Ý nghĩa nghiên cứu của tâm lý y học

Tâm lý học, cũng có thể được viết bằng tâm lý học, là một nhánh của tâm lý học được áp dụng cho sư phạm.

Nó liên quan đến việc xác định và nghiên cứu hành vi của con người và các hiện tượng tâm lý xảy ra trong quá trình học, với mục đích phát hiện các vấn đề có thể xảy ra để thu nhận kiến ​​thức, có thể là nhận thức, nhận thức, môi trường hoặc thậm chí tâm lý.

Các mục tiêu của tâm lý giáo dục bao gồm:

  • Xác định các vấn đề học tập ở trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn; Trao quyền và phục hồi các cá nhân có vấn đề về học tập, thúc đẩy họ thông qua các phương pháp tạo thuận lợi cho quá trình học tập của họ; Ngăn chặn những khó khăn trong học tập bằng cách phát triển ở mọi người những năng lực nhận thức, cảm xúc và xã hội can thiệp vào. các quá trình thu nhận kiến ​​thức; Xác định các khả năng học tập thực sự của cá nhân; Giáo viên và phụ huynh Phương Đông về cách thuận tiện nhất để giáo dục trẻ em hoặc thanh thiếu niên trong độ tuổi giáo dục.

Theo nghĩa này, chúng ta có thể khẳng định rằng mục tiêu cơ bản của tâm lý học là cải thiện phương pháp giáo khoa và phương pháp sư phạm được sử dụng cho việc giáo dục con người.

Bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ 20, tâm lý học đã phát triển như một môn khoa học, đặc biệt là nhờ sự đóng góp của nhà tâm lý học và nhà nhận thức học người Thụy Sĩ Jean Piaget. Nó có một cách tiếp cận liên ngành, chủ yếu kết hợp kiến ​​thức từ lĩnh vực giáo dục (sư phạm, didactics) và tâm lý học (nhận thức, văn hóa xã hội, nhân văn, học tập, v.v.).

Xem thêm:

  • Mô hình nhận thức Mô hình xã hội văn hóa Mô hình nhân văn

Các chuyên gia của ngành tâm thần học là những chuyên gia tâm lý, người chịu trách nhiệm nghiên cứu, ngăn ngừa và sửa chữa những khó khăn mà một cá nhân có thể gặp phải trong quá trình học tập.

TÂM LÝ HỌC Y HỌCTÂM LÝ HỌC Y HỌCTác giả: PTS. Nguyễn Văn NhậnPGS. PTS. Nguyễn Bá DươngCN-TL Nguyễn Sinh PhúcLỜI NÓI ĐẦUChăm lo sức khoẻ con người là chăm lo cả sức khoẻ thể chất và sứckhoẻ tinh thần. Đây là công việc vẻ vang nhưng rất nặng nề và phức tạp, đòihỏi phải sử dụng những thành tựu tiên tiến của rất nhiều ngành khoa họckhác nhau, trước hết là của y học và tâm lý học.Ngày nay, y học và tâm lý học đang phát triển rất mạnh mẽ. Sự pháttriển của y học diễn ra theo hai khuynh hướng cơ bản: Một mặt đi sâu giảiquyết những vấn đề bệnh căn, bệnh sinh của bệnh: Và một mặt khác, tiếnhành điều trị, nâng cao sức khoẻ người bệnh một cách toàn diện. Sự pháttriển của tâm lý học cũng diễn ra trên hai bình diện: Một mặt tiếp tục phát triểnvề lý luận các hiện tượng tâm lý; Và một mặt khác, đi vào giải quyết nhữngvấn đề hoạt động thực tế của con ngươi, như tâm lý học trong thể thao, tâm lýhọc trong lao động, trong hôn nhân và gia đình… Một trong những sản phẩmchung của sự phát triển y học và tâm lý học là xuất hiện một môn khoa họcliên ngành - Tâm lý học y học.Trong cuốn sách này, chúng tôi muốn đề cập một cách đầy đủ, sâu sắcnhững vấn đề hết sức cơ bản của Tâm lý học y học ở nước ta, như tâm lýcon người khi bị bệnh, tâm lý thầy thuốc trong quá trình khám bệnh và chữabệnh, giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, chẩn đoán tâm lý trong lâmsàng, vấn đề stress và vệ sinh tâm lý, tâm lý liệu pháp v.v…Hy vọng cuốn sách sẽ cung cấp cho đồng nghiệp và bạn đọc nhữngvấn đề bổ ích về lý luận và thực hành của Tâm lý học y học, tạo thêm cơ sởkhoa học để quá trình chăm sóc sức khỏe toàn diện, cả về thể chất và tâm lýcho con người ngày càng tốt hơn.Các tác giả rất mong nhận được những đóng góp, phê bình của bạnđọc để cho cuốn sách ngày càng thêm hoàn thiện.Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Tâm lý học y học cùng bạn đọc.Các tác giảMỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC Y HỌCTừ xa xưa người ta đã quan tâm đến vấn đề tâm lý người bệnh và tâmlý người thầy thuốc. Những năm gần đây, nhờ sự phát triển của tâm lý học vày học hiện đại mà nhiều ngành khoa học mới đã ra đời để nghiên cứu sâuthêm vấn đề này. Trong số những khoa học đó có tâm lý học y học.Tâm lý học y học là khoa học nghiên cứu tâm lý người bệnh, tâm lýnhân viên y tế trong quá trình phòng và chữa bệnh. Nó là khoa học cần thiếtcho tất cả các thầy thuốc ở các chuyên khoa và nhờ nó nên nhu cầu điều trịtoàn diện, nhu cầu không ngừng nâng cao cả sức khoẻ thể chất lẫn sức khoẻtâm lý của con người ngày càng được đáp ứng tốt hơn.1. CÁC QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ TÂM LÝ HỌC Y HỌC1.1. Các quan niệm nguyên thuỷTrong một thời gian dài loài người có khuynh hướng cơ bản là giải thíchmột cách thần bí các hoạt động tâm lý và bệnh tâm thần. Song bên cạnhnhững quan niệm thần bí là những quan niệm mang tính khoa học như:Alkmeon đã đề cập đến mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý và não; Hypocratđã nói tới yếu tố dịch thể trong mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể. Nhữngquan niệm hết sức tiến bộ này đã trở thành một trong những cơ sở cho sự rađời của tâm lý y học sau này.1.2. Y học và tâm lý học thời trung cổThế kỷ XVI, tại Italia, đã có một số quan niệm về bệnh tật thoát khỏi sựthần bí. Mercurial cho rằng trầm cảm có thể do nguyên nhân thực thể hoặc dotổn thất tình cảm gây ra. Platon là bác sỹ đầu tiên đề xuất cách phân loạibệnh tâm thần theo bệnh sinh và đã tính đến vai trò của các yếu tố di truyền,nội sinh, ngoại sinh trong cơ chế của bệnh.Sang thế kỷ thứ XVII - thế kỷ của Descartes, được đặc trưng bởi sựxuất hiện khái niệm phản xạ - khuynh hướng duy vật trong triết học Gobx vàtư tưởng quyết định luận bắt đầu thâm nhập vào y học. Van Gehmont đã đềcập đến vai trò của những sang chấn tâm lý trong sự phát sinh, phát triểnbệnh tâm thần và tác giả khuyên nên điều trị bằng cách ngâm bệnh nhân vàonước lạnh. Doleboe - nhà giải phẫu học - đã nêu ra tiêu chuẩn của người bácsỹ là phải biết điều trị bệnh tâm thần. Tác giả đã thông báo nhiều bệnh nhânđược điều trị khỏi bằng những tác động đạo đức. Lusitanua đã nói rằng,thuyết phục là một trong những phương pháp điều trị bệnh nhân tâm thần cóhiệu quả. Giakhiax đã đề cập đến bệnh tâm thần trong hình luật và giám định.Thế kỷ XVIII, Pinel - nhà cải cách phương pháp điều trị bệnh tâm thầnvĩ đại người Pháp - đã cho rằng người lãnh đạo bệnh viện tâm thần phải làmột bác sỹ, một nhà tâm lý, nhà quản lý hành chính và ông là người đầu tiênđã giải phóng bệnh nhân tâm thần khỏi xiềng xích.1.3. Tâm lý y học thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XXĐến thế kỷ XIX, nhiều tác phẩm đặt nền móng cho tâm lý y học với tưcách là một khoa học độc lập đã xuất hiện. Năm 1818, Reie - một bác sỹ, mộtnhà giải phẫu học - đã viết cuốn “Cuồng tưởng và phương pháp tâm lý trongđiều trị những sang chấn tâm lý”. Tác phẩm này đã chỉ ra ý nghĩa cơ bản củatâm lý y học là sử dụng liệu pháp tâm lý tích cực.Trong thòi kỳ này đã nẩy sinh sự đấu tranh gay gắt giữa hai trường pháiduy tâm và duy vật máy móc trong tâm lý y học. Đại biểu của trường phái duytâm là Heinroth và Ideler, đã coi thường yếu tố cơ thể trong các bệnh tâmthần và cho rằng, bệnh tâm thần là hậu quả của cuộc “đấu tranh dục vọng”.Đại diện cho trường phái duy vật là Jacobi - Gnisinger, đã khẳng định rằngtâm thần học là một bộ phận thống nhất của y học và coi não là cơ quan củatâm lý.Giữa thế kỷ XIX, Lotze đã viết cuốn “Tâm lý học y học”. Đến giữanhững năm 70, Tuhe viết cuốn “Y học tâm lý”. Tuy những cuốn sách này cógiá trị đối với các nhà tâm thần học nhiều hơn, song tên của chúng cũng đãnhắc người đọc hãy quan tâm hơn đến tâm lý học y học.Sang thế kỷ XX, đã có nhiều chuyện để nói rõ hơn về đối tượng củatâm lý y học. Trong cuốn “Tâm lý học y học”, Janet đã tổng kết kinh nghiệmlâm sàng của mình về tâm lý liệu pháp. Trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiềuhọc thuyết tâm lý mới có liên quan đến tâm lý y học như: Phân tâm học củaFreud (sau đó, nhà thần kinh học người Úc là Schilder đã viết cuốn “Tâm lýhọc y học” theo quan điểm phân tích tâm lý này); học thuyết y học tâm thần thực thể của Alexander; học thuyết thể tạng - sinh vật trong tâm thần học vàtâm lý học của Kretschner… Nhìn chung, các trường phái này chưa thấy hếtvai trò của yếu tố xã hội trong tâm lý, trong nhân cách con người.1.4. Sự hình thành tâm lý y học duy vậtQuan điểm về sự thống nhất giữa tâm lý và thực thể chính là quan điểmcủa học thuyết thần kinh chủ đạo trong khoa học. I.M.Xetrenop sau khi vậndụng nguyên lý phản xạ vào hoạt động của não người đã đặt tiền đề cho sựhình thành học thuyết phản xạ trong hoạt động tâm lý. Ông đã viết: “Mọi hànhđộng có ý thức và vô thức, xét về nguồn gốc nảy sinh, đều là phản xạ”.I.P.Pavlop đã phát triển quan điểm của Xetrenop và đề ra phương phápphản xạ có điều kiện. Với phương pháp này, ông đã tìm ra quy luật cơ bản vàcơ chế hoạt động của não, khám phá ra vai trò của hệ thống tín hiệu thứ nhấtvà hệ thống tín hiệu thứ hai. Pavlop cho rằng tâm lý là sự phản ánh các hiệntượng của thế giới nội tâm. Ông yêu cầu tìm hiểu hoạt động của não về mặttâm lý và giải thích hoạt động đó về mặt sinh lý. Học thuyết thần kinh chủ đạolà học thuyết tâm lý - thần kinh chủ đạo. Học thuyết này cũng khăng định vaitrò then chốt của ý thức trong hoạt động của con người.Việc phát hiện ra những vùng chức năng khu trú ở vỏ não, như trungkhu vận động ngôn ngữ (Broca), trung khu cảm giác ngôn ngữ (Wernik); việcra đời những học thuyết mất thực dụng, mất nhận thức và quan điểm sinh họclâm sàng đã góp phần chứng minh cho mối quan hệ mật thiết giữa tâm lý vànão. Những công trình nghiên cứu về cấu trúc chất xám, về chức năng củanão đã chứng minh não là cơ sở của tâm lý.Cùng với sự ra đời của học thuyết hoạt động thần kinh cấp cao, sự xuấthiện của học thuyết vỏ não - nội tạng những khám phá về hệ thần kinh thựcvật (Langioy, Heso), về hệ thống chức năng dưới vỏ, về vai trò của thể lưới(Megoun, Moui)… đã đánh dấu sự tiếp cận ngày càng lớn giữa tâm lý học vàcác khoa học tự nhiên.Dựa vào học thuyết Mác - Lênin, chúng ta có thể nhận thức được đúngđắn hoạt động tâm lý của con người với tư cách là một nhân cách, một chủthể của nhận thức. Theo Mác, nhân cách là sản phẩm của các quan hệ trongxã hội loài người. V.I.Lênin đã coi thế giới nội tâm là thế giới khách quanđược di chuyển vào não người và được biến đổi ở trong đó. Rõ ràng là, tâmlý học duy vật nghiên cứu hoạt động tâm lý con người “không chỉ với tư cáchlà một khách thể mà còn là một chủ thể có ý thức” (V.I.Miaxcisep).Từ khi tâm lý học có những bước tiến bộ như: các phòng thực nghiệmtâm lý ra đời; tâm lý học được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy trong cáctrường đào tạo cán bộ y tế; sự phục hồi chức năng các tổn thương não docác nhà tâm lý học tiến hành có kết quả tốt… thì tâm lý y học lại càng trở nênquan trọng và là một bộ phận hữu cơ, không thể thiếu được của y học.1.5. Một số quan niệm phương Tây về tâm lý y họcỞ phương Tây, đặc biệt ở Mỹ tuy đã hình thành quan điểm thừa nhậncon người là tượng trưng cho sự thống nhất giữa cơ thể và tâm hồn, song họlại quá nhấn mạnh vai trò của các yếu tố tâm lý trong bệnh sinh của tất cả cácbệnh, kể cả bệnh chức năng lẫn bệnh thực thể. Trong bất kỳ bệnh thực thểnào, họ cũng cho yếu tố tâm lý lên hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo, nghĩa là họcho tâm lý độc lập với thực tế lịch sử - xã hội và tâm lý là nguyên nhân hàngđầu, là nền tảng cho mọi quá trình diễn ra trong cơ thể con người.S.Freud là người có quan điểm duy tâm chủ quan đã chia nhân cáchcon người thành ba lớp: lớp dưới cùng là vô thức; lớp trên là ý thức và lớptrung gian ở giữa. Lớp trung gian làm nhiệm vụ kiểm duyệt, như một hàng ràongăn cách giữa lớp trên và lớp dưới. Lớp vô thức là nơi hội tụ các bản năngcó từ khi con người mới sinh ra và làm nhiệm vụ điều chỉnh toàn bộ đời sốngtâm lý con người. Nó chất chứa năng lượng tâm lý của những bản năng bịdồn nén, bị lớp ý thức ở trên ngăn cản, không cho thực hiện, về sau, nhữngnăng lượng này chuyển thành bệnh tật, mê tín, chiến tranh…Bệnh tật, theo các nhà tâm lý thực thể, là hậu quả của sự xung đột giữahai nguyên lý thoả mãn, hiện thực và đã được định sẵn trong tâm lý conngưòi. Theo họ, tình trạng lo sợ, phẫn nộ, bị kiềm chế được biểu hiện trongbệnh tim, bệnh ngoài da; nỗi buồn nhớ mẹ được biểu hiện trong hen phếquản; xúc cảm cấp thấp được biểu hiện trong bệnh ỉa chảy; tính hà tiện, bủnxỉn, lệ thuộc biểu hiện trong bệnh dạ dày, đường ruột… Các nhà tâm lý thựcthể còn cho rằng, phù hợp với mỗi loại nhân cách là một loại bệnh. Ví dụ,những người phản ứng quá mức với ngoại cảnh hay bị bệnh loét dạ dày, đauthắt ngực; những người phản ứng yếu, hay bị viêm đại tràng, viêm da, viêmkhớp; những người kiềm chế phản ứng, hay bị bệnh cao huyết áp, hen phếquản, cường tuyên giáp, đau nửa đầu; những người thích mạo hiểm, hay bịgẫy xương tứ chi; những người ham hiểu biết, hay bị tai nạn xe cộ và nhữngngười không muốn đẻ, hay bị bệnh ung thư, bệnh nội tiết…Freud đã đề xuất phương pháp điều trị bằng phân tích tâm lý. Theoông, khi phần vô thức đấu tranh với ý thức và lọt được qua tầng kiểm duyệtthì nó được biểu hiện dưới các dạng tượng trưng như viết nhầm, nói sai,hoặc được phản ánh trong các giấc mơ… Cho nên cần điều trị bệnh bằngcách giải thích giấc mơ, giải thích ngôn ngữ tượng trưng, giải thích các liêntưởng tự do, hoặc để bệnh nhân tự nói ra những ức chế, dồn nén của mìnhtrong giấc ngủ thôi miên… Theo các nhà tâm lý thực thể, đàm thoại với bệnhnhân cũng có tác dụng điều trị, làm giảm căng thẳng, giải phóng phức hợpđộc hại khỏi ý thức và “trung hoà” chúng. Phân tâm học của Freud mang tínhtư biện nhiều hơn là khoa học song hiện nay khuynh hướng này vẫn còn rấtthịnh hành ở nước ngoài và vẫn được phát triển song song các khuynhhướng duy tâm khác.2. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC Y HỌC2.1. Vị trí, đối tượng nghiên cứu của tâm lý y họcTâm lý học y học vừa là bộ phận của y học, vừa là bộ phận của tâm lýhọc. Về đối tượng nghiên cứu và vị trí của tâm lý học y học, cho đến nay vẫncòn nhiều ý kiến khác nhau. Có thể tóm tắt những ý kiến khác nhau này thànhcác nhóm sau:- Nhiệm vụ chủ yếu của tâm lý y học là cung cấp những tri thức tâm lýhọc đại cương và trên cơ sở đó, vận dụng vào y học. Điều này là hoàn toàncần thiết, song thực tế, không phải ai cũng làm được như vậy.- Nội dung của tâm lý y học là phân tích về mặt tâm lý bản chất cácbệnh thần kinh (theo Ekpechiep). Nếu theo quan điểm này thì giới hạn củatâm lý y học rất hẹp, chỉ là môn học trong đào tạo những bác sỹ tâm thầnkinh.- Tâm lý y học chính là bệnh học tâm thần đại cương. Nếu như vây, thìđối tượng của tâm lý y học là nghiên cứu các bệnh tâm thần và tâm lý y học làbộ phận hẹp của tâm thần học.- Đối tượng của tâm lý y học là nghiên cứu những đặc điểm tâm lýngưòi bệnh và ảnh hưởng của những đặc điểm đó lên sức khoẻ và bệnh tật,là sự đảm bảo một hệ thống tối ưu các ảnh hưởng tâm lý có mục đích. Quanniệm này đúng, song chưa phải đã bao quát hết những vấn đề của tâm lý yhọc.- Ngoài những quan điểm trên, có tác giả còn quan niệm rộng hơn: tâmlý y học bao gồm cả tâm lý học đại cương, tâm lý bệnh học và bệnh học tâmthần.Chúng tôi cho rằng, trước khi tìm hiểu những vấn đề cơ bản của tâm lýy học, chúng ta cần phải hiểu được tâm lý là gì; những quy luật cơ bản nàochi phối các quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý; cấu trúc nhân cách gồmnhững yếu tố nào… Nghĩa là phần mở đầu, làm cơ sở cho tâm lý y học phảilà những nét cơ bản của tâm lý học đại cương.Phần chủ yếu nhất của tâm lý y học là tâm lý học người bệnh, trước hếtlà tâm lý học người bệnh thực thể (người bị các bệnh nội khoa, ngoại khoa,da liễu v.v… và không bị rối loạn tâm thần). Đối tượng nghiên cứu của tâm lýhọc người bệnh là căn nguyên tâm lý của bệnh; hình ảnh lâm sàng bên trongcủa bệnh, ý thức bệnh; mối quan hệ tương hỗ giữa trạng thái tâm lý, nhâncách người bệnh và bệnh tật; mối quan hệ giữa tâm lý người bệnh và nhữngyếu tố tác động vật lý, xã hội của môi trường…Quan hệ chặt chẽ với tâm lý học người bệnh là tâm lý học thầy thuốc.Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học thầy thuốc là những vấn đề về luân lý,đạo đức y học, những vấn đề về lao động nghề nghiệp, hoạt động giao tiếpcủa người thầy thuốc, những tác động độc hại của nghề y… Đặc biệt, tâm lýhọc thầy thuốc tập trung nghiên cứu về phẩm chất nhân cách người thầythuốc như năng lực hoạt động, các phẩm chất tâm lý, uy tín và những thiếusót… của người thầy thuốc.Ngoài ra, trong tâm lý học y học còn phát triển những bộ phận chuyênđi sâu nghiên cứu những phần cụ thể của tâm lý người bệnh và tâm lý ngươinhân viên y tế, như đi sâu phân loại các rối loạn hoạt động tâm lý (tâm lý bệnhhọc), nghiên cứu tâm lý những bệnh nhân tổn thương não (tâm lý học thầnkinh); nghiên cứu các liệu pháp tâm lý; nghiên cứu tâm lý trong giám định;nghiên cứu về stress tâm lý và vệ sinh tâm lý…Đúng là cho đến nay, những quan niệm về đối tượng, phạm vi nghiêncứu của tâm lý y học còn chưa được thống nhất, song những bộ phận cơ bảncủa nó ít nhiều cũng đã được hình thành. Chúng ta đồng ý rằng, tâm lý y họclà khoa học nghiên cứu tâm lý người bệnh, tâm lý nhân viên y tế trong hoạtđộng phòng và chữa bệnh, góp phần không ngừng nâng cao sức khoẻ thểchất, tâm lý cho con người.Ngày nay, khi mà khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão, khi mànền y học đang trên đà kỹ thuật hoá, thì sự cách ly giữa người bệnh và nhânviên y tế ngày càng thêm rộng. Lúc này, tâm lý y học - bộ phận thực hành củatâm lý học vận dụng vào y học - càng trở nên quan trọng trong công tác đàotạo cán bộ y tế. Một nền y học thực sự nhân đạo là nền y học đảm bảo chocán bộ y tế không chỉ có tri thức về thực thể người bệnh, mà còn có cả nhữngtri thức về nhân cách người bệnh và đảm bảo cho sức khoẻ con người đượcchăm sóc một cách toàn diện, cả về sức khoẻ thực thể lẫn sức khoẻ tâm lý.2.2. Nhiệm vụ của tâm lý y học2.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu tâm lý người bệnh- Nghiên cứu những biểu hiện tâm lý của bệnh.- Vai trò tâm lý trong phát sinh, phát triển của bệnh.- Ảnh hưởng của bệnh đối với tâm lý.- Sự khác nhau giữa tâm lý thường và tâm lý bệnh.- Những tác động của yếu tố tự nhiên, xã hội lên tâm lý người bệnh.- Vai trò của tâm lý trong điều trị.- Vai trò của tâm lý trong phòng bệnh và củng cố sức khoẻ.2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu tâm lý nhân viên y tế- Nghiên cứu những phẩm chất nhân cách người nhân viên y tế.- Y đức học và những phẩm chất đạo đức người nhân viên y tế.- Hoạt động giao tiếp của người nhân viên y tế…2.2.3. Một số nhiệm vụ chung- Nguyên tắc, phương pháp nghiên cứu tâm lý trong lâm sàng.- Các trắc nghiệm tâm lý học.- Những vấn đề tâm lý học trong giám định lao động, quân sự, pháp y…2.3. Nội dung của tâm lý y họcNội dung của tâm lý y học bao gồm các vấn đề cơ bản sau:- Những quy luật cơ bản về tâm lý người bệnh, tâm lý nhân viên y tế,tâm lý giao tiếp, không khí tâm lý trong các cơ sở điều trị.- Học thuyết về sự tác động tương hỗ giữa tâm lý và thực thể.- Tác động tâm lý của các yếu tố tự nhiên, xã hội của môi trường.- Học thuyết về nhân cách.- Y đức và những phẩm chất đạo đức của người nhân viên y tế.- Nguyên tắc, phương pháp nghiên cứu tâm lý trong lâm sàng.- Một số vấn đề tâm lý học trong giám định lao động, quân sự, pháp y…2.4. Cấu trúc tâm lý học y họcTâm lý học y học gồm các phần chính như sau:- Đại cương tâm lý học y học.- Một số nét cơ bản về tâm lý con người.- Tâm lý học người bệnh.+ Tâm lý học bệnh sinh (tâm lý học bệnh tật).+ Tâm lý học môi trường người bệnh.- Tâm lý học thầy thuốc, luân lý và đạo đức y học.- Hoạt động giao tiếp của người nhân viên y tế.- Tâm lý liệu pháp, liệu pháp phục hồi sức khoẻ.- Stress và vệ sinh tâm lý.- Một số vấn đề tâm lý học trong giám định.- Một số vấn đề về tâm lý học thần kinh và tâm lý bệnh học.- Tâm lý học chẩn đoán và một số trắc nghiệm tâm lý trong lâm sàng.Trên cơ sở cấu trúc này, tùy yêu cầu cần tìm hiểu, tùy quỹ thời gian chophép mà chúng ta xây dựng những chương trình nghiên cứu phù hợp.3. Ý NGHĨA TÂM LÝ Y HỌC VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NHÂN VIÊN Y TẾSự tiến bộ của nền y học hiện đại được đặc trưng bằng sự phát triểncủa hai khuynh hướng: một mặt đi sâu nghiên cứu cơ chế của bệnh; một mặtkhác, nghiên cứu người bệnh một cách toàn diện, trong mối quan hệ tươnghỗ giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài. Kết quả của sự phát triểnnày là làm nẩy sinh nhiều chuyên khoa y học mới, trong đó có tâm lý học yhọc. Đây là một chuyên khoa y học cơ sở, cần thiết cho tất cả các nhân viên ytế.Con người khi bị bệnh, tâm lý ít nhiều đều bị biến đổi do tác động củabệnh tật và ngược lại, tâm lý không bình thưòng là một trong những nguyênnhân phát sinh, phát triển của bệnh tật.Trong một số trường hợp, chỉ cần phân tích kỹ về mặt tâm lý lời đàmthoại của người bệnh cũng phát hiện được sự khởi đầu của một bệnh ác tính.Cũng có khi những biến đổi tâm lý che lấp cả triệu chứng lâm sàng của bệnhthực thể. Thực tế cho thấy, có tới 50% bệnh nhân nội khoa phản ánh bệnh tậtchủ yếu bằng những lời than phiền và những thay đổi tâm lý trước khi cónhững biểu hiện biến đổi quan trọng về thực thể.Một số bệnh nhân, nếu để họ biết mình bị những bệnh nghiêm trọngnhư: giang mai, lao, ung thư, nhiễm HIV (Human Immunodefiency Vius)…, rấtcó thể họ bị sang chấn tâm lý mạnh, thậm chí dẫn đến hành vi tự sát.Có những bệnh nhân tuy mắc bệnh nhưng không đi khám và chữabệnh, vì họ e thẹn (thường gặp ở những người có tính cách trầm, kín đáo),hoặc vì chủ tâm giấu bệnh… Ngược lại, có những người cường điệu bệnh tật,giả vờ mắc bệnh. Một bệnh viện của quân đội Liên Xô cũ tổng kết, trong số178 bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm vì có dấu hiệu bụng ngoại khoa điển hình,có những bệnh nhân đã được phẫu thuật, song trong đó chỉ có 12 người bịbệnh tâm thần.Nhiều khi yếu tố tâm lý là nguồn gốc của các bệnh thực thể (như cácbệnh cao huyết áp, đau thắt ngực, loét dạ dày, hen phế quản, exzema…),hoặc là yếu tố làm cho bệnh bùng phát. Cho nên tìm hiểu yếu tố tâm lý trongtiền sử bệnh là rất quan trọng để ngăn ngừa bệnh tật cho người bệnh.Quang cảnh bệnh viện, thái độ của nhân viên y tế, cách thăm khám lâmsàng, các thao tác kỹ thuật và đặc biệt các cuộc phẫu thuật có ảnh hưởng rấtlớn đến trạng thái tâm lý người bệnh. Thực tế chúng ta đã gặp những cơnchoáng xúc cảm, thậm chí dẫn đến tử vong. Có người thủng ổ loét dạ dày doquá lo lắng trước khi mổ. Petrop, một nhà ngoại khoa, đã nói: cần phải chuẩnbị tâm lý cho bệnh nhân trước cuộc mổ như chuẩn bị tâm lý cho người línhtrước khi ra trận. Cho nên thầy thuốc phải biết được trạng thái tâm lý và nhâncách người bệnh.Dưới tác động của bệnh, trạng thái tâm lý, nhân cách người bệnh đôikhi thay đổi hẳn, đặc biệt trong các bệnh nặng, kéo dài. Trạng thái tâm lýtrước khi bị bệnh giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiến triển của bệnh.Thực tế có những người mang bệnh nặng, thậm chí tàn phế, nhưng khả năngbù trừ về mặt tâm lý của họ lại rất lớn vì có ý chí và đạo đức cao. Tâm lý yhọc cần đi sâu tổng kết những kinh nghiệm quý báu này.Coi trọng yếu tố tâm lý trong điều trị là rất cần thiết, Các thầy thuốc thờixưa coi lời nói giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống các phương pháp điều trị.Những lời khuyên của thầy thuốc chỉ trên cơ sở nắm vững đời sống, tìnhtrạng hiện tại và quá khứ của người bệnh. Lời khuyên phải bao gồm khôngchỉ kế hoạch điều trị mà còn phải nói rõ cho người bệnh biết các nguyên nhânhỗ trợ cho bệnh phát triển. Thầy thuốc phải giải thích rõ cho người bệnh: điềutrị chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể trở lại bình thường, muốn khỏi bệnhlâu dài và ngăn ngừa tái phát, không thể không loại trừ các nguyên nhân gâyra nó, tức là giải thích cho người bệnh về vệ sinh cá nhân (Giakharin). Nhiềunghiên cứu chứng tỏ rằng, thuốc có tác dụng tốt là nhờ sự đóng góp của cơchế ám thị. Năm 1920, Mudrop đã nói, điều trị thực ra, chính là điều trị ngườibệnh. Những điều trên đây đã cho thấy, vấn đề tâm lý trong y học cần đượcnghiên cứu một cách nghiêm túc.Rõ ràng là, không có tri thức về tâm lý y học, không coi trọng trạng tháitâm lý và nhân cách người bệnh thì không thể nói đến một nền y học tươnglai, tức là nền y học về vệ sinh cá nhân và phòng bệnh theo nghĩa rộng.Xetrenop đã cho rằng, người thầy thuốc không những là chuyên gia về trạngthái thực thể mà còn là chuyên gia về tâm lý cho người bệnh.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ Y HỌCNhững phương pháp nghiên cứu tâm lý y học được xây dựng trên cơsở các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung, trước hêt là cácphương pháp của tâm lý học và của y học. Những phương pháp thường dùnglà: quan sát, trò chuyện, phân tích sản phẩm, trắc nghiệm, thực nghiệm,phương pháp chuyên gia, phương pháp mô hình hoá… Đặc biệt, để nghiêncứu tâm lý người bệnh, tâm lý y học sử dụng phương pháp tâm lý lâm sàng.Đây là phương pháp do trường phái Mudrop- Giakharin-Botkin đề xướng, baogồm các nội dung sau:4.1. Phần mở đầu cuộc khám bệnhNgưòi thầy thuốc chú ý thu thập những thông tin về hành chính như:tuổi, văn hoá, nghề nghiệp… và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thànhquan hệ giao tiếp, có ích cho việc thăm khám và điều trị đạt kết quả.Trong phần kể bệnh, cần chú ý đến trạng thái chung, rối loạn giấc ngủ,biến đổi khí sắc và trạng thái tâm lý của người bệnh.Trong khai thác tiền sử bệnh, điều quan trọng là hỏi bệnh nhân về thờiđiểm xuất hiện bệnh, sự bắt đầu và diễn biến ra sao, bệnh nhân tưởng tượngra hình ảnh lâm sàng của bệnh như thế nào, có suy nghĩ gì về nguyên nhân,tiên lượng của bệnh… Chú ý khai thác tiền sử đời sống người bệnh để có cơhội thâm nhập vào thế giới nội tâm của họ. Qua đàm thoại, mối quan hệ giữathầy thuốc và bệnh nhân thêm sâu sắc, thầy thuốc hiểu đầy đủ hơn về tâm lýngười bệnh.4.2. Phần khám các triệu chứng khách quanCần chú ý tìm hiểu đầy đủ trạng thái tâm lý, ý thức, hoạt động… củangười bệnh. Sơ bộ đánh giá mức độ phát triển trí tuệ, khí chất và những néttính cách chủ yếu, đặc biệt phải tìm hiểu khí sắc và phản ứng xúc cảm củangười bệnh.Cần tiến hành các trắc nghiệm và thực nghiệm tâm lý chuyên biệt để bổsung cho các tài liệu nghiên cứu tâm lý.4.3. Phần kết luậnTrong phần kết luận, ngoài các chẩn đoán về bệnh tật, cần có các chẩnđoán về nhân cách, về trạng thái tâm lý của người bệnh. Xem nhân cáchngười bệnh hướng nội hay hướng ngoại, kiểu khí chất chính của họ ra sao.Cần xác định hình ảnh lâm sàng bên trong của bệnh, trạng thái tâm lý ngườibệnh trong mối tương quan với bệnh tật và hoàn cảnh mắc bệnh. Trên cơ sởđó, thầy thuốc đề ra nghệ thuật giao tiếp, kế hoạch tâm lý liệu pháp, vệ sinhtâm lý… với người bệnh.Tóm lại, tâm lý học y học nghiên cứu những vấn đề về tâm lý ngườibệnh, tâm lý thầy thuốc, tâm lý bệnh học… bằng những phương pháp đặctrưng của mình. Nó có cơ sở phương pháp luận là những quan điểm duy vậtbiện chứng và học thuyết thần kinh chủ đạo. Tâm lý học y học thực sự cầnthiết cho một nền y học hiện đại. Chỉ những người thầy thuốc vừa có đầy đủtri thức về y học thực thể, vừa có những hiểu biết sâu sắc về tâm lý y học mớicó thể phòng bệnh, chữa bệnh một cách toàn diện và có hiệu quả.Phần 1. HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ VÀ KHOA HỌC TÂM LÝChương 1. TÂM LÝ HỌC LÀ KHOA HỌC NGHIÊN CỨU CÁC HIỆNTƯỢNG TÂM LÝ1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ1.1. Bản chất của hiện tượng tâm lýTrong đời sống hàng ngày, chúng ta thường gặp những lời nhận xétnhư: chị này tâm lý lắm, anh kia không tâm lý tý nào… Chữ “tâm lý” dùng ởđây có thể mới được hiểu theo nghĩa hẹp, để chỉ thái độ, cách cư xử… củacon người. Để hiểu chính xác và khoa học tâm lý là gì, từng hiện tượng tâm lýnẩy sinh và phát triển ra sao, vận hành theo quy luật nào…, loài người đãphải trải qua một thời gian dài nghiên cứu, thể nghiệm; đã phải chứng kiếnbiết bao cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh hướng khác nhau.1.1.1. Tâm lý là bản chất của vật chất cấp caoĐây là chủ đề tập trung sự đấu tranh gay gắt, lâu dài giữa những quanđiểm duy tâm và duy vật. Chủ nghĩa duy tâm cổ đại cho rằng, hiện tượng tâmlý là bản chất siêu hình đặc biệt của sinh vật và được gọi là linh hồn. Theonhà triết học duy tâm cổ đại Hy Lạp là Platon (427-347 trước công nguyên),linh hồn là siêu hình và độc lập với thể xác; con người sống được là nhờ linhhồn liên hệ với thể xác. Khi con người sống, linh hồn là nguyên nhân sinh racác quá trình sống của cơ thể và nó truyền đạt tất cả các hiện tượng tâm lývốn có của con người. Nếu không có sự điều khiển của linh hồn, thì conngười không tồn tại. Khi ngưòi ta chết đi, linh hồn lìa khỏi xác, bay về cõi “niếtbàn” và mãi mãi tồn tại. Các nhà duy tâm khách quan cho rằng, thế giới ýniệm sinh ra vạn vật, sinh ra thế giới vật chất. Còn các nhà duy tâm chủ quan,như G. Berkeley (1685 - 1753) cho rằng, vốn dĩ không có thế giới vật chất,những vật chất cụ thể là do cảm giác của con người mà có. Thuyết “linh hồn”của Platon ở phương Tây, thuyết “tâm” của đạo Khổng ở phương Đông đềutuyệt đối hoá thuộc tính tinh thần của tâm lý, hoàn toàn tách biệt tâm lý khỏivật chất.Những người theo trường phái “nhị nguyên luận” như Descartes (1596- 1650), đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích các hoạt động cơ bắp đơngiản của động vật, của con người và cho rằng những hoạt động chủ định, cóý thức của con người là do linh hồn (ông gọi là “lý tính tối cao”) điều khiển.Theo J. Lock (1632 - 1704), tâm lý con người là những kinh nghiệm. Kinhnghiệm bên ngoài do tác động bên ngoài vào giác quan mà có; kinh nghiệmbên trong được sinh ra từ “ý thức bên trong”, tự nó hoạt động, chỉ tự nó mớibiết được nó. Quan niệm nhị nguyên luận là sự biến dạng của chủ nghĩa duytâm.Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy vật.Theo họ, trong vũ trụ bao la chỉ có vật chất là tồn tại mãi mãi và luôn luôn biếnđổi (vận động và phát triển), với những tính chất muôn hình, muôn vẻ. Tâm lýkhông tồn tại ngoài vật chất. Song những nhà duy vật cổ đại lại coi tâm lý làmột thứ vật chất, do vật chất khác như nước, lửa, không khí… tạo ra(Democritos). Aristot (384 - 322 trước công nguyên) có quan điểm tiến bộhơn, đã cho rằng, tinh thần chỉ là một chức năng của thân thể, như thị giác làchức năng của mắt. Một số nhà duy vật Trung Quốc thời kỳ này đã dùngthuyết ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) để giải thích nguồn gốc vật chất.Tuấn Tử (vào những năm 315 - 230 trước công nguyên) cho rằng, thân thểcon người sinh ra tinh thần và cái tốt, cái xấu… đều nằm trong thân thể conngười. Các nhà duy vật Pháp và các nhà duy vật Đức trước đây đã quanniệm một cách máy móc siêu hình rằng, hoạt động tâm lý cũng là một quátrình vật chất; óc người in hình sự vật bên ngoài giống như chiếc khuôn bằngsáp; tâm lý phản ánh hiện thực khách quan thụ động, giống như chiếc gươngsoi. Spinoza (1632 - 1667) cho rằng tất cả vật chất đều có tư duy. Lameltrie(1702 - 1751) đã thừa nhận, vật chất tồn tại độc lập; chỉ cơ thể mới có cảmgiác và con người chẳng qua chỉ là cái máy đồng hồ. Thậm chí, có tác giả lạicho rằng, não tiết ra tâm lý cũng như gan tiết ra mật…Gần đây, những quan điểm duy tâm, duy vật máy móc, siêu hình vềhiện tượng tâm lý vẫn tồn tại và được các nhà tâm lý học mới biến tướngdưới nhiều dạng khác nhau, tinh vi hơn và hấp dẫn hơn.L.Feurbach (1804 - 1872) là nhà duy vật lỗi lạc trước khi chủ nghĩa Mácra đời đã khẳng định, tinh thần, ý thức không thể tách rời não người - một thứvật chất phát triển tới mức cao nhất.Các nhà duy vật biện chứng đã có những quan điểm đúng đắn về bảnchất vật chất của tâm lý. Họ cho rằng, tâm lý là biểu hiện bản chất của vậtchất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não.Sự phát triển của tâm lý luôn luôn liên hệ mật thiết với sự phát triển của hệthống thần kinh. Thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển. Lúc đầu làthể vô cớ, sau đó phát triển thành thể hữu cơ, thành nguyên sinh chất. Sựphát triển của nó cứ tiếp tục, ngày càng phức tạp, hoàn chỉnh thêm và cuốicùng thành sự phản ánh thế giới khách quan của những sinh vật có hệ thầnkinh, có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với thế giới xung quanhcũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu tiên chỉ có bảntính kích thích. Từ bản tính này, trong quá trình phát triển ngày càng phức tạpcủa cơ thể, sinh vật luôn luôn biến đổi để thích ứng với hoàn cảnh xungquanh và do đó cảm giác của chúng được phát triên. Đây chính là sự bắt đầucủa phản ánh tâm lý. Lúc đầu là những cảm giác mang tính chung chung, đơngiản, sau đó phát triển thành những cảm giác chuyên biệt (thị giác, thính giác,xúc giác…). Những sinh vật càng tiến hoá, hoạt động càng phức tạp thì phảnánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện, với những hình thứcnhư: tưỏng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảm… Ý thức là hình thức phản ánhtâm lý cao nhất, chỉ có ở người.1.1.2. Tâm lý có bản chất là phản xạHệ thần kinh động vật hoạt động theo cơ chế phản xạ. Những phản xạnày bao gồm các phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Cơ chế hoạt độngcấp cao của hệ thần kinh, của vỏ não là phản xạ có điều kiện. Hoạt động củahệ thống thần kinh gắn liền với hoạt động nội tiết của cơ thể. Vỏ não là bảnchất thực tế vật chất của tâm lý. Như vậy, tất cả các hiện tượng tâm lý đềumang tính chất phản xạ. Chúng phát sinh là để đáp lại những kích thích nàyhay kích thích khác của thế giới bên ngoài hay bên trong cơ thể.1.1.3. Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quanNội dung của tâm lý là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan. Sựphản ánh này là muôn màu, muôn vẻ và phức tạp. Đây hoặc là sự phản ánhbản thân sự vật, hiện tượng, từ những thuộc tính bên ngoài đến bản chất củanó, bằng quá trình nhận thức cảm tính và lý tính; hoặc là sự phản ánh mốiquan hệ giữa sự vật, hiện tượng với sự thoả mãn hay không thoả mãn nhucầu của con người bằng những rung cảm, xúc cảm… Trong mối quan hệ qualại với thế giới xung quanh, con người không chỉ nhận cảm, suy nghĩ, nhớ lạihoặc tưởng tượng ra, mà còn thực hiện những hành động khác nhau, gâynên những biến đổi thế giới xung quanh để thoả mãn nhu cầu muôn hình,muôn vẻ của mình. Những quá trình tâm lý phản ánh thế giới khách quan củacon ngưòi mang tính chủ thể và tích cực, thông qua sở thích, năng lực, nhucầu… của mỗi cá nhân, khác với sự phản chiếu thụ động của chiếc gương.1.1.4. Tâm lý con người có bản chất xã hội, lịch sửĐây là điểm khác nhau giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Conngười khi sống trong xã hội loài người đã giao tiếp với nhau, cùng nhau laođộng và phát triển xã hội. Tâm lý con người phản ánh sự hình thành phát triểncủa xã hội. Trong hoạt động, nhất là hoạt động lao động, con người chuyểncác hiện tượng tâm lý của mình vào những sản phẩm vật chất hoặc tinh thần.Ngược lại, khi hoạt động với công cụ, với đồ vật con người bóc tách nhữngtinh tuý tâm lý mà loài người xã hội gửi gắm vào trong đó thành hiện tượngtâm lý của riêng mình. Trong mỗi hiện tượng tâm lý của con người đều mangđậm dấu ấn của xã hội mà con người đang sống và thay đổi theo lịch sử pháttriển xã hội mà con người đã trải qua. Không sống trong xã hội loài người(như những người khi mới sinh đã bị động vật nuôi ở trong rừng), thì khôngthể có tâm lý người.Tham gia vào sự hình thành và phát triển tâm lý con người có nhữngyếu tố cơ bản sau: bẩm sinh, di truyền về mặt sinh vật hoặc truyền lại chonhau qua công cụ, đồ vật; hoạt động, giao tiếp; giáo dục và tự giáo dục; điềukiện và hoàn cảnh sống…Tóm lại, tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan,có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nẩy sinhbằng những hoạt động sống của từng người và gắn bó với các quan hệ xãhội, lịch sử.1.2. Đặc điểm chung của hiện tượng tâm lýĐời sống tâm lý vô cùng phong phú, muôn màu, muôn vẻ, song xemxét một cách khái quát, chúng có chung những đặc trưng sau:1.2.1. Tính chủ thểSự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh cơ giới và sinh vật ở chỗ,bao giờ nó cũng mang dấu vết riêng của chủ thể phản ánh. Mỗi chủ thể phảnánh tâm lý hiện thực khách quan đều thông qua kinh nghiệm, thái độ, cảm xúcriêng của mình. Tính chủ thể khiến cho hiện tượng tâm lý ngoài cái chung ra,còn luôn luôn mang màu sắc riêng của mỗi cá nhân.1.2.2. Tính tổng thể của đời sống tâm lýKhông có hiện tượng tâm lý nào đứng riêng rẽ, không liên quan đếncác hiện tượng tâm lý khác. Đời sống tâm lý của cá nhân là toàn vẹn. Và mỗimột hiện tượng tâm lý cũng mang tính toàn vẹn, chỉnh thể.1.2.3. Sự thống nhất giữa hoạt động tâm lý bên trong và bên ngoàiTâm lý là hiện tượng thuộc về thế giới bên trong. Song nó liên quanchặt chẽ với thế giới bên ngoài qua những sự vật, hiện tượng của môi trườngbên ngoài mà nó phản ánh; qua bản thể vật chất của nó là bộ não và quanhững biểu hiện bên ngoài như hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, vẻ mặt, dángđiệu… Chúng ta có thể thông qua những biểu hiện bên ngoài đó mà xét đoántâm lý bên trong.1.3. Chức năng của hiện tượng tâm lýTâm lý con người phản ánh thế giới khách quan, song khi đã hìnhthành, nó tác động trở lại thế giới hiện thực khách quan. Hiện tượng tâm lýcủa con ngươi liên quan chặt chẽ với các hiện tượng khác trong đời sống,như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Cùng với các hiện tượng khác, hiệntượng tâm lý giúp con người định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt độngcủa mình, làm cho hoạt động thích nghi, cải tạo thế giới và hoạt động tự hoànthiện bản thân của con người ngày càng có hiệu quả.1.4. Phân loại các hiện tượng tâm lýTuỳ theo những dấu hiệu dựa vào để phân loại mà chúng ta có thể chiacác hiện tượng tâm lý thành những nhóm khác nhau.1.4.1. Chia theo thời gian tồn tại của các hiện tượng tâm lý1.4.1.1. Các quá trình tâm lýBao gồm các hiện tượng tâm lý có mở đầu, có kết thúc và tồn tại trongthời gian ngắn (vài giây hoặc vài giờ), như quá trình cảm giác, tri giác, tư duy,trí nhớ, cảm xúc, ý chí…1.4.1.2. Các trạng thái tâm lýBao gồm những hiện tượng tâm lý diễn ra không có khởi đầu và kếtthúc, thường tồn tại trong thời gian tương đối dài (vài chục phút, hàng tháng)và làm phông, làm nền cho các hiện tượng tâm lý khác diễn ra, như trạng tháilo âu, băn khoăn, lơ đãng, buồn phiền, chú ý…1.4.1.3. Các thuộc tính tâm lýBao gồm những hiện tượng tâm lý hình thành trong thời gian tương đốidài, tạo nên những nét riêng, đặc trưng cho mỗi cá nhân và chi phối nhữnghiện tượng tâm lý khác. Ví dụ như, những thụộc tính tâm lý tạo nên xuhướng, khí chất, tính cách, năng lực… của con người.1.4.2. Chia theo dấu hiệu của từng người hay nhóm người, baogồm:1.4.2.1. Những hiện tượng tâm lý cá nhân.1.4.2.2. Những hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội, tậpquán,mốt…1.4.3. Chia theo chức năng các hiện tượng tâm lý1.4.3.1. Các hiện tượng tâm lý vận động - cảm giác như thị giác, thínhgiác, sự co duỗi của tay, chân…1.4.3.2. Trí tuệ, bao gồm các quá trình tiếp nhận và sử dụng tri thứcnhư cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ…1.4.3.3. Nhân cách, bao gồm các thuộc tính tâm lý quy định hành vi, giátrị xã hội của con người…1.4.4. Chia theo mức độ nhận biết của chủ thểCăn cứ vào những hiện tượng tâm lý được chủ thể nhận biết đến đâu,có thể chia các hiện tượng tâm lý thành ba nhóm:1.4.4.1. Ý thức, bao gồm những hiện tượng tâm lý được nhận biết. Vídụ như, biết mình đang suy nghĩ, đang tri giác, hoặc đã nhớ đến điều gì đó…Đây còn gọi là những hiện tượng tâm lý có ý thức.1.4.4.2. Vô thức, bao gồm những hiện tượng tâm lý của bản thân màkhông được cá nhân nhận biết, như giấc mơ, bản năng tự vệ…1.4.4.3. Tiền ý thức, bao gồm những hiện tượng tâm lý ở giữa vùng ýthức và vô thức, hay còn gọi là hoạt động tiền ý thức. Ví dụ như giấc mơ báohiệu bệnh tật nếu con người trong trạng thái tỉnh táo thì những kích thích từ ổbệnh còn ở mức dưới ngưỡng, chưa đủ để báo thành bệnh.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHOA HỌC TÂM LÝ2.1. Sơ lược lịch sử tâm lý họcTư xa xưa, chỉ bằng quan sát và tự thể nghiệm, con ngươi đã có biếtbao nhận xét tinh vi, sâu sắc về hiện tượng tâm lý. Tất nhiên những cách lýgiải, mô tả lúc bấy giờ mới chỉ là những hiểu biết kinh nghiệm chủ nghĩa.Trong lịch sử hình thành những quan niệm về hiện tượng tâm lý cũng như vềđối tượng của tâm lý học, luôn luôn bị những triết học khác nhau chi phối.Những khái niệm tâm, thiện, ác, linh hồn… được chủ nghĩa duy tâm gán chotâm lý vẫn tồn tại cho đến ngày nay và vẫn được nhiều người thừa nhận.Những quan niệm này mang tính thần bí, không khoa học.Tác phẩm “Bàn về linh hồn” của Aristot được coi là tác phẩm đầu tiêncủa tâm lý học. Song trong thời kỳ này, do khoa hoc tự nhiên và triết học duyvật còn thô sơ nên con người chưa giải thích được những hiện tượng tâm lýphức tạp như ý thức, tính cách, tư duy…Từ thế kỷ XVII, các khoa học tự nhiên (cơ học, hình học, hoá học, sinhlý học…) phát triển mạnh. Những quan sát của các khoa học này đã chỉ tamối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý và môi trường bên ngoài. Song ở thế kỷXVII, XVIII, các quan điểm cơ giới trong khoa học rất thịnh hành và đã ảnhhưởng lớn đến cách xem xét các hiện tượng của thế giới, trong đó có hiệntượng tâm lý. Một loạt khái niệm khoa học và phi khoa học đã nẩy sinh trongthời kỳ này, như khái niệm về phản xạ, về “lý tính tối cao”, về tâm lý học kinhnghiệm, về sự nẩy sinh hiện tượng tâm lý một cách tự nhiên từ vật chất…Đến thế kỷ XIX, thuyết tiến hoá sinh vật của Darwin ra đời, đã góp phầngiải thích nguyên nhân nẩy sinh, phát triển hiện tượng tâm lý từ thấp đến cao,kể cả hành vi bản năng. Sự phát triển của sinh lý học giác quan và sinh lý họcbộ não đã chứng minh mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý với hoạt động củanão và của toàn cơ thể. Khoa học tự nhiên phát triển đã góp phần tích cựcvào sự hình thành và phát triển các khoa học về tinh thần. Dựa vào các khoahọc đó, người ta đi sâu nghiên cứu tâm lý động vật, tâm lý trẻ em, tâm lýngười chậm phát triển trí tuệ…Cuối thế kỷ XIX, tâm lý học tách khỏi triết học thành khoa học riêng vớitính cách là một khoa học thực nghiệm và dùng phương pháp thực nghiệm,mô tả của vật lý học và sinh lý học để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý. Năm1879, Wundt (nhà tâm lý học duy tâm Đức) đã lập ra phòng thí nghiệm tâm lýđầu tiên trên thế giới (tại Leipzig). Sau đó nhiều nước khác như Nga, Anh,Mỹ, Pháp… cũng lập ra các phòng thí nghiệm tâm lý và xây dựng các khoatâm lý học độc lập ở các trường đại học.Cuộc khủng hoảng về phương pháp luận của tâm lý học truyền thốngđầu thế kỷ XX đã làm nẩy sinh nhiều trường phái tâm lý học. Có trường pháidùng quan điểm sinh vật học để nghiên cứu tâm lý người, như tâm lý họchành vi của Watson (1878 - 1958) và một số người khác. Họ cho rằng, hànhvi là vấn đề duy nhất, thực tế nhất. Họ coi hoạt động của người cũng giốngnhư của động vật. Mọi hoạt động, từ đơn giản đến phức tạp (như tư duy, tưtưởng, tình cảm…) đều là những phản ứng của cơ thể nhằm đáp ứng vớinhững kích thích từ bên ngoài tác động vào. Nhiệm vụ của thuyết hành vi làxác lập mối quan hệ trực tiếp giữa kích thích và phản ứng (S - R).Tâm lý học Gestalt do Maxwertheimer và những người khác đề xướngđã cho rằng, ý thức con người mang tính hoàn chỉnh, không thể phân chiađược. Tâm lý, ý thức như một cấu trúc trọn vẹn, được hình thành từ sự biếnđộng của “sự phân phối lực từ trường”.Trường phái phân tâm học của Freud (1858 -1939) dựa trên quan điểmduy tâm, đã quy tâm lý vào bản năng vô thức. Freud chia tâm lý thành baphần: Cái nó (là cái vô thức, gồm những bản năng) là phần quan trọng nhất,thực chất nhất của tâm lý; Cái tôi, là các hoạt động nhằm thoả mãn các bảnnăng vô thức; Cái siêu tôi hay là cái tôi lý tưởng, là sự ràng buộc của xã hội,của đạo đức… Cái siêu tôi ngăn chặn, chèn ép cái tôi, tạo nên sự kiểm duyệt.Những bản năng bị dồn nén, sinh ra năng lượng điều khiển hành vi hoặc sinhra bệnh tâm thần, sinh ra những mặc cảm tâm lý…Còn nhiều trường phái tâm lý học khác hình thành trên cơ sở biếntướng của các trưòng phái duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan hoặc duyvật máy móc, siêu hình… Các trường phái này hoặc là không thấy hết cơ sởsinh lý thần kinh của các hiện tượng tâm lý hoặc là không xét đến bản chất xãhội - lịch sử của tâm lý người…Triết học Mác - Lênin đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý học. Lý luậnphản ánh của các ông đã vạch ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý, ý thức conngười đồng thời chỉ ra đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của tâm lý họckhoa học. Luận điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳngđịnh tâm lý là chức năng của não và phải nghiên cứu tâm lý con ngươi trênquan điểm xã hội - lịch sử.Cùng với sự phát triển của các khoa học khác, tâm lý học ngày nay đãlớn mạnh cả về lý thuyết lẫn thực hành. Nhiều chuyên ngành tâm lý học mớira đời (như tâm lý học lao động, tâm lý học thể thao, tâm lý học y học, tâm lýhọc thương nghiệp…), một mặt nhằm phục vụ từng lĩnh vực hoạt động cụ thểcủa con người, mặt khác giúp con người tiếp cận bản chất đích thực của hiệntượng tâm lý nói chung và của tâm lý con người nói riêng tốt hơn. Có rấtnhiều khoa học nghiên cứu hiện tượng tâm lý và gắn bó chặt chẽ với tâm lýhọc; bản thân các ngành của tâm lý học cũng gắn bó chặt chẽ với nhau,nhằm làm cho việc nghiên cứu hiện tượng tâm lý ngày càng đáp ứng nhu cầuthực tiễn hơn.2.2. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học2.2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là các hiện tượng tâmlýTâm lý học nghiên cứu xem con người nhận thức thế giới bằng conđường nào (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, hay nhớ lại…); thái độ,cảm xúc, tình cảm… của con người đối với những cái mình thấy, những điềumình nghĩ… ra sao; nghiên cứu xem trạng thái tâm lý, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí,hoạt động… của con người như thế nào; nghiên cứu tâm lý người, tâm lýđộng vật; nghiên cứu tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội…Tâm lý học giới thiệu thế giới nội tâm bằng một hệ thống các khái niệm,sự kiện, quy luật; cung cấp những tri thức cần thiết để con người nhận thức,cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.2.2.2. Nhiệm vụ của tâm lý học2.2.2.1. Nhiệm vụ chung của tâm lý học là nghiên cứu những quy luậtkhách quan của các hiện tượng tâm lý, nghiên cứu những bản chất tâm lý cánhân và những đặc điểm tâm lý các hoạt động của con người.2.2.2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của các ngành tâm lý học chuyên biệt là:Tâm lý học đại cương: nghiên cứu các quy luật chung nhất của tâm lý.Tâm lý học cá nhân: nghiên cứu những đặc điểm tâm lý cá nhân.Tâm lý học xã hội: nghiên cứu sự tác động qua lại giữa tâm lý nhóm vàtâm lý cá nhân.Tâm lý học lứa tuổi: nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các lứa tuổi.Tâm lý học sư phạm: nghiên cứu tâm lý trong dạy học và giáo dục.Tâm lý học lao động: nghiên cứu những đặc điểm tâm lý của hoạt độnglao động nhằm mục đích hợp lý hoá các loại hoạt động lao động và cải tiến tổchức dạy nghề.Tâm lý học y học: nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của người bệnh,của nhân viên y tế trong phòng và chữa bệnh.Ngoài ra tâm lý học còn đi sâu nghiên cứu đặc điểm tâm lý trong cáchoạt động cụ thể khác, tạo nên những ngành tâm lý học như: tâm lý học thểthao, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học hình pháp, tâm lý học hàng không,tâm lý học quân sự…2.3. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học2.3.1. Những nguyên lý cơ bản trong nghiên cứu hiện tượng tâm lý- Nguyên lý về sự thống nhất giữa ý thức, nhân cách và hoạt động.- Nguyên lý về cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý là hoạt động thầnkinh cấp cao và tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử.- Nguyên lý về sự vận động, phát triển của các hiện tượng tâm lý.- Nguyên lý về mối liên hệ thống nhất giữa các hiện tượng tâm lý vớinhau, giữa các hiện tượng tâm lý với các hiện tượng khác, giữa thế giới nộitâm và thế giới thực tại khách quan…2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý thường được sử dụngCó rất nhiều phương pháp nghiên cứu các hiện tượng tâm lý như:Phương pháp quan sát và tự quan sát.Phương pháp đàm thoại, trò chuyện.