Top 10 nhạc ethiopia năm 2022
Abel Makkonen Tesfaye (sinh ngày 16 tháng 2 năm 1990, nghệ danh: The Weeknd) là nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm người Canada. Anh sinh ra tại thành phố Toronto và lớn lên ở Scarborough. Tesfaye bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm 2009 bằng cách đăng tải một cách vô danh bài hát "Do It" lên trang mạng YouTube. Vào cuối năm 2010, một số bài hát của Tesfaye được tải lên YouTube dưới cái tên "The Weeknd". Anh đã phát hành ba bản mix (9 track) trong suốt năm 2011: House of Balloons, Thursday and Echoes of Silence và được giới chuyên môn đánh giá cao.[1] Trong năm kế tiếp, anh phát hành một album tổng hợp mang tên Trilogy, bao gồm các bản mix trước đó đã được chỉnh sửa và ba bài hát mới thêm vào. Hãng Republic Records và XO đã phát hành độc quyền album này. Album thứ hai của Tesfaye, Beauty Behind the Madness trở thành album đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200, với tốp 5 đĩa đơn chính bao gồm: "Earned It", "The Hills" và single số một "Can't Feel My Face". Cả ba bài hát trên đều lần lượt giữ cả ba vị trí dẫn đầu của Bảng xếp hạng Billboard Hot R&B, khiến Tesfaye trở thành người đầu tiên trong lịch sử đạt được thành tích này.[2] Album thứ ba của Tesfaye Starboy (2016) cũng thành công tương tự như album trước với đĩa đơn trùng tên đạt vị trí quán quân bảng xếp hạng, đạt được giải thưởng Album Thành thị Đương đại Xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy Awards năm 2018. Album thứ tư của Tesfaye, After Hours (2020) đem lại cho anh những đĩa đơn ở vị trí quán quân bảng xếp hạng Billboard Hot 100 "Heartless", "Save Your Tears", và "Blinding Lights". Bài hát "Blinding Lights" lần đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng này dành đến hơn một năm nằm trong top 10,[3][4] và là bài hát được phát nhiều nhất trên nền tảng Spotify năm 2020.[5] The Weeknd cũng nhận được nhiều lời khen ngợi từ một số ấn phẩm âm nhạc như Pitchfork,[6] MTV,[7] BET,[8] Rolling Stone, XXL[9] và The Source.[10] Thời thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]Abel Makkonen Tesfaye sinh ngày 16 tháng 2 năm 1990 tại thành phố Toronto, Ontario. Ba mẹ anh Makkonen and Samra Tesfaye là người Ethiopia nhập cư[11][12][13] và lớn lên tại Scarborough, Toronto.[12][14][15] Anh là con một duy nhất trong nhà, mẹ anh làm nhiều việc để nuôi gia đình, bao gồm làm y tá và phân phát thức ăn cũng như mỗi tối đi học tiếng Anh bổ túc. Sau khi ba mẹ anh chia tay, anh được bà nội và mẹ ruột nuôi dưỡng.[16][17] Trong khoảng thời gian sống với bà, anh học tiếng Amharic, ngôn ngữ của mẹ anh.[18] Anh từng nhiều lần tham gia hoạt động đền thờ Ethiopian Orthodox Tewahedo Church.[11][19] Anh kể lại người ba của mình rằng, "Tôi mơ hồ gặp ba tôi khi tôi còn sáu tuổi, và những lần tiếp theo nữa lúc tôi lên 11 và 12 tuổi, ba của tôi đã có gia đình và đứa con mới. Tôi còn không biết được ba tôi sống ở đâu, tôi chỉ được gặp ba tôi cỡ đúng một đêm. Tôi tin chắc ba là một người đàn ông tuyệt vời. Tôi không bao giờ phán quyết ba tôi. Ba không hề lạm dụng chất nghiện, không hề nghiện rượu, không phải là một tên khốn nạn. Chỉ là ba không thể ở bên mẹ con tôi."[11] Tesfaye mô tả quãng thời gian niên thiếu của mình trong bộ phim "Kids without the AIDS." Anh kể lại anh từng nghiện marijuana năm 11 tuổi, sau này sử dụng thuốc lắc, oxycodone, xanax, ma tuý, psilocybin, và ketamin. Anh thú nhận mình thường hay ăn trộm vặt ở siêu thị để ra ngoài bán kiếm tiền mua ma tuý sử dụng.[12][20] Anh theo học tại trường West Hill Collegiate Institute và Birchmount Park Collegiate Institute ở Scarborough. Năm 2007, anh bỏ học và di cư sang Parkdale, Toronto, Abel giải thích nghệ danh của mình lấy cảm hứng từ việc bỏ học, cho biết "bỏ ra đi vào ngày cuối tuần và không bao giờ trở về nữa", mặc dù nhà sản xuất Jeremy Rose nói rằng nghệ danh đó là do anh nghĩ ra. Tuy nhiên nghệ danh lại được lược bỏ nhằm tránh đụng bản quyền với ban nhạc Canada tên The Weekend.[21][22] Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]2009–2011: Khởi nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]Vào khoảng tháng 8 năm 2009, Tesfaye đăng tải bài hát "Do It" lên nền tảng YouTube dưới tên tài khoản "AbelOfficial".[23] Sang năm tiếp theo, Tesfaye gặp gỡ nhà sản xuất âm nhạc Jeremy Rose, người đang có tham vọng cho dự án âm nhạc R&B đương đại lúc bấy giờ. Lúc ban đầu sau khi tung ý tưởng cho nhạc sĩ Curtis Santiago, Rose đồng ý làm nhạc cho Tesfaye, anh ban đầu tham gia thể loại nhạc rap freestyle quãng thời gian đầu nhưng sau này quay lại thể loại R&B. Cả hai hợp tác làm album phòng thu, Rose hoà âm và phối khí ba bài hát cho anh – "What You Need", "Loft Music", và "The Morning" – Tesfaye có nhiệm vụ là thu âm ca khúc lại, đến cuối cùng thì đem huỷ bỏ. Rose tặng lại cho Tesfaye lại ca khúc mà chính anh sáng tác với điều kiện là tên của anh phải được credit lại.[24] Vào tháng 12 năm 2010, Tesfaye đồng ý đăng tải lại miễn phí ba bài hát "What You Need", "Loft Music" và "The Morning" lên YouTube dưới một cái tên khác nữa là "xoxxxoooxo", chính kênh này về sau đổi lại thành "the Weeknd".[25] Lúc đó danh tính của anh vẫn còn mịt mờ với công chúng.[26][27] Bài hát thu hút sự chú ý từ cư dân mạng, và được nam rapper cùng thời vừa nổi tiếng Drake quảng bá trên một bài đăng blog.[24][28] Các bài hát mau chóng phủ sóng trên khắp mặt báo, bao gồm tờ tạp chí Pitchfork và The New York Times. Trước khi phát sinh cái tên nghệ danh the Weeknd, anh sử dụng biệt danh của the Noise và Kin Kane.[11] Khi Tesfaye lần đầu tự sáng tác nhạc, anh gia nhập American Apparel. Bởi vì vấn đề danh tính còn bí mật, những người làm chung của anh chỉ được nghe nhạc mà không hay biết rằng là của anh.[29][30][31] Vào năm 2011, Tesfaye kí hợp đồng với đối tác độc quyền âm nhạc Sal Slaiby và Amir Esmailian, rồi sáng lập ra hãng thu XO Records.[32] Vào 21 tháng 3 năm 2011, XO Records phát hành đĩa album phòng thu đầu tiên của anh có tên là House of Balloons.[33][34][35] Đĩa nhạc này bao gồm phần sản xuất của Illangelo và Doc McKinney, và bao gồm cả phần sản xuất trước đó của Rose cho dù anh không nhận bất cứ credit nào cho sáng tác này.[24] House of Balloons nhận được lời khen từ giới phê bình.[36] Nó được xướng tên vào mười đề cử của giải Polaris Music năm 2011.[37] Một trong số những màn trình diễn đầu tiên của anh là tại hội thảo học sinh da đen tại đại học University of Toronto vào tháng 4 năm 2011.[31][38] Vào tháng 7 năm 2011, Tesfaye đi lưu diễn tại Toronto, màn trực tiếp công khai của anh đầu tiên là tại Mod Club Theatre kéo dài đến gần 90 phút và Drake có mặt ở đây để xem màn trình diễn này.[39] Tại đây, Drake ngỏ ý hợp tác với Tesfaye. Tesfaye đã đồng ý và tham gia phần mở đầu cho các show diễn của Drake tại Molson Canadian Amphitheatre, và tại hội OVO Fest thường niên vào tháng 7 năm 2011.[40] Vào mùa hè năm 2011, Tesfaye đóng góp phần sáng tác của mình cho bốn bài hát của Drake ở album phòng thu Take Care, vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ hợp tác cho bài hát "Crew Love".[41] Tesfaye tự nhận mình là một người rất hạn chế tham gia phỏng vấn trực tiếp, anh chỉ chọn liên lạc qua đường Twitter, bởi vì tính cách của anh là rụt rè và hướng nội.[42][43] Cho đến thời điểm hiện tại, Tesfaye cực kì ít có mặt tại các buổi phỏng vấn, chỉ đồng ý nói chuyện vào những dịp rất quan trọng. Bản thu thứ ba của Tesfaye, Echoes of Silence, ra mắt vào ngày 21 tháng 12 năm 2011, một năm sau khi debut chính thức.[44]. Noise EP gồm có mười bài hát cũng được phát hành miễn phí trên mạng xã hội vào thời điểm này, trước khi anh chính thức đi vào album phòng thu đầu tiên.[45] Vào ngày 31 tháng 10 năm 2012, Tesfaye đăng tải lên Twitter rằng "Noise EP thực chất là một chuỗi bài hát bị rò rỉ từ nhà hợp tác cũ, người ta bên ngoài phát hiện AFTER HOB bị bỏ đó. Bản viết nháp demo thực ra là hồi còn teen để ghi chú ý thôi mà. xo."[46] 2012-2014: Trilogy và Kiss Land[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 4 năm 2012, Tesfaye bắt đầu tour lưu diễn quốc tế đầu tiên của anh, gồm cả buổi biểu diễn tại Coachella,[47] những show diễn bán sạch vé tại Bowery Ballroom ở thành phố New York Hoa Kỳ. Phần trình diễn của anh nhận được đánh giá tích cực đến từ tạp chí Rolling Stone.[47][48] Tesfaye còn tham gia nhiều lễ hội âm nhạc Châu Âu, gồm Primavera Sound tại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,[49] và lễ hội Wireless Festival tại Vương Quốc Anh.[50][51][52] Vào tháng 9, Tesfaye ký hợp đồng hãng đĩa Republic Records, và XO trở thành hãng thu con của anh.[53] Vào ngày 13 tháng 11 năm 2012, Tesfaye phát hành album phòng thu kết hợp Trilogy gồm nhiều ca khúc được remix và làm lại từ bản thu năm 2011 của anh, kèm theo ba bài hát mới.[14][54][55] Album ghi nhận Rose là nhà sản xuất và nhà sáng tác cho ba bài hát từ House of Balloons, ở album trước đó thì ông không được chính thức ghi nhận.[56] Trilogy ra mắt ở hạng tư ở bảng xếp hạng Billboard 200 trong tuần đầu bán được 86 nghìn bản. Album này còn ra mắt ở vị trí thứ năm tại Canadian Albums Chart, cùng lượng doanh số trên.[57][58] Album về sau nhận được chứng nhận bạch kim đến từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) và bạch kim x2 bởi Music Canada.[59][60] Album gặt hái được cho Tesfaye một đề cử hạng mục bình chọn Sound of 2013 của BBC.[61] Vào ngày 17 tháng 5 năm 2013, Tesfaye phát hành bài hát tiêu đề cho album phòng thu debut Kiss Land,[62] và ấn định ngày ra mắt album là ngày 10 tháng 9.[63] Sau khi được phát hành, album ra mắt ở vị trí á quân tại bảng xếp hạng Billboard 200, với doanh số tiêu thụ là 96 nghìn bản,[64] và nhìn chung đều được các chuyên gia âm nhạc đánh gia cao.[65] Album về sau được các đĩa đơn quảng bá kèm "Belong to the World", "Love in the Sky" và "Live For" kết hợp cùng với Drake. Tesfaye thực hiện chuyến lưu diễn từ 6 tháng 9 đến 25 tháng 10.[66] Tính đến tháng 8 năm 2015, album được tiêu thụ tổng cộng 273 nghìn bản tại Hoa Kỳ.[67] Vào 10 tháng 8 năm 2020, gần bảy năm sau được phát hành, Kiss Land đặt chân lên vị trí đầu bảng ở BXH iTunes R&B.[68] Vào tháng 11 năm 2013, Tesfaye tham gia mở màn cho nam ca sĩ Justin Timberlake tại chuyến lưu diễn The 20/20 Experience World Tour.[69] Sau đó, anh tham gia đóng góp nhạc chủ đề cho The Hunger Games: Catching Fire (2013), sáng tác "Devil May Cry" và single chủ đề thứ hai của series "Elastic Heart" cho Sia và Diplo.[70] Vào tháng 2 năm 2014, Tesfaye tham gia phối nhạc đĩa đơn "Drunk in Love" của Beyoncé đến từ phòng thu cùng tên nghệ danh. Giữ lại chủ đề và ý tưởng của bài hát, anh trình bày nội dung qua góc nhìn của một nam giới.[71] Vào 25 tháng 8, Tesfaye kết hợp với Ariana Grande trong bài hát "Love Me Harder" nằm ở album phòng thu thứ hai của cô, My Everything. Bài hát được phát hành vào ngày 30 tháng 9 dưới dạng đĩa đơn thứ tư của album, đạt ở vị trí thứ bảy trên BXH Billboard Hot 100.[72] Tour lưu diễn quảng bá đầu tiên của Tesfaye King of the Fall Tour được biểu diễn khắp nước Mỹ trong tháng 9 và tháng 10 năm 2014, tour này nhận được hỗ trợ từ Schoolboy Q và Jhené Aiko.[73] Kéo theo tour diễn, hai bài hát "Often" và "King of the Fall" được phát hành. Nhiều người dự đoán đây chính là những single mở đầu cho album phòng thu thứ hai sắp tới của anh, Beauty Behind the Madness (2015).[74] Vào 23 tháng 12, Tesfaye ra mắt "Earned It" nằm trong phần nhạc nền của bộ phim Năm mươi Sắc Thái (2015). Bài hát đạt vị trí thứ ba trên BXH Billboard Hot 100, mang lại cho Tesfaye đề cử đầu tiên của giải thưởng Giải Oscar ở hạng mục Best Original Song.[75] Bài hát đoạt giải Best R&B Performance và được đề cử ở Best R&B Song và Best Song Written for Visual Media ở lễ trao giải Giải Grammy lần thứ 58.[76] 2015–2017: Beauty Behind the Madness và Starboy[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 27 tháng 5 năm 2015, Tesfaye phát hành đĩa đơn thứ hai từ Beauty Behind the Madness, "The Hills".[77] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ hai mươi trên BXH Billboard Hot 100, và đạt ở vị trí quán quân, trở thành đĩa đơn thứ hai của Tesfaye đạt được vị trí này (sau "Can't Feel My Face"). Vào tháng 6 năm 2019, "The Hills" được chứng nhận kim cương từ RIAA, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Tesfaye được chứng nhận này.[78][79] Vào tháng 6 năm 2015, sau khi giành giải thưởng Centric Award tại lễ trao giải BET Awards, Tesfaye biểu diễn "Earned It" cùng với Alicia Keys.[80] Vào ngày 8 tháng 6, anh phát hành ca khúc mới "Can't Feel My Face" làm đĩa đơn thứ ba của album. Ca khúc trước đó bị rò rỉ vào tháng 5 nhưng được phát hành làm ngay sau phần trình diễn của Tesfaye ở Apple Worldwide Developers Conference.[81] Đĩa đơn thứ ba ra mắt ở vị trí thứ hai mươi tư trên BXH Billboard Hot 100, và đạt vị trí quán quân, trở thành ca khúc đầu tiên của anh đạt được vị trí này trước cả đĩa đơn thứ hai "The Hills", đồng thời là ca khúc top 10 thứ ba trong sự nghiệp của Tesfaye ở Hoa Kỳ.[82][83] Ca khúc được đề cử thu âm của năm và trình diễn pop solo xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 58.[84] Tesfaye được vinh danh là nghệ sĩ đầu tiên dành ngôi quán quân ở cả ba bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs của Billboard tại cùng một thời điểm.[85] Anh cũng được công bố là một trong những gương mặt đại diện âm nhạc của dịch vụ phát trực tuyến Apple Music, cùng với Drake.[86] Tại lễ trao giải 2015 MTV Video Music Awards, Apple ra mắt đoạn phim quảng cáo gồm hai phần có sự góp mặt của Tesfaye, và sự xuất hiện đặc biệt từ John Travolta.[87] Vào tháng 7, Tesfaye tiên phong biểu diễn tại lễ hội FVDED in the Park tại Surrey, British Columbia.[88] Vào 29 tháng 6, Tesfaye góp mặt trong album phòng thu thứ hai của Meek Mill, Dreams Worth More Than Money (2015), trong ca khúc "Pullin' Up".[89] Album phòng thu thứ hai của Tesfaye Beauty Behind the Madness được phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 2015, ra mắt ở vị trí số một tại BXH Billboard 200, tiêu thụ được 412.000 đơn vị trong tuần đầu.[90][91] Album leo lên vị trí top 10 tại mười quốc gia, trong đó đạt được vị trí quán quân tại các nước Canada, Úc, Norway, và Vương Quốc Anh.[92][93] Album được Tesfaye quảng bá rầm rộ trong nhiều lễ hội âm nhạc mùa hè, gồm Lollapalooza, Hard Summer Music Festival, và lễ hội Bumbershoot.[94] Anh tiến hành chuyến lưu diễn The Madness Fall Tour đầu tiên rộng khắp Hoa Kỳ, bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 12.[95][96] Album đã được chứng nhận đĩa bạch kim kép tại Hoa Kỳ và bán được 1,5 triệu bản trên toàn thế giới.[97] Đây là album được phát trực tuyến nhiều nhất trong năm 2015, với hơn 60 triệu lượt phát trực tiếp,[98] và được xếp hạng trên nhiều danh sách album của năm.[99] Ba đĩa đơn trước phát hành album đã được chứng nhận bạch kim tại Hoa Kỳ.[100] Album thắng giải album Urban Contemporary xuất sắc nhất và được đề cử album của năm tại lễ trao giải Grammy lần thứ 58.[101] Vào ngày 4 tháng 9 năm 2015, Tesfaye góp mặt vào album đầu tay của Travis Scott, Rodeo, ở ca khúc "Pray 4 Love".[102] Vào ngày 10 tháng 10, Tesfaye xuất hiện tại Saturday Night Live cùng với nữ diễn viên Amy Schumer, trình diễn với vai trò khách mời âm nhạc của chương trình.[103][104] Đây là trình diễn đầu tiên của anh với vai trò nghệ sĩ solo, sau khi cùng Ariana Grande biểu diễn "Love Me Harder".[104] Vào ngày 18 tháng 12, Tesfaye góp giọng cho đĩa đơn của Belly, "Might Not" ở tập thu thứ tám, Up For Days.[105] Vào ngày 14 tháng 2 năm 2016, Tesfaye góp giọng trong album phòng thu thứ bảy của Kanye West, The Life of Pablo ở bài hát "FML".[106][107] Đây là lần thứ hai hai người hợp tác chung, trước đó West tham gia sáng tác và sản xuất đĩa đơn "Tell Your Friends" của Tesfaye nằm trong album Beauty Behind the Madness. Vào ngày 1 tháng 3, Tesfaye góp giọng cho đĩa đơn của Future, "Low Life" nằm trong album Evol.[108] Vào ngày 23 tháng 4, anh xuất hiện trong album thứ sáu của Beyoncé, Lemonade ở ca khúc "6 Inch".[109] Vào ngày 26 tháng 8, Tesfaye hợp tác với Cashmere Cat trong ca khúc "Wild Love" cùng Francis and the Lights, đây là đĩa đơn dẫn đường cho album phòng thu đầu tay của Cashmere Cat, 9 (2017).[110] Vào tháng 9 năm 2016, Tesfaye công bố album phòng thu thứ ba của anh, Starboy, sẽ ra mắt vào ngày 25 tháng 11 và lần này có sự hợp tác với nhà soạn nhạc điện tử người Pháp Daft Punk.[111][112] Anh phát hành bài hát cùng tên, hợp tác với Daft Punk vào 21 tháng 9.[113] Bài hát ra mắt ở vị trí thứ 40 tại BXH Billboard Hot 100, và giành được vị trí quán quân, trở thành đĩa đơn số một thứ ba của Tesfaye ở BXH này.[114] Tính đến tháng 3 năm 2020, bài hát được chứng nhận bạch kim 8× từ RIAA.[115] Màn hợp tác thứ hai của họ, "I Feel It Coming" ra mắt vào ngày 24 tháng 11 và đạt vị trí thứ tư tại Billboard Hot 100.[116] Vào ngày 1 tháng 10, Tesfaye lần thứ hai xuất hiện tại Saturday Night Live dưới vai trò là khách mời cùng với nữ diễn viên Margot Robbie. Trong chương trình, anh biểu diễn "Starboy" và "False Alarm".[117] Vào ngày 23 tháng 11, anh phát hành phim ngắn M A N I A được đạo diễn bởi Grant Singer, trích một số bài hát trong album, gồm "All I Know" có sự góp giọng của Future, "Sidewalks" hợp tác với Kendrick Lamar, "Secrets" và "Die for You".[118][119] Sau khi được phát hành, album đạt được vị trí quán quân tạiBillboard 200 với 348 nghìn đơn vị tiêu thụ, trở thành album thứ hai quán quân liên tiếp của Tesfaye.[120] Tính đến tháng 1 năm 2019, album được chứng nhận 3x bạch kim bởi RIAA.[121] Album đoạt giải Album Urban Contemporary xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 60, đánh dấu lần thứ hai của Tesfaye chiến thắng ở hạng mục này.[122] Vào ngày 15 tháng 2 năm 2017, Tesfaye hợp tác với đĩa đơn đầu tay của Nav "Some Way", cũng là đĩa đơn mở đầu cho mixtape cùng tên nghệ danh.[123] Vào ngày 24 tháng 2, anh xuất hiện trong album phòng thu thứ sáu của Hndrxx, ở ca khúc "Comin Out Strong".[124] Vào ngày 19 tháng 4, Tesfaye xuất hiện ở album và single thứ hai cùng tên với nhau của Lana Del Rey, Lust for Life.[125][126] Vào ngày 15 tháng 8, anh hợp tác với French Montana ở ca khúc "A Lie", đĩa đơn thứ ba từ album phòng thu thứ hai Jungle Rules. Sau đó, anh xuất hiện trong video âm nhạc do Virgil Abloh làm đạo diễn cho ca khúc "XO Tour Llif3" của Lil Uzi Vert cùng với Nav. Cuối cùng, anh góp mặt trong album đầu tay của Lil Uzi Vert, Luv Is Rage 2 ở ca khúc "UnFazed" và album phòng thu thứ mười một của Gucci Mane, Mr. Davis ở ca khúc "Curve". 2018-2020: My Dear Melancholy và After Hours[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 31/1/2018, Top Dawg Entertainment tiết lộ bản list nhạc đầy đủ cho bộ phim Black Panther của Kendrick Lamar hợp tác với Abel ca khúc "Pray for Me". Ngày 2/2/2018, ca khúc được phát hành đánh dấu lần hợp tác thứ hai của cả hai sau ca khúc "Sidewalks" trong album Starboy. Vào ngày 27/3/2018, Abel bắt đầu quảng bá album mới trên trang Instagram của mình. Ngày 29/3/2018, album mới của Abel được tiết lộ bằng bảng hiệu lớn ở London album có tự đề My Dear Melancholy cùng ngày hôm đó album cũng được công bố rộng rãi. Ngày 30/3/2018, phiên bản mở rộng của My Dear Melancholy cũng được công bố. Tháng 5/2018, Abel thông báo sẽ cho ra mắt phần tiếp the của My Dear Melancholy tên We're Alone Together và nói rằng đây là phần thuộc 3 phần của album. 2021–hiện tại: màn trình diễn Super Bowl LV halftime show và Dawn FM[sửa | sửa mã nguồn]Nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]Abel nói rằng Michael Jackson, Prince và R. Kelly là nguồn cảm hứng cho âm nhạc của mình. Anh cũng xem Michael Jackson là cảm hứng chính trong sự nghiệp âm nhạc của mình theo ca khúc "Dirty Diana" là một ví dụ. Anh cũng nói rằng giọng hát cao thé cũng mình là bị ảnh hưởng từ ca sĩ Aster Aweke. Anh nghe rất nhiều thể loại âm nhạc khác nhau bao gồm nhạc soul, quiet storm, hip-hop, funk, indie rock và post-punk. Hầu hết các bài hát của Abel được sản xuất với phong cách nhạc tempo chậm rãi, bass nặng và nhiều âm hưởng vang. Abel nói rằng phong cách của mình bị ảnh hưởng từ Michael Jackson rất nhiều. Cũng như khơi gợi rất nhiều trí tò mò từ các nhà phê bình âm nhạc, anh chủ yếu hợp tác với nhà sản xuất nhạc Illangelo và Doc McKinney. Lời ca khúc đơn giản nhưng sâu lắng của anh thường có chủ đề về việc tổn thương cũng như đương đầu với những vấn đề như tình dục, thuốc phiên và tiệc tùng. Paul MacInnes của tờ The Guardian cũng cho rằng bộ ba EP của anh là "về lúc tiệc tùng, tới sau buổi tiệc và buổi sáng hôm sau". Abel cũng quảng bá rộng rãi các phong cách nhạc khác nhau và xem đó là nguồn cảm hứng cho âm nhạc của mình. Trong lúc làm album Starboy, Abel nói rằng David Bowie, Prince, The Smiths, Bad Brains, Talking Heads, DeBarge, 50 Cent, The Wu-Tang Clan và Eminem là nguồn cảm hứng cho album Starboy. Những dự án khác[sửa | sửa mã nguồn]Trong suốt tour lưu diễn vòng quanh nước Mỹ của mình quảng bá cho Kiss Land, Abel hợp tác với hãng sản xuất bao cao su ONE phát tặng miễn phí phiên bản đặc biệt giới hạn ở những buổi biểu diễn của mình. Vỏ bao cao su in hình album cùng với hình đại diện Oxcy được in mặt còn lại. Tháng 11/2015, để quảng bá tích cực cho Beauty Behind the Madness, anh hợp tác với PAX Labs cho ra đời thuốc lá điện tử PAX 2 được phép sử dụng ở các buổi biểu diễn của mình. Nhãn hiệu "XO" được in trên thân cũng như phát bài "The Hills" mỗi khi mở để sử dụng. Với giá 279 đô Mỹ cho bản bình thường thì bản giới hạn có giá 324 đô Mỹ. PAX cũng là nhà tài trợ cho tour lưu diễn và logo được đặt ở vị trí VIP. CMO của PAX là Richard Murphy cho biết "Âm nhạc và thời trang luôn đi song song với nhau ở PAX. Đây là cơ hội tuyệt vời để đưa phong cách của The Weeknd hợp nhất với công nghệ của chúng tôi". Năm 2016, Abel thông báo về việc hợp tác với Puma với tư cách là đại sứ thương hiệu cho chiến dịch "Run the Streets" được ra mắt vào đầu tháng 11 với bộ sưu tập đặc biệt được ra mắt cùng thời điểm với album Starboy. Anh cũng dẫn chương trình khai trương một số cửa hàng pop-up cho bộ sưu tập "Starboy: Limited Capsule" được bày bán ở thị trường Bắc Mỹ bao gồm New York, Los Angeles, và Toronto. Với sự hợp tác này, Abel cũng cho ra mắt 3 bộ sưu tập tên PUMA X XO bao gồm áo thun, nón, quần nỉ, áo bomber và giày tên the Parallels. Danh sách album[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Thứ Sáu, ngày 16 tháng 8 năm 2019 Bởi Jim Hickson Từ cách kể chuyện của Azmari Bards đến Grooving Ethio-Jazzers, Ethiopia đã không thể sản xuất được một số người khổng lồ của nền âm nhạc thế giới. Jim Hickson chọn ra một số bản ghi nền từ đất nước Lịch sử âm nhạc phong phú 1 Mahmoud AhmedÉthiopiques Vol 7: Erè Mèla Mèla (Buda Musique, 1999) (Buda Musique, 1999) Erè Mèla Mèla, tác phẩm kinh điển năm 1975 của ca sĩ Mahmoud Ahmed, là một bậc thầy về linh hồn ảo giác với sắc thái của James Brown và một túi tải trọng. Đó là album đầu tiên của âm nhạc Ethiopia mà nhà sản xuất Francis Falceto từng nghe, bắt đầu cuộc hành trình hoành tráng sẽ dẫn đến việc tạo ra Éthiopiques. Được xem xét trong #3. 2 Mulatu AstatkeMulatu của Ethiopia (Strut, 2017) (Strut, 2017) Đây là một bản remaster của album kinh điển năm 1972 đã củng cố âm thanh độc đáo của Vibraphonist và Electric Piano Player. Đây là lần đầu tiên âm nhạc của Astatke đã củng cố hoàn toàn thành sự pha trộn đặc biệt của các chế độ du dương hậu BOP, Afro-Latin và giai điệu của người Ethiopia được gọi là Ethio-Jazz. Được xem xét trong #129. 3 Aster AwekeAster (Triple Earth, 1989) (Triple Earth, 1989) Aster Aweke là ngôi sao âm nhạc thế giới lớn đầu tiên của người Ethiopia. Tác phẩm ra mắt quốc tế có tựa đề của cô ấy có thể bị sản xuất quá mức, nhưng các tác phẩm là những người nổi tiếng và sức mạnh tuyệt đối của giọng nói là không thể phủ nhận. Ngoài ra, còn có một số ít các mảnh giọng nói đơn giản (Lyre) rất thú vị. 4 Emahoy Tsegué-Maryam GuèbrouÉthiopiques Vol 21: Bài hát của Ethiopia - Piano Solo (Buda Musique, 2006) (Buda Musique, 2006) Emahoy Tsegué-Maryam Guèbrou là một nhạc sĩ không giống ai. Từng là một nghệ sĩ piano hòa nhạc đầy hứa hẹn, God sẽ can thiệp và cô trở thành một nữ tu. Tuy nhiên, âm nhạc không bao giờ rời bỏ cô, và thay vào đó cô đã tạo ra phong cách của riêng mình. Các tác phẩm của cô cho piano solo dựa trên các bài thánh ca chính thống và giai điệu của Krar và Begena Lyres, nhưng kết cấu của chúng giống như các tông màu nước của Debussy hoặc Chopin. 5 Shewandagne HailuSitotash (Nahom Records, 2013) (Nahom Records, 2013) Những âm thanh trôi ra khỏi các quán cà phê, quán bar và taxi ở Ethiopia không phải là những bài hát truyền thống hay các bài hát truyền thống của Bards Azmari. Thay vào đó, những gì bạn sẽ nghe thấy là pop ngoài và ngoài. Shewandagne Hailu là một trong những ngôi sao lớn nhất trong những năm gần đây; Âm nhạc của anh ấy là sự pha trộn của reggae và R & B với giá vé của ban nhạc con trai điển hình, nhưng tất cả đều có một cảm giác không thể nhầm lẫn ở Ethiopia. 6 Gétatchèw Mèkurya, The & Nbsp; Ex & Nbsp; && NBSP; KháchMOA ANBESSA (TERP Records, 2006) (Terp Records, 2006) Gétatchèw Mèkurya đã phát triển trò chơi sax của mình bằng cách bắt chước âm thanh của masenqo (fiddle một chuỗi); Kỹ thuật kết quả nghe có vẻ kỳ lạ tương tự như nhạc jazz miễn phí của Albert Ayler. Kết hợp với những người cũ của người Hà Lan, âm thanh trở nên tích cực. Được xem xét trong #43. 7 Mikael SeifuZelalem (RVNG Intl, 2016) (RVNG Intl, 2016) Mikael Seifu là một ánh sáng hàng đầu trong Ethiopiyawi Electronic, một cảnh dưới lòng đất sủi bọt ở Addis Ababa (với các khu vực ở Washington, DC). Phong cách lấy nhạc điện tử và xem nó qua ống kính của người Ethiopia. Kết quả: Ngôi nhà và trance Downtempo tối tăm và nghiền ngẫm, thường được neo trong các mẫu từ Masenqo, Krar hoặc Ethio-Jazz kinh điển. 8 Nhiều nghệ sĩEthiopie: Musiques Vocales et nhạc cụ (Ocora, 1994) (Ocora, 1994) Ethiopia là nơi có hơn 80 nhóm dân tộc, và album ghi âm hai lần này từ những năm 1960 đại diện cho tất cả các loại nhạc truyền thống từ khắp nơi trên đất nước: từ các bản nhạc ca. Tej Bet (Phòng khách mật ong). 9 NhiềuÉthiopiques Vol & NBSP; 1: Những năm vàng của âm nhạc hiện đại của người Ethiopia 1969-1975 (Buda Musique, 1997) (Buda Musique, 1997) Sê -ri éthiopiques đã khiến thế giới chú ý đến những âm thanh retro của Ethiopia trong thời kỳ hoàng kim âm nhạc của nó. Bản tổng hợp này tập trung vào một số ca sĩ đặc biệt nhất trong thời kỳ như Mahmoud Ahmed, Gétatchèw Kassa và Sèyfu Yohannès, và tất cả đều thấm nhuần với bầu không khí khói của các hộp đêm tuyệt vời nhất của Addis Ababa. 10 Eténèsh Wassié & Mathieu SourisseauYene Alem (Buda Musique, 2018) (Buda Musique, 2018) Eténèsh Wassié là một người Azmari đầy đủ, và những bài hát truyền thống ám ảnh của cô mang thêm một chiều với sự đóng góp của nghệ sĩ guitar bass Mathieu Sourisseau và nghệ sĩ cello Julie Läderach. Phong cách di chuyển giữa âm nhạc thính phòng cổ điển, nhạc jazz miễn phí và điêu khắc âm thanh trừu tượng, dẫn đến một album mãnh liệt, đầy thách thức nhưng thú vị. Được xem xét trong #138. Một số âm nhạc phổ biến ở Ethiopia là gì?Âm nhạc của vùng cao nguyên Ethiopia sử dụng một hệ thống phương thức cơ bản có tên là Qenet, trong đó có bốn chế độ chính: Tezeta, Bati, Đại sứ và Anchihoy. Ba chế độ bổ sung là các biến thể trên: Tezeta Minor, Bati Major và Bati Minor.tezeta, bati, ambassel, and anchihoy. Three additional modes are variations on the above: tezeta minor, bati major, and bati minor.
Ca sĩ nổi tiếng Ethiopia là ai?1. Aster Aweke. Aster Aweke là một ca sĩ gốc Ethiopia, có trụ sở tại Washington. Một trong những nghệ sĩ hàng đầu của đất nước, Aweke được sinh ra ở Gondar vào năm 1961, và đã có những bước tiến tới sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp ở quê nhà bởi tuổi thiếu niên.Aster Aweke. Aster Aweke is an Ethiopian-born, Washington-based singer. One of the country's leading artists, Aweke was born in Gondar in 1961, and was already making strides towards a professional music career in her home country by her late teens.
Âm nhạc truyền thống ở Ethiopia là gì?Âm nhạc từ Tây Nguyên của Ethiopia có một hệ thống phương thức gọi là Qetit bao gồm bốn chế độ chính: Tezeta, Baati, Đại sứ và Anchihoy.Nó cũng chứa ba chế độ bổ sung: Tezeta Minor, Bati Major và Bati Minor.Một số bài hát có cùng tên với Qette.Ví dụ Tizita hoặc Tezeta.tezeta, bati, ambassel, and anchihoy. It also contain three additional modes: tezeta minor, bati major, and bati minor. Some songs has the same name with it's qenet. For example tizita or tezeta.
Ai là ca sĩ người Ethiopia nổi tiếng nhất?Nghệ sĩ người Ethiopia.. Multu Astatke.295.802 người nghe..... Mahmoud Ahmed.74.309 người nghe..... Alèmayèhu Eshèté 38.623 người nghe..... Mullatu Astatqé 33.972 người nghe..... Dub Colossuus.17.725 người nghe..... Ban nhạc Wallias.21.644 người nghe..... Gétatchèw Mèkurya.26.401 người nghe..... Muluqèn Mèllèsè 14.113 người nghe. |