Trọng thương có nghĩa là gì

Lý thuyết đầu tiên giải thích về thương mại quốc tế là nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương, khởi đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 16. Nội dung cơ bản nhất của chủ nghĩa này khẳng định rằng vàng và bạc là phương tiện chính đánh giá sự giàu có của quốc gia và giữ vai trò trọng yếu giúp cho hoạt động buôn bán giữa các nước trở nên sôi động. Vào thời kỳ đó, vàng và bạc là tiền tệ trong trao đổi thương mại giữa các quốc gia; một quốc gia có thể thu được vàng và bạc về nhờ việc xuất khẩu hàng hóa. Ngược lại, nhập khẩu hàng hóa từ các nước khác sẽ khiến cho các kim loại quý này rời khỏi quốc gia đó. Do vậy, tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương cho rằng cần phải duy trì trạng thái thặng dư thương mại, tức là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu để mang lại lợi ích tốt nhất cho một nước. Khi một nước tích lũy được nhiều vàng bạc thì sự giàu có, uy tín, và quyền lực của nước đó cũng sẽ tăng lên. Thomas Mun, một tác giả theo tư tưởng trọng thương người Anh đã viết năm 1630: Phương tiện phổ dụng từ đó làm tăng sự giàu có và ngân khố của chúng ta chính là hoạt động ngoại thương, trong đó ta phải luôn tuân theo nguyên tắc: hàng năm bán cho những người bên ngoài một lượng giá trị nhiều hơn những gì chúng ta tiêu dùng của họ.

Nhất quán với tư tưởng này, chủ nghĩa trọng thương ủng hộ sự can thiệp của chính phủ nhằm đạt được thặng dư trong cán cân thương mại. Các nhà trọng thương không cho rằng kim ngạch thương mại lớn là một  ưu điểm mà họ đề xuất các chính sách nhằm tối đa hóa xuất khẩu và tổi thiểu hóa nhập khẩu. Để đạt được điều này, nhập khẩu phải được hạn chế bởi các biện pháp như thuế quan và hạn ngạch, trong khi xuất khẩu sẽ được trợ cấp.

Nhà kinh tế học cổ điển David Hume [người Xcốt-len] đã chỉ ra một sự thiếu nhất quán cố hữu trong học thuyết trọng thương vào năm 1752. Ông đưa ra lập luận bằng ví dụ quan hệ buôn bán giữa hai nước Anh và Pháp. Giả sử Anh có cán cân thương mại thặng dự trong buôn bán với Pháp [do xuất khẩu sang Pháp nhiều hơn nhập khẩu từ Pháp], và theo đó là một lượng vàng bạc sẽ di chuyển vào nước Anh. Điều này khiến cho lượng cung tiền trong nước ở Anh sẽ tăng mạnh và gây ra lạm phát ở nước này. Tuy nhiên, tại Pháp, dòng vàng bạc chảy ra ngoài đất nước sẽ gây tác động ngược lại. Lượng cung tiền tại Pháp sẽ giảm xuống, và giá cả tại nước này cũng sẽ giảm theo. Sự thay đổi này trong mối tương quan giữa giá cả tại Anh và giá cả tại Pháp sẽ khuyến khích người dân Pháp mua ít hàng hóa của Anh hơn [bởi vì đã trở nên đắt đỏ hơn] còn người dân Anh sẽ mua nhiều hàng hóa của Pháp hơn [vì trở nên rẻ hơn]. Kết quả dẫn đến cán cân thương mại của Anh sẽ bị xấu đi còn cán cân thương mại của Pháp sẽ được cải thiện. Hiện tượng này sẽ diễn ra cho đến khi nào thặng dư thương mại của Anh không còn nữa. Như vậy, theo Hume, trong dài hạn không quốc gia nào có thể duy trì được thặng dư trong cán cân thương mại và do vậy vàng bạc cũng không thể tích lũy mãi như các nhà trọng thương đã dự tính.

Nhược điểm của chủ nghĩa trọng thương là đã nhìn nhận thương mại như một trò chơi có tổng bằng  không [zero-sum game – nghĩa là lợi ích mà một nước thu được chính bằng thiệt hại mà nước khác mất đi.]  Hạn chế này đã được các lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo ra đời sau đó chỉ rõ và khẳng định thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là số dương [positive-sum game –tất cả các nước đều thu được lợi ích.] Đáng tiếc là tư tưởng của thuyết trọng thương không hề bị mất đi. Các nhà trọng thương mới [neo-mercantilists] cân bằng sức mạnh chính trị với sức mạnh kinh tế và sức mạnh kinh tế với thặng dư trong cán cân thương mại. Những nhà phê bình lập luận rằng nhiều nước đã áp dụng chiến lược trọng thương mới được đưa ra để đồng thời nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ví dụ, những người chỉ trích cho rằng Trung Quốc theo đuổi chính sách trọng thương mới bằng cách giữ giá trị đồng Nhân dân tệ của họ ở mức giá thấp so với đồng Đôla Hoa Kỳ một cách có chủ đích nhằm bán được nhiều hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ hơn, và do đó tích lũy được một lượng lớn thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối khổng lồ.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • chủ nghĩa trong thương
  • biện pháp làm tăng của cải trong chủ nghĩa trọng thương
  • vì dào nhiều tư tưởng trọng thương là sai lầm
  • ví dụ về chủ nghĩa trọng thương
  • ,

    Chủ nghĩa trọng thương, hay hệ thống trọng thương, là một hệ thống kinh tế chính trị, theo đó các quốc gia hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Cơ sở lý luận là cân bằng ngoại thương theo cách có thể tăng doanh thu mà không ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm trong nước.

    Hệ thống trọng thương là tiêu chuẩn của các quốc gia Tây Âu giữa thế kỷ 16 và cuối thế kỷ 18.

    Một trong những mục tiêu chính của nó là thuộc địa hóa các nước bên ngoài các trung tâm quyền lực của Châu Âu. Điều này quan trọng như một phương tiện để mở rộng phạm vi thương mại và thiết lập hệ thống tiền tệ tiêu chuẩn hóa dựa trên vàng và bạc.

    Chủ nghĩa trọng thương đã làm nảy sinh nhiều cuộc xung đột quân sự bạo lực liên quan đến lãnh thổ. Mục tiêu của mỗi quốc gia là trở thành cung cấp tài chính cho một quân đội vượt trội, cho cả việc phòng thủ và mở rộng thuộc địa.

    Đối với các nước Tây Âu và đặc biệt là đối với Vương quốc Anh, thời kỳ trọng thương là một trong những thời kỳ phát triển kinh tế tuyệt vời.

    Mặc dù vậy, Adam Smith đã lập luận trong "Sự giàu có của các quốc gia" rằng chủ nghĩa trọng thương đã bỏ qua phúc lợi của dân chúng nói chung, trong khi lấy lợi ích cho các tầng lớp chính trị và thương mại. Lập luận của ông ủng hộ thị trường tự do.

    Nước Anh dần dần tuân theo quan điểm của Smith, bãi bỏ tất cả các quy định về thương mại và thuế quan vào năm 1860. Kết quả là, Vương quốc Anh trở thành nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, được hỗ trợ bởi nền nông nghiệp mở rộng của các thuộc địa Mỹ.

    Tác giả: Nguyễn Thị Tâm

    Bài liên quan: Của cải và quyền lực: Chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa dân tộc kinh tế

    Chủ nghĩa trọng thương [mercantilism] thường được xem như là một trong ba cách tiếp cận lý thuyết chính của chuyên ngành kinh tế chính trị quốc tế. Cách tiếp cận đầu tiên là chủ nghĩa tự do, vốn là cách tiếp cận ủng hộ cho tự do thương mại và việc nhà nước hạn chế can thiệp đến mức tối đa vào nền kinh tế quốc nội và quốc tế. Cách tiếp cận thứ hai cố gắng tìm hiểu hoạt động của hệ thống tư bản toàn cầu nhằm chứng minh bản chất mang tính bóc lột tự nhiên của hệ thống này. Cách tiếp cận này thể hiện dưới những tên gọi lý thuyết khác nhau, tuy nhiên tất cả đều kế thừa từ chủ nghĩa Marx. Tiêu biểu trong số đó là lý thuyết hệ thống thế giới [world system theory], với đại diện nổi bật nhất là Immanuel Wallerstein.

    Cách tiếp cận thứ ba là chủ nghĩa trọng thương, đôi khi được nhắc đến bằng tên gọi chủ nghĩa dân tộc kinh tế. Chủ nghĩa trọng thương ra đời sớm nhất trong ba loại tiếp cận trên và là học thuyết kinh tế thống trị ở các nước Châu Âu từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 17, khi hệ thống các quốc gia-dân tộc hiện đại bắt đầu hình thành ở đây. Kể từ đó, lý thuyết trọng thương đã trải qua nhiều loại hình thể hiện khác nhau và tiếp tục là một học thuyết kinh tế quan trọng trong kinh tế chính trị quốc tế và có tác động lớn đến việc hoạch định chính sách của nhiều quốc gia.

    Suy cho cùng, chủ nghĩa trọng thương tin rằng nhà nước cần phải quản lý điều hành nền kinh tế nhằm đạt được lợi ích quốc gia, được thể hiện qua sự giàu có, quyền lực, và danh tiếng. Chủ nghĩa trọng thương không quan tâm đến việc cải thiện cuộc sống của con người hay thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong hệ thống thế giới. Mục tiêu hàng đầu của cách tiếp cận này là tối đa hóa an ninh quốc gia và quyền lực, đồng thời xem hoạt động kinh tế như là một phương tiện để đạt được những mục đích này.

    Nhằm tăng cường quyền lực và nầng cao sức mạnh quốc gia thông qua hoạt động kinh tế, các quốc gia theo chủ nghĩa trọng thương thường theo đuổi hai chính sách chủ chốt. Thứ nhất, các quốc gia này định hướng nền kinh tế nội địa để tạo ra thặng dư thương mại. Nói cách khác, mục tiêu của họ là tăng cường xuất khẩu trong khi hạn chế nhập khẩu. Điều này dẫn tới các chính sách mang tính chất bảo hộ nền kinh tế trong nước chủ yếu thông qua hàng rào thuế quan. Khoản thặng dư thương mại thu được có thể giúp các quốc gia này nâng cao sức mạnh bằng cách xây dựng quân đội, mua sắm vũ khí…, qua đó củng cố an ninh quốc gia và nâng cao vị thế quốc tế.

    Thứ hai, họ sẽ định hướng các nghành công nghiệp theo hướng sản xuất các hàng hóa có giá trị thặng dư cao từ những nguyên liệu thô được nhập khẩu với giá rẻ. Vì vậy, các nước theo chính sách trọng thương thường có xu hướng không khuyến khích sản xuất nông nghiệp mà quan tâm hơn đến sản xuất công nghiệp, áp đặt những khoản thuế cao đối với những hàng hóa được nhập khẩu, và cung cấp những khoản trợ cấp cho các ngành công nghiệp trong nước. Các nước này cũng thường theo đuổi những chính sách làm lợi cho quốc gia mình nhưng lại gây hại cho quốc gia khác. Vì vậy, có thể nói các quốc gia theo chủ nghĩa trọng thương nhìn chung là những quốc gia có mức độ can thiệp sâu vào nền kinh tế.

    Trên lý thuyết, cũng gần như trong thực tế, chủ nghĩa trọng thương bắt đầu bị giảm vai trò từ cuối thế kỷ thứ 18. Một lý do là sự xuất bản tác phẩm kinh điển Sự giàu có của Quốc gia [Wealth of Nations] của Adam Smith [1776]. Tư tưởng tự do kinh tế mà Adam Smith ủng hộ đã dẫn tới những lập luận cho rằng chủ nghĩa trọng thương là sai lầm. Trong những chỉ trích đối với chủ nghĩa trọng thương, Smith cho rằng việc một quốc gia cố gắng sản xuất một sản phẩm vốn có thể được sản xuất một cách rẻ hơn ở các nước khác là một hành vi không năng suất. Lập luận này trở thành cơ sở cho lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, nền tảng về lý thuyết cho chính sách tự do thương mại.

    Ngày nay, bất chấp làn sóng toàn cầu hóa và sự mở rộng tự do thương mại trên phạm vi toàn cầu, chủ nghĩa trọng thương vẫn không hề biến mất. Khi các quy định về tự do thương mại buộc các quốc gia phải hạ bớt hoặc phá bỏ hàng rào thuế quan, những biện pháp bảo hộ của chủ nghĩa trọng thương cổ điển, các quốc gia quay sang áp dụng các chính sách được gọi là “chủ nghĩa trọng thương mới”. Theo đó, nhằm hạn chế nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu, thay vì áp dụng các biện pháp thuế quan, các quốc gia áp dụng các biện pháp mới như hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, hay hàng rào kỹ thuật. Chính vì vậy, có thể nói những chính sách mang tính bảo hộ của chủ nghĩa trọng thương vẫn tiếp tục tồn tại và là một phần không thể thiếu trong chính sách kinh tế của nhiều quốc gia ngày nay.

    Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp [chủ biên], Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, [TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013].

    Video liên quan

    Chủ Đề