọi là Meghe nhưng bị quản thúc, sống ở nhà suốt 10 năm, đó là cách các vị vua thời xưa trừng phạt những vị tướng bất tài. Khi Thông Trit Thong lên ngôi [1086], Tri Lộ Châu, Quảng Châu trở về nơi ngự sử, kiêm Tri Hà Trung. Năm Nguyên Hựu thứ 3 [1088], ông lâm bệnh, thọ 68 tuổi. Tuy nhiên, một nghìn năm sau, câu chuyện chế giễu “Quách Cưu lược lược” vẫn còn được ghi nhớ.

[theo Wiki, One World]

Xem Thêm: Ngõ Lý Thường Kiệt 7 chiếc xe ngựa tấn công 100.000 quân Tống.

Video liên quan

Chủ Đề