Trần quang diệu là ai

Nguồn tin: Lược theo sách “Nhà Tây Sơn”

Trần Quang Diệu [? – 1802] quê ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Ông là một trong Tây Sơn thất hổ tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là chồng nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân. Ngay từ tuổi thanh niên, ông là bạn tâm giao của Nguyễn Nhạc. Chiến công đánh đuổi quân Thanh xâm lược đầu xuân Kỷ Dậu [1789] có rất nhiều đóng góp của vợ chồng ông.

Sau khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng Thăng Long rồi rút quân về Phú Xuân thì Trần Quang Diệu được tin cậy trao quyền làm Đốc trấn Nghệ An và trông coi việc xây thành Phượng Hoàng Trung đô. Ông đã góp phần quan trọng trong việc củng cố và xây dựng đất nước sau chiến tranh dưới triều vua Quang Trung.

Tượng thờ Thái phó Trần Quang Diệu trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt [Bảo tàng Quang Trung, Bình Định]

Đầu năm Tân Hợi [1791], vua Quang Trung sai một đoàn sứ sang Vạn Tượng để thông hiếu và thăm dò tình hình. Đoàn sứ Tây Sơn tới nơi thì bị vua Vạn Tượng cho bắt và giải sang Xiêm. Vua Xiêm vẫn có mối thù với quân đội Tây Sơn từ sau lần thất trận ở Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785, nên khi thấy sứ đoàn Tây Sơn bị giải đến liền tước hết cờ biển của sứ thần, sai người đưa sang cùng với quà biếu Nguyễn Ánh để khuyến khích chúa Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Trước tình hình đó, vua Quang Trung liền sai Trần Quang Diệu lãnh ấn Đại Tổng quản cùng với Đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem hơn 1 vạn quân đi đánh Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quỳ Hợp rồi tiến sang Vạn Tượng.

Tháng 6, năm Tân Hợi [1791], Trần Quang Diệu tiến đánh Trấn Ninh bắt được tù trưởng xứ đó là Thiệu Kiểu, Thiệu Đế. Tháng 8, quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Trần Quang Diệu đã đánh thắng hai xứ Trịnh Cao và Quỳ Hợp. Tháng 10 năm đó, quân của ông tiến vào Vạn Tượng. Vua Vạn Tượng là Chao Nan phải bỏ trốn. Trần Quang Diệu vào thành Viêng Chăn và cho quân truy kích Chao Nan. Quân Tây Sơn đánh đuổi quân Vạn Tượng đến tận biên giới nước Xiêm, vua Vạn Tượng phải chạy trốn sang Xiêm. Chiến thắng của quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu đã làm cho vua Xiêm khiếp sợ không dám đem quân sĩ đi ứng cứu quân Vạn Tượng.

Đầu năm Nhâm Tý [1792], Trần Quang Diệu đưa quân từ Vạn Tượng về Nghệ An. Trong thời gian tiến quân sang vùng Tây Nghệ An, Đại Tổng quản Trần Quang Diệu đã khai thông một con đường từ miền Tây Nghệ An xuống vùng biên giới ba nước Việt – Vạn Tượng – Xiêm, phá tan sự liên kết giữa các thế lực chống đối trong và ngoài nước.

Giữa lúc lực lượng quân đội Tây Sơn đang vững mạnh và chuẩn bị tấn công quân nhà Nguyễn ở Gia Định, thì tháng 7 năm Nhâm Tý [1792] vua Quang Trung đột ngột qua đời. Trước đó, khi bị bệnh, vua Quang Trung đã cho gọi trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu vào Phú Xuân để bàn việc dời đô ra Nghệ An.

Sau khi Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh [1793-1801] thì Trần Quang Diệu được phong làm Thái phó phụ trách công việc văn thư lệnh thị [nghĩa là từ một quan võ ông chuyển sang hàng quan văn].

Năm 1793, quân chúa Nguyễn kéo ra bao vây thành Quy Nhơn do Nguyễn Nhạc cai quản. Trần Quang Diệu lại được lệnh đem quân thủy bộ vào đánh thành Quy Nhơn. Trong vòng gần 9 năm, từ tháng 3 năm Giáp Dần [1794] cho đến giữa năm Nhâm Tuất [1802], Trần Quang Diệu cùng với Võ Văn Dũng đương đầu với quân đội của chúa Nguyễn ở vùng Quy Nhơn, Quảng Nam…

Tháng Giêng năm Canh Thân [1800], bộ binh Tây Sơn do Thái phó Trần Quang Diệu chỉ huy cùng với thủy binh do Tư đồ Võ Văn Dũng chỉ huy tiến vào cửa Thị Nại, thế quân rất mạnh. Phó tướng quân của chúa Nguyễn là Nguyễn Văn Biện phải rút vào thành Bình Định cùng với Võ Tánh giữ chặt thành. Trần Quang Diệu cùng với Võ Văn Dũng bao vây thành Bình Định hơn một năm trời, quân Nguyễn trong thành vô cùng khốn quẫn, không thể giữ nổi thành. Tướng của chúa Nguyễn là Võ Tánh phải tự thiêu mà chết, còn Ngô Tùng Châu thì uống thuốc độc tự tử.

Khi hạ được thành Bình Định [1801], cảm vì cái chết của Võ Tánh, Tùng Châu, ông cho chôn cất tử tế và các tướng sĩ quy hàng được ông phóng thích ngay.

Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch, khó bề chống giữ. Tháng 3 âm lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân đã thua trận ở Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tướng đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì nghe thành Nghệ An đã thất thủ, Trần Quang Diệu và vợ con bèn về huyện Thanh Chương. Lúc này, tướng sĩ đi theo dần rời bỏ, trốn được mấy hôm thì cả nhà ông đều bị quân đối phương bắt sống.

Mộ Trần Quang Diệu tại phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, T/P. Đà Nẵng

Nguyễn Phúc Ánh, khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long [1802], chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp: “Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu”.

Biết không thể khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết. Tháng 7 năm 1802, cả gia quyến ông bị hành hình, ông bị xử lột da, vợ và con gái ông là Trần Bích Xuân bị voi giày.

Sự hy sinh của ông và gia đình ông thật là thảm khốc, nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi còn được lưu truyền trong trái tim của các thế hệ người Việt Nam.

Lê Khiêm [tổng hợp]

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế,“Trần Quang Diệu [?- Nhâm Tuất 1802]”, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, H.: Văn hóa, 1997, tr.881-882.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Trần Quang Diệu [1760 – 1802] là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã cố sức chiến đấu để bảo vệ vương triều này, nhưng không thành công, và cả hai đều bị vua Gia Long xử tội chết.

Quê quán và họ tên

Trước đây có ba ý kiến khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu:

Sau, nhờ tìm được mộ của mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn [thuộc Ngũ Hành Sơn], cách chân núi khoảng 30 m trong vườn của ông Trần Xê. Ngôi mộ này được lập vào tháng 3 năm Nhâm Tý [1792], thời chính quyền Tây Sơn quản lý đất Quảng Nam. Và qua xác minh nhiều nguồn tư liệu [trong đó có Gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải], đầu năm 1996, Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng đã ra thông báo rằng:

Trần Quang Diệu, vốn có tên Trần Văn Đạt, là người ở làng An Hải [trước thuộc huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam; nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng], là con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy[2].

Sự nghiệp

Gia nhập quân Tây Sơn

Theo lời kể dân gian, Trần Quang Diệu là người rất giỏi võ. Một hôm trên đường từ Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp thủ lĩnh phong trào Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, thì bị cọp dữ tấn công. Chống trả được một hồi, ông Diệu vừa bị thương vừa đuối sức, Bùi Thị Xuân [3] tình cờ đi qua đấy liền xông vào cứu được mạng ông. Ít lâu sau, nhờ Nguyễn Nhạc đứng ra làm chủ hôn, Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trở thành vợ chồng, rồi cùng trải bao gian lao dưới ngọn cờ khởi nghĩa Tây Sơn.

Trong chiến thắng Kỷ Dậu 1789, Trần Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy. Sau trận đại thắng này, ông được cử làm đốc trấn Nghệ An, vừa lãnh nhiệm vụ trấn thủ, vừa lo việc xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô ở đây [4].

Năm 1792, Ai Lao [Lào] thiếu cống, vua Quang Trung bèn phong cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại tổng quản, Lê Trung [có sách chép Lê Văn Trung] làm đại tư lệ cùng xuất quân tiến sang. Vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Quân Tây Sơn tràn vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa...đem về nước[5].

Dưới thời Cảnh Thịnh

Tháng 7 năm Nhâm Tý [1792], vua Quang Trung đột ngột qua đời. Tuân theo di chiếu, Trần Quang Diệu, Bùi Đắc Tuyên và Vũ Văn Dũng cùng tôn phò Nguyễn Quang Toản [10 tuổi] lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh.

Năm 1793, quân chúa Nguyễn kéo ra bao vây thành Quy Nhơn do Nguyễn Nhạc cai quản. Nhận lời cầu cứu, vua Cảnh Thịnh cử Trần Quang Diệu dẫn quân vào đánh giải vây được. Sách Lê Quý dật sử chép:

Nguyễn Nhạc mở cửa thành đón tiếp quan quân, phát tiền bạc, quần áo, lương thực. Tướng sĩ của Quang Diệu cậy công lấn bức, vô lễ. Không bao lâu, Nguyễn Nhạc ôm hận uống thuốc độc chết [6]. Quang Diệu nhân đó tịch thu vàng bạc trong kho và voi ngự dâng nộp. Quang Toản sai tướng chia quân chiếm cứ thành Quy Nhơn[7].

Năm 1795, Trần Quang Diệu một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn và Phạm Công Hưng lập mưu giết tướng Ngô Văn Sở và cha con thái sư Bùi Đắc Tuyên. Hay tin, Trần Quang Diệu vội thu quân về triều, đóng quân ở mạn Nam sông Hương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Vua Cảnh Thịnh phải cho người ra khuyên giải, mâu thuẫn giữa hai đại tướng mới được thu xếp ổn thỏa. Kể từ đó, Trần Quang Diệu làm thái phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ và Nguyễn Văn Danh [hay là Nguyễn Văn Tứ] làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần[8].

Nhưng chẳng lâu sau, vua Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha rút hết binh quyền của thái phó Quang Diệu. Thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, năm 1799, chúa Nguyễn bèn cử đại binh ra đánh, đến tháng 5 [âm lịch] thì bao vây thành Quy Nhơn. Khi ấy, Trần Quang Diệu mới được giao lại binh quyền để cùng Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu. Theo Việt Nam sử lược thì quân của Vũ Văn Dũng không đánh mà tan. Việc ấy là tội của tướng chỉ huy, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi. Cảm ơn ấy, Vũ Văn Dũng kết nghĩa sinh tử với Trần Quang Diệu. Bấy giờ, có mấy người ganh ghét muốn nhân dịp này mà đổ tội cho ông bèn tâu với nhà vua. Vua Cảnh Thịnh liền sai người đem mật thư ra bảo Văn Dũng hãy diệt trừ Quang Diệu. Được Vũ Văn Dũng cho xem thư, thái phó Diệu tức tốc dẫn quân về triều, nói là để bắt quân phản loạn. Cuối cùng, vua Cảnh Thịnh phải bắt mấy mật tấu giao cho ông, việc mới yên.

Dẫn quân trở lại Quy Nhơn, đến tháng Giêng năm Canh Thân [1800], thì Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cùng tấn công thành. Tướng Nguyễn là Võ Tánh giữ vững không ra đánh. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chia quân vây bốn mặt; Vũ Văn Dũng đem thủy quân ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt pháo để cản ngăn quân cứu viện. Được tin thành Quy Nhơn bị vây, chúa Nguyễn cử đại quân ra cứu Quy Nhơn, các tướng Nguyễn phá tan thủy quân Tây Sơn ở Trận Thị Nại. Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại lên bộ hợp quân với Trần Quang Diệu. Quân Tây Sơn vây thành càng ngặt[9].

Nhận thấy hai tướng giỏi nhất và tinh binh Tây Sơn tập trung cả ở Quy Nhơn, Võ Tánh viết thư khuyên chúa Nguyễn đừng vội lo giải vây, mà hãy ra đánh Phú Xuân trước. Nguyễn Phúc Ánh nghe theo, đến tháng 5 [âm lịch] năm 1801, thủy quân Nguyễn ra đánh chiếm được Phú Xuân [10]. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe tin nơi ấy thất thủ, sai tướng đem quân về cứu, nhưng đến Quảng Nam thì bị chặn lại phải quay về. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng càng dốc quân đánh thành Quy Nhơn. Trong thành hết lương thực, Võ Tánh đưa thư cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại"[11]. Sau đó, Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu Bát Giác tự thiêu, hiệp trấn Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng cho hai người tử tế, và tha cho tướng sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng đều thất bại.

Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch, khó bề chống giữ. Tháng 3 âm lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân đã thua trận ởTrấn Ninh [tháng Giêng năm 1802], Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì nghe thành Nghệ An đã thất thủ, Trần Quang Diệu và vợ con bèn về huyện Thanh Chương. Lúc này, tướng sĩ đi theo dần rời bỏ, trốn được mấy hôm thì cả nhà ông đều bị quân đối phương bắt sống.

Thờ

Tượng thờ thái phó Trần Quang Diệu trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt [Bảo tàng Quang Trung, Bình Định]

Bị xử chết

Nguyễn Phúc Ánh, khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long [1802], chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:

Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu.[12].

Biết không thể khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết. Về cái chết của ông, có ba thông tin:

  • Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, cho rằng vì ông thờ mẹ già 80 tuổi có hiếu nên vua Gia Long chỉ ra lệnh chém đầu, chứ không hành hình như một số người khác [13].
  • GS. Nguyễn Khắc Thuần, cho rằng ông bị xử lột da sống. Thông tin này được nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận, trong đó có: Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Quách Tấn, Trần Xuân Sinh [14].
  • Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Thông tin này lấy trong sách Lịch sử nội chiến 1771-1802của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường[15].

Video liên quan

Chủ Đề