Ví dụ quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này. phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đôi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

a] Khái niệm chất, lượng

- Khái niệm chất

 Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng. Như vậy, tạo thành chất của sự vật, hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tuợng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản cua sự vật, hiện tượng phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.

Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà còn nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, hiện tượng, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó .

 - Khải niệm lượng Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện tượng đó.

Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.

b] Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về ehất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.

Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.

Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, V.V..

Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận. thể hiện cách thức vận động và phát triển cùa sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất".

Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

c] Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.

-  Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại. Do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất: đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.

-  Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù luợng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng.

-   Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.

Loigiaihay.com

Nguồn: //theza2.mobie.in - ThezaTiểu luận:Vận dụng nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổivề chất và ngược lại trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam.==================================================================Mở đầu1.Lý do chọn đề tàiTrong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người dầndần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ đóhình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm“quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, hiện tượngvà tính chỉnh thể của chúng. Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy conngười đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luậtmà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế. Quy luật “chuyển hóa từ những sự thayđổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật củaphép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển. Việcnhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật,hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này dễ dẫn đến hiện tượng “tả khuynh”hoặc “hữu khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn sớm cósự thay đổi về lượng nhưng lại không tính đến việc tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là tưtưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện “bước nhảy” [sự thay đổi về chất] khi đã có sựtích lũy đủ về lượng.Ở bài tiếu luận này tôi sẽ phân tích đề tài “Vận dụng nội dung quy luật chuyển hóa từnhững sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại trong hoạt động thựctiễn ở Việt Nam” để có thể hiểu rõ hơn về sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiệntượng2.Tổng quan đề tàiQuy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lạilà một đề tài hay và mang tính cấp thiết hiện nay. Đã có rất nhiều những bài bái, trang thôngtin, thậm chí là các bài luận nói tới vấn đề này. Hầu hết đều được phân tích rất cụ thể và chitiết. Song việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn ở Việt Nam thì vẫn chưa được đivào tìm hiểu nhiều.3.Mục đích nghiên cứu đề tàiNghiên cứu một cách hệ thống vấn đề biến đổi lượng-chất. Đánh giá tình đất nước hiệnnay và vận dụng quy luật trên vào thực tiễn Việt Nam.Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ:+Phân tích về quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chấtvà ngược lại+Đánh giá tình hình Việt Nam, đưa ra các biện pháp vận dụng quy luật biến đổi trên vào cáchoạt động thực tiễn.4.Phạm vi nghiên cứu:Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần nào nội dung vàý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được những bài học bổ ích trong học tậpvà cuộc sống. Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua việc làm sáng tỏ ba ví dụ cụa thể trongthực tế, chúng tôi mong muốn có thể cung cấp cho người đọc cách nhìn nhận dễ dàng vàchân thực nhất về quy luật này.5.Phương pháp nghiên cứuNhững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, củaĐảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọngphương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát vàtổng kết thực tiễn,...6.Đóng góp của tiểu luậnGóp phần làm hiểu sâu và rõ hơn sự biến đổi và phát triển của mọi sự vật hiện tượng từquy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại.Qua đó vận dụng nó vào các hoạt động thực tiễn ở Việt Nam.7.Kết cấu bài tiểu luậnBài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về vấn đề biến đổilượng và chất, mối liên hệ tới các hoạt động thực tiễn hiện nay.Chương IQuy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thayđổi về chất và ngược lại1.Các khái niệm1.1.Khái niệm về chấtChất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựvật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấuthành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sựvật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốncó, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, nhữngtrạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khisự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thôngqua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất củasự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặtchẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vậtkhông có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểuhiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũngbiểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tínhkhông cơ bản.Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúngquy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thayđổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉbộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Sự phân chia thuộc tính thànhthuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùytheo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất của nhữngyếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩalà bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tốnhư nhau, song chất của chúng lại khác nhau.Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩatương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vậtkhông tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định vềchất của nó. Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợptương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vậtnày không hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắnliền với lượng của sự vật.1.2. Khái niệm về lượngLượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặtsố lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như cácthuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thànhnó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượngcủa sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểuthị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ caohay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…“Những lượng không tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật có vôvàn lượng mới tồn tại”Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đolượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phântử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnhđó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trìnhđộ nhận thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một côngdân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng củasự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật [số lượng nguyên tửhợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội] cónhững lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật [chiều dài, chiều rộng,chiều cao của sự vật]. Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số vềlượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi củasự vật, đó là mặt không ổn định của sự vật.1.3.Khái niệm về độĐộ là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã làmthay đổi căn bản chất của sự vật.1.4.Khái niệm nútĐiểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sù thay đổi vềlượng lam thay đổi căn bản về chất của sự vật.1.5.Khái niệm bước nhảyNhảy vọt là phạm trù triết học dùng để chi sù chuyển hoá sự vật do sù thay đổi vềlượng của sự vật vượt quá độ tới điểm nút gây ra._ Các hình thức bước nhảy:+ Bước nhảy đốt biến : là bước nhảy được thực hiện trong mét thời gian rất ngắnlàm thay đổi về chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.+ Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện từ từ , từng bước bằng cáchtích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dầnmất di.+ Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếutố cấu thành sự vật.+ Bước nhảy cục bộ: là bươc nhảy lam thay đổi chất của những mặt , những yếu tốriêng lẻ của sự vật.2. Nội dung quy luật2.1.Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất2.1.1.Từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chấtTrong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ định, cònlượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắtđầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũngdẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượngcũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay đổichậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định [độ] thì mới dẫnđến sự thay đổi về chất, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thếnó.Tại thời điểm lượng đạt đến một giới hạn nhất định để vật thay đổi về chất gọi làđiểm nút. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổivề lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ: 0c, 100c là điểm nút, tạinhững điểm nút đó nước từ thể lỏng chuyển sang thể rắn và thể hơi [thay đổi vềchất].Khi có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúcmột giai đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn trong liên tục, nó không chấm dứtsự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng vận động cụ thể, tạo ra một bướcngoặt mới cho sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng trong một độ mới.Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hoá về chất củasự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Nhữnghình thức bước nhảy khác nhau được quyết định bởi bản thân của sự vật, bởinhững điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ, cóbước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộcác mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổichất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.2.1.2.Chất mới ra đời quyết định lượng mớiChất mới ra đời quy định lượng mới nó thể hiện ở quy mô mới, mức độ, nhịpđiệu mới của sự vật.Những chất mới lại tiếp tục biến đổi đến một mức độ nào đó phá vỡ chất cũ chấtmới lại được hình thành.Quá trình đó lặp đi lặp lại không ngừng tạo nên cách thức, cơ chế, hình thái củasự phát triển làm rõ sự thay đổi dần dần về lượng dẫn đến thay đổi về chất vàngược lại.Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từnhững thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quátrình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọttrong sự vận động, phát triển.2.1.3.Tác động ngượcSự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổiluôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác độngcủa chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thếchất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khichất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối vớilượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để cósự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quymô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.2.2.Ý nghĩa phương pháp luận- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi vềlượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chínmuồi.- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biếnđổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.- Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểmnút nhưng không thực hiện bước nhảy.- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thứcbước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy đượcthực hiện một cách kịp thời.- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điềukiện chin muồi.Chương IIVận dụng quy luật trên vào hoạt động thực tiễn ở Việt NamChúng ta sẽ xem xét việc nhận thức và vận dụng nội dung quy luật này trong thựctiễn của đất nước ta qua hai khía cạnh đó là:1. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước taỞ nước ta, lịch sử đã đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độtư bản chủ nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa yêu nước truyềnthống Việt Nam bắt gặp con đường Cách mạng tháng Mười Nga, hoà nhập vào xuhướng tiến hoá chung của nhân loại: quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tưbản chủ nghĩa. Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng Và nhất là từ khi tiếp cận với bảnSơ thảo luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã điđến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác conđường cách mạng vô sản; rằng chỉ có chủnghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức vànhững người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Để có một bước nhảy cách mạngđó đưa đất nước Việt Nam sang một chế độ khác [ “chất” khác] là đất nước xã hộichủ nghĩa, cương lĩnh đầu tiên [1930] của Đảng ta cũng đã khẳng định : Sau khihoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xãhội. Đó là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiếttha ngàn đời của dân tộc, phản ánh đáng xu thế của thời đại, phù hơp với quanđiểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.Cả một quá trình tích luỹ về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mớiđược tạo nên nhưng đồng thời nó lại tạo nên lượng mới. Chúng ta cứ tưởng rằngsau khi chiến thắng đế quốc Mỹ thì chúng ta sẽ có một nước xã hội chủ nghĩa đíchthực; thắng đé quốc, thực dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu cũng chỉ là vấn đềthời gian; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua giaiđoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nhận thức đó của chúng ta về sự pháttriển qúa độ lên chủ nghĩa xã hội là ấu trĩ, sai lạc và duy ý chí. Vấn đề đặt ra làchúng ta phải hiểu lượng mới ở đây là chúng ta cần phải có một thời kỳ quá độ lênxã hội chủ nghĩa chính trong thời kỳ này chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển vềmọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Chính vì nhận thức được điều đó Đảng tađã có chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo rasự biết đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,phứctạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiềuhình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đờisống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.Với tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhưng không làm thay đổi mục tiêu xãhội chủ nghĩa mà trái lại, làm cho mục tiêu đó thực hiện một cách có kết quả hơntrên cơ sở nhân thức đúng về chủ nghĩa xã hội, đề ra những hình thức và bước đithích hợp, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển, chúng tacần chủ động khắc phục những cách hiểu sai, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêuhình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật. Trên cơ sở quan niệm đúng vềchủ nghĩa xã hội, với tinh thân phê phán cách mạng, với sự kiên định mục tiêu lýtưởng và một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đẩm đà bản sắc dân tộc, turong laitươi sáng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ, văn minh đã và sẽ từng bước được thực hiện hớ một cách sinh độngtrên đất nước ta.2. Về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước taBên cạnh việc nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nướcta một cách đúng đắn cũng là việc nhận thức thấu đáo về sự phát triển đất nướcnên nước ta trong năm qua đã có những đổi mới và phát triển rõ rệt.Giữa thập niên bảy mươi, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiếntranh kéo dài tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chứclại sản xuất và mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình chủ nghĩa xa hội củaLiên Xô, với hy vọng nhanh chóng vó nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã bộc lộtư tưởng chủ quan, nóng vộ, duy ý chí cả về trong lý luận lẫn trong chỉ đạo thực tiễn.Điều đó đã làm cho các mục tiêu của Đại Hội IV của Đảng đề ra đề ra đều khôngđạt. Và tiếp đó Đại Hội V đề ra những chủ trương lớn: tập trung phát triển nôngnghiệp, nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu; ra sức đẩy mạnh sản xuất tiêudùng; tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng... Tuy vậy, ĐạiHội V vẫn tiếp tụcđường lối do Đại Hội TV đã vạch ra, không phản ánh được đầy đủtạo nên sự thay đổi. Điều đó làm cho tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam vàonhững thập niên 80 dường như càng lao nhanh vào khủng hoảng. Từ đầu năm 1985đến cuối năm 1986, tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Sản xuất nông nghiệp vẫntiếp tục trì trệ, lương thực không đủ dùng. Các xí nghiệp luông trong tình trạng “ lãigiả lỗ thật “. Nhà nước bao cấp tràn lan. Lưu thông, phân phối ách tắc. Đời sốngnhân dân khó khăn đến cùng cực. Tiêu cực xã hội có điều kiện sinh sôi, nẩy nở.Nhan dan bất bình; họ cảm thấy không htể tiếp tục sống như cũ được nữa. Đảng vàNhà nước cũng thấy không thể duy trì những chính sách và cơ chế cũ. Khủng hoảngkinh tế xã hội đã đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là điểm nút của sự biến đổivề “chất” [kinh tế xã hôị] sau một quá trình dài thay đổi và tích luỹ đủ về “lượng”. Vàbước nhảy của sự biến đổi này được tạo nên do sự sáng tạo và nhận thức đúng đắncủa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khi thực hiện công cuộc đổi mới. Việc đó đượcnêu rõ trong Đại Hội VI tháng 12 năm 1986 đó là : chuyển đổi nền kinh tế của nướcta từ mô hình kế hoạch hoá tâpọ trung, quan liêu, bao cấp, dựa trên ché độ cônghữu về tư liệu sản xuất Sang nền kinh tế thị trường cóSự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Đổi mới là đường lối sáng tạo độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt Nam, phù hợpvới hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc Việt Nam. Và cũng vì nhận thức đúng đắnviệc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hộisẽ mang lại bước nhảy về chất trong các phạm vi tương ứng đó. Việc thực hiệnthành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo rabước nhảy về chất của toàn bộ xã hội ta nói chung. Cũng như trong bất kỳ một sựthay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trinh đổi mới cũng chỉ có thểlà quá trình thay đổi về lượng thích hợp nên Đảng, Nhà nứoc và nhân dân ta đã nămbắt được những thách thức trong công cuộc đổi mới này để từ đó đã có những bứocđi đúng đắn thể hiện qua việc thực hiện các chỉ tiêu của các kỳ Đại Hội VII, VII, DX.Công cuộc 15 năm đổi mới của đấtnước ta qua đã tạo được những thành tựu to lớn:Kinh tế tăng trưởng khá, GDP tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệpphát triển mạnh, giá trị sản lượng công nghiệp bình quân hàng năm 13,5%. Hệthống kết cấu hạ tầng, bưu chính viễn thông, đường sá... được tăng cường. Cácnganh dịch vụ và xuất khẩu đều phát triển.Văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cảithiện.Tình hình kinh tế chính trị xã hội cơ bản ổn định; quốc phong an ninhđược tăng cường.Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị đượccủng cố...Với những thành tựu đạt đựơc nước ta sẽ có những tiền đề để bứoc vào giaiđoạn mới đó là giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đắt nước, xâydựng nên kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưutiên phát triển lực lượng sản xuât, đồng thởi xây dựng quan hệ sản xuất phù hợptheo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủnguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, cóhiệu quả và bề vững, tăng trưởng kinh tê đi liến với phát triển văn hoá, từng bướccải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến độ và cбng bắng xã hội,bảo vệ và cảithiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cuờng quốc phòng anninh.3. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứuQua những thức tế chứng minh chúng ta dễ dàng thấy rằng việc nhận thứcđược mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất sẽmang lại cho chúng ta ý nghĩa phương pháp luận quan trọng mà việc Vân dụngchúng sẽ cho phép chúng ta nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhậnthức cũng như thực tiễn.Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi vè chất có mối quan hệ biện chứng vớinhau, nen trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên sự hiểu biết về mối quan hệ đó;phải dưa trên viẹc hiểu đúng đắn vị tré, vai trò và ý nghĩa cảu mỗi loại thay đổi nóitrên trong sự phát triển xã hội; phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượngthành thay những thay đổi về chất, từ những thay đổi thay đổi mang tính tiến hoásang mang tính cách mạng. Xem xét tiến hoá và cácnh mạng trong mối quan hệbiện chứng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựngchiến lược và sách lược của Đảng nhằm cải tạo xã hội bằng cách mạng. Hiểu đúngđắn mối quan hệ đó là tạo cơ sở chống lại chủ nghĩa cảilương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủnghĩa vô chính phủ tả khuynh.Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa nhữngthay đổi về chất và những thay đổi về lượng cũng như những ý nghĩa phương phápluân của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề đặt ra docông cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội hiện nay của nướcta.Kết LuậnNhận thức là cả một quá trình, thông qua hoạt động thực tiễn, những yêu cầu và đòihỏi của cuộc sống nảy sinh và cùng với đó những phương thức giải quyết cũng sẽ xuấthiện. Việc nhận thức và vận dụng nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sựthay đổi về chất và ngược lại cũng như vậy. Từ những nhận thức về quy luật trên, chúng taphải biết vận dụng nó một cách sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nướcta thì lúc đó chúng ta mới nắm bắt được sự chuyển hoá của một sự vật hay một hiện tượngtrong sự phát triển của nó một cách rõ ràng và triệt để.Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng điều đó cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dântộc, xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc trong những thập kỉ qua đã tạo lên những thànhtựu to lớn. Chính vì vậy chúng ta càng thơngrằng những quan điểm cách mạng và khoa họccủa Mác - Lênin luôn là những tư tưởng đúng đắn để chúng ta vận dụng cho sự phát triểncủa đát nước. Đặc biệt, đó là quy luât về mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về chấtvà giữa sự thay đổi về lượng, đó là những sự chuyển hoá tạo sự nên phát triển của sự vậthay hiện tượng .Trong những năm đổi mới, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễnĐảng ta đã vận dụng tổng hợp tất cả các quy luật một cách đầy đủ, sâu sắc,năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc đưa đất nướcthoát khỏi khủng hoảng kinh tế, củng cố địa vị trên trường quốc tế và bước đầuđã gặt hái được những thành quả đáng mừng như: gia nhập phiên chợ toàn cầuWTO, Thành viên không thường trực Đại hội đồng Liêp hợp quốc... và phấn đấuđến năm 2020 nước ta sẽ cơ bản là một nước công nghiệp.Đất nước có nở hoa hay không là do tay tôi, tay bạn vun trồng. "Đừng hỏiTốc quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay".Danh mục tài liệu tham khảo1. Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩaMac-Lenin, NXB. CTQG. Hà Nội, 20092. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin,NXB.CTQG, Hà Nội. 2002-20073. //vi.wikipedia.org

Video liên quan

Chủ Đề