Bài học rút ra cho Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á từ sự kiện Anh rời khỏi Liên minh châu Âu là gì
ASEAN rút được bài học gì từ cuộc khủng hoảng châu Âu? Show
(ĐCSVN) - Bàn về tính chất của Liên minh châu Âu (EU) nói chung, cuộc khủng hoảng nợ công ở Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) nói riêng trong mối tương quan với đặc điểm của ASEAN, một nhà ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a đã đưa ra bài viết có tựa đề “ASEAN có thể học được gì từ cuộc khủng hoảng châu Âu” nhằm so sánh, phân tích nguyên nhân cuộc khủng hoảng, từ đó kiến giải một số bài học kinh nghiệm về hội nhập kinh tế đối với ASEAN. Theo bài viết, ASEAN và EU có những đặc điểm xã hội và kinh tế rất khác nhau. Căn cứ vào GDP, sức mạnh kinh tế của EU gấp hơn chín lần so với ASEAN. Dù có sự khác biệt như vậy, cuộc khủng hoảng nợ ở EU hiện nay có thể mang lại cho ASEAN bài học quý giá cho tương lai. Cuộc khủng hoảng ở Eurozone được kích hoạt bởi nhiều yếu tố phức tạp, nhưng ở đây có ít nhất ba yếu tố liên quan với nhau mà ASEAN có thể đúc rút kinh nghiệm. Thứ nhất là sự chênh lệch và khả năng cạnh tranh kinh tế của các nước thành viên, điều đó tạo ra sự một cân bằng thương mại. Những nền kinh tế mạnh chẳng hạn như Đức, đạt giá trị xuất khẩu vượt xa nhập khẩu. Trong khi các nền kinh tế yếu như Đồ Đào Nha, Ai-len, I-ta-li-a, Hy Lạp và Tây Ban Nha (PIIGS) lại chịu điều kiện ngược lại. Sản phẩm xuất khẩu của các nước PIIGS bị mất khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, buộc họ phải dựa nhiều hơn vào các khoản nợ để trang trải cho thâm hụt thương mại. Đồng Ơ-rô đang làm trầm trọng thêm tình hình, do PIIGS không thể độc lập phá giá tiền tệ để làm cho sản phẩm của họ rẻ hơn. Chính bởi sự mất cân bằng thương mại kéo dài, các nền kinh tế yếu kém buộc phải nợ chồng chất đến mức mà họ không thể trả thêm được. Hành xử của họ được thúc đẩy bởi một thực tế là sự khuyến khích đi vay nợ tăng lên cùng với tỷ lệ lãi suất giảm sau khi các nước đó gia nhập Eurozone. Thứ hai, là thiếu cam kết từ các nhà lãnh đạo EU. Hiệp ước Maastricht (Hiệp ước về EU) năm 1992 nêu rõ, các thành viên Eurozone chỉ có thể có tối đa 3% GDP trong giới hạn được vay hàng năm và tỷ lệ nợ trên GDP là 60% để đảm bảo sự ổn định của khu vực và ngăn chặn hành vi tài chính thiếu thận trọng. Nhiều năm sau đó, mọi người dường như quên rằng họ từng có những giới hạn như vậy. Một số phương tiện truyền thông đã cáo buộc Hy Lạp lợi dụng quy định của Hiệp ước Maastricht bằng cách sử dụng các dẫn xuất và kỹ thuật tài chính phức tạp. Hai quốc gia lớn nhất trong Eurozone là Đức và Pháp cũng vượt quá các quy tắc tối thiểu bằng cách làm cho ngân sách thâm hụt lần lượt 4% và 7% GDP, cũng như tỷ lệ nợ/GDP là 83% và 82%. Điều này đã chứng tỏ các nhà lãnh đạo EU không thể duy trì các quy tắc riêng của họ. Cách đây không lâu, các nước thành viên EU (trừ Anh và Séc) đã ký một hiệp ước tài chính mang tính bước ngoặt nhằm cải cách các thỏa thuận trước đó. Họ làm các quy tắc trở nên chặt chẽ hơn, bao gồm có dành cho Toà án Tư pháp châu Âu quyền kiểm tra liệu các nước có thực hiện các quy tắc ngân sách một cách đúng đắn cũng như quyền tạo ra một cơ chế tự động buộc các quốc gia điều chỉnh ngân sách của họ. Việc các nước liên quan có thực sự triển khai các quy định mới một cách nhất quán hay không còn cần phải đợi thời gian chứng minh. Thứ ba là sự mất tự tin trong tất cả các quốc gia thành viên Eurozone. Yếu tố này là câu trả lời chung cho tất cả các nguyên nhân đã đề cập. Tâm lý thị trường trở nên lo lắng về việc liệu đồng Ơ-rô có thể được tiếp tục duy trì và các nhà lãnh đạo có khả năng kiềm chế cuộc khủng hoảng. Quan ngại về khả năng cuộc khủng hoảng ngày càng tồi tệ hơn trở nên rõ nét khi các cơ quan xếp hạng tín nhiệm phản ứng với cuộc khủng hoảng bằng cách giảm mức xếp hạng tín dụng quốc gia của hàng loạt nền kinh tế yếu dưới mức đầu tư, hay là thứ “vô giá trị” - mặc dù không ít nhà phê bình lập luận các cơ quan xếp hạng dường như đã phản ứng thái quá vì đã không đưa ra một cảnh báo thích hợp trước khi khủng hoảng bùng phát. ASEAN là tổ chức khu vực hội nhập nhất trong số các nước đang phát triển. Hiệp hội này có thể không coi EU là một hình mẫu cho sự phát triển kinh tế, nhưng có một điều không thể phủ nhận là ASEAN có thể rút ra hiểu biết sâu sắc về việc hội nhập kinh tế cần được xử lý cẩn thận như thế nào. Bài học quan trọng cho ASEAN là mọi sự hội nhập kinh tế nên bắt đầu với những nỗ lực để đạt được sự phát triển kinh tế như nhau ở mỗi nước thành viên. Điều quan trọng là tránh được sự mất cân bằng kinh tế như đang xảy ra ở Eurozone. Nếu muốn tăng cường hội nhập, ASEAN phải đảm bảo tất cả các nước thành viên phát triển kinh tế với cùng một nhịp độ và không nước nào bị tụt lại phía sau. Hiện tại, sự mất cân bằng kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN có thể có ảnh hưởng rất ít đối với sự phát triển của ASEAN. Trong ASEAN, quy mô quan hệ thương mại với các đối tác bên ngoài lớn hơn thương mại nội khối, nên các nước thành viên có vẻ dễ bị tổn thương bởi các cú sốc bên ngoài hơn là bên trong khu vực. Tăng trưởng bền vững trong khu vực chỉ có thể đạt được nếu tất cả các quốc gia thành viên ở trong cùng một giai đoạn phát triển. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng của EU, ASEAN cũng cần tạo ra một cơ chế đảm bảo phản ứng nhanh và thích hợp khi có một cuộc khủng hoảng xảy ra. Độ tin cậy đối với ASEAN là cần thiết để thị trường tin rằng ASEAN có thể xử lý ổn thoả cuộc khủng hoảng.
Việc Vương quốc Anh khởi động tiến trình tách ra khỏi Liên hiệp châu Âu bằng cách kích hoạt Điều 50 của Hiệp ước về Liên minh châu Âu là một bước tiến quan trọng trong việc Anh rút khỏi Liên minh châu Âu (EU), thường được gọi là Brexit. Việc kích hoạt Điều 50 là hành động thông báo chính thức cho Hội đồng châu Âu về ý định rút khỏi EU của một nước thành viên để cho phép các cuộc đàm phán thu hồi bắt đầu theo yêu cầu của Hiệp ước về Liên minh châu Âu. Quá trình rời EU được khởi xướng bởi một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 6 năm 2016 ủng hộ việc Anh rút khỏi EU. Vào tháng 10 năm 2020, Thủ tướng Anh, Theresa May, tuyên bố, Điều 50 sẽ được kích hoạt vào "quý I năm 2017" [1]. Quyết định ngày 3 tháng 11 năm 2020 của Tòa án Anh và Xứ Wales và được xác nhận vào ngày 24 tháng 1 năm 2017 bởi Toà án Tối cao Vương quốc Anh xác minh rằng, quá trình này không thể khởi xướng bằng hành động đơn phương của chính phủ (lấy từ đặc quyền của hoàng gia), mà chỉ có thể xảy ra như là một kết quả của một đạo luật của Quốc hội. Do đó, thông qua Liên minh châu Âu luật Thông báo rút khỏi EU 2017 được thông qua để trao quyền cho Thủ tướng Chính phủ kích hoạt Điều 50. Theresa công bố vào ngày 20 tháng 3 năm 2017 rằng, Anh sẽ kích hoạt Điều 50 vào ngày 29 tháng 3 năm 2017.[2] Điều này chính thức xảy ra vào Thứ Tư 29 Tháng 3 năm 2017 lúc 13:28 CEST (12:28 BST) khi Sir Tim Barrow, Đại diện thường trực của Vương quốc Anh tại Liên minh Châu Âu, trao tận tay một bức thư do Thủ tướng Theresa May viết cho Donald Tusk, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu tại Brussels [3]. Điều này có nghĩa là Anh sẽ không còn là một thành viên của EU nữa vào lúc nửa đêm (00:00 giờ Greenwich Mean Time) ngày 30 tháng 3 năm 2019, trừ khi việc gia hạn đàm phán được đồng ý bởi Anh và EU [4]. Mục lục
Bối cảnhSửa đổiVương quốc Anh là nước đầu tiên kích hoạt Điều 50 trong Hiệp ước về Liên minh châu Âu, sau khi trong cuộc trưng cầu dân ý năm 2016 đa số bỏ phiếu rời khỏi Liên minh châu Âu. Khi David Cameron từ chức vào tháng 6 năm 2016, ông bày tỏ là, Thủ tướng tiếp theo nên kích hoạt Điều 50 và bắt đầu đàm phán với EU [5]. Có sự tranh cãi liệu quyết định kích hoạt Điều 50 là đặc quyền của chính phủ, như chính phủ Cameron đã lập luận,[6] hay liệu cần phải có sự chấp thuận của Quốc hội.[7][8] Điều 50 quy định rằng "Bất kỳ nước thành viên nào cũng có thể quyết định rút khỏi Liên minh theo các đòi hỏi hiến pháp của nước đó". Tuy nhiên, Hiến pháp của Vương quốc Anh không viết ra chữ và ý nghĩa trong luật của Anh về cụm từ "các đòi hỏi hiến pháp của nó" chưa được kiểm tra. Công ty luật Mishcon de Reya tuyên bố rằng nó đã được một nhóm khách hàng yêu cầu thách thức sự hợp hiến về việc kích hoạt Điều 50 mà không được Quốc hội thảo luận về vấn đề này.[9][10] Tuy nhiên, Quốc hội sẽ có thể bỏ phiếu bất kỳ thỏa thuận hiệp ước mới nào nảy sinh từ bất kỳ thoả thuận rút lui nào đạt được, mặc dù từ chối thỏa thuận như vậy (hoặc thất bại để đạt được thoả thuận như vậy) sẽ không chấm dứt tiến trình rời khỏi Liên minh sau khi Điều 50 đã được khởi động.[11] Điều tất yếu để kích động Điều 50Sửa đổiChính phủ hứa sẽ hành động khi đa số bỏ phiếu "rời khỏi" và, sau khi kết quả được biết đến, cam kết sẽ viện dẫn Điều 50 để bắt đầu quá trình đàm phán với EU. Tuy nhiên, không giống như luật về Hệ thống Bầu cử Nghị viện và các khu vực bầu cử năm 2011, trong đó có các điều khoản cho một hệ thống "bỏ phiếu thay thế" mà sẽ chỉ hoạt động nếu được chấp thuận bởi kết quả bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu được tổ chức theo Đạo luật,[12] luật trưng cầu dân ý về Liên minh châu Âu 2015 không nêu rõ rằng chính phủ có thể viện dẫn Điều 50 một cách hợp pháp mà không có Nghị viện, và sau vụ kiện ra tòa án, một dự luật kích hoạt Điều 50 được đưa ra. Đàm phán trước thông báoSửa đổiTrước khi Nhà nước Anh kích hoạt Điều 50, Anh Quốc vẫn là thành viên của EU, phải tiếp tục thực hiện tất cả các điều ước liên quan đến Liên minh Châu Âu, bao gồm các thỏa thuận trong tương lai, và được coi là một thành viên hợp pháp. EU không có khuôn khổ để loại trừ Vương quốc Anh hoặc bất kỳ thành viên nào miễn là điều 50 không được viện dẫn, và Anh Quốc không vi phạm luật của EU.[13][14] Tuy nhiên, nếu Anh Quốc vi phạm pháp luật EU một cách đáng kể thì có các cơ sở pháp lý để đuổi nước Anh ra khỏi EU thông qua Điều 7, cái gọi là "lựa chọn hạt nhân" cho phép EU hủy bỏ thành viên của một quốc gia vi phạm các nguyên tắc cơ bản của EU, một thử thách khó vượt qua[15]. Điều 7 không cho phép buộc phải hủy bỏ tư cách thành viên, chỉ từ chối các quyền như tự do thương mại, tự do đi lại và quyền bỏ phiếu. Tại cuộc họp của các Thủ trưởng Chính phủ các nước khác vào tháng 6 năm 2016, các nhà lãnh đạo quyết định sẽ không tiến hành đàm phán trước khi Anh chính thức viện dẫn Điều 50. Do đó, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Jean-Claude Juncker ra lệnh cho tất cả các thành viên của Ủy ban châu Âu không tham gia vào bất kỳ hình thức liên lạc nào với các đảng phái Anh liên quan đến Brexit.[16] Các phát biểu qua phương tiện truyền thông về các vấn đề khác nhau vẫn diễn ra. Ví dụ, vào ngày 29 tháng 6 năm 2016, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk nói với Anh rằng họ sẽ không được phép tiếp cận thị trường chung Châu Âu trừ khi họ chấp nhận bốn quyền tự do về hàng hoá, vốn, dịch vụ và con người [17]. Angela Merkel nói: "Chúng tôi sẽ đảm bảo rằng các cuộc đàm phán không diễn ra theo nguyên tắc chỉ chọn cái gì có lợi cho mình... Nó phải và sẽ tạo ra sự khác biệt đáng chú ý về việc một quốc gia muốn là một thành viên của gia đình Liên minh châu Âu hay không ".[18] Để đạt được và mở rộng các hiệp định thương mại giữa Anh và các nước không phải là Liên minh châu Âu, cơ quan Thương mại Quốc tế (DIT) được Thủ tướng Theresa May thành lập, ngay sau khi bà nhậm chức vào ngày 13 tháng 7 năm 2016.[19] Tính đến tháng 2 năm 2017, DITdax nhận khoảng 200 nhà đàm phán thương mại [20] và được giám sát bởi Liam Fox, quốc vụ khanh về Thương mại Quốc tế. Tái đàm phán các điều khoản thành viênSửa đổiCác cuộc đàm phán sau khi kích hoạt Điều 50 không thể được dùng để đàm phán lại các điều kiện của các thành viên trong tương lai vì Điều 50 không đưa ra cơ sở pháp lý để thu hồi quyết định rời khỏi.[21] Kể từ khi điều khoản 50 được kích hoạt, Vương quốc Anh sẽ đàm phán với Liên minh châu Âu về tình trạng 1.2 triệu người Anh sống ở EU, tình trạng 3.2 triệu người EU đang sống tại Vương quốc Anh. Các vấn đề liên quan đến nhập cư, tự do thương mại, tự do đi lại, biên giới với Ireland, chia sẻ thông tin tình báo và các dịch vụ tài chính cũng sẽ được thảo luận.[22] Thời điểmSửa đổiTheo sau kết quả trưng cầu dân ý Cameron tuyên bố ông sẽ từ chức trước đại hội Đảng Bảo thủ vào tháng 10 và Thủ tướng sắp tới sẽ kích động Điều 50:[23]
Cameron nói rõ rằng, người kế nhiệm ông làm Thủ tướng nên kích hoạt Điều 50 và bắt đầu đàm phán với EU [5]. Trong số các ứng viên trong cuộc bầu cử người lãnh đạo đảng Bảo thủ 2016 có sự bất đồng ý kiến về thời điểm kích hoạt: bà Theresa May nói rằng Anh Quốc cần có một vị trí đàm phán rõ ràng trước khi viện dẫn Điều 50, và bà sẽ không làm như vậy trong năm 2016, trong khi Andrea Leadsom nói rằng bà sẽ kích hoạt nó càng sớm càng tốt.[25] Theo Uỷ viên phụ trách Kinh tế EU Pierre Moscovici, nước Anh phải tiến hành nhanh chóng. Vào tháng 6 năm 2016, ông nói: "Cần phải có một thông báo của nước liên quan về ý định của nó muốn rời khỏi EU, do đó yêu cầu (Thủ tướng Anh David Cameron) phải hành động nhanh chóng".[26] Ngoài ra, các nhà lãnh đạo EU còn lại ban hành một tuyên bố chung vào ngày 26 tháng 6 năm 2016 hối tiếc nhưng tôn trọng quyết định của Anh và yêu cầu họ tiến hành nhanh chóng theo Điều 50. Bản tuyên bố cũng cho biết thêm: "Chúng tôi sẵn sàng đàm phán nhanh với Vương quốc Anh về các điều khoản và điều kiện Của Liên minh châu Âu, cho đến khi quá trình đàm phán kết thúc, Vương quốc Anh vẫn là một thành viên của Liên minh châu Âu với tất cả các quyền và nghĩa vụ bắt nguồn từ điều này. Theo Hiệp ước mà Anh Quốc đã phê chuẩn, Luật EU vẫn tiếp tục áp dụng toàn bộ đối với và ở Anh Quốc cho đến khi nó không còn là Thành viên nữa ".[27] Sau một cuộc tranh luận về dự định rời khỏi EU của Vương quốc Anh vào ngày 28 tháng 6 năm 2016, Nghị viện EU thông qua một đề nghị kêu gọi kích hoạt "ngay lập tức" Điều 50, mặc dù không có cơ chế cho phép EU kích hoạt điều này.[28] Vào ngày 2 tháng 10 năm 2016, Thủ tướng Theresa May tuyên bố rằng bà định viện dẫn Điều 50 vào cuối tháng 3 năm 2017, có nghĩa là nước Anh sẽ theo con đường rời khỏi EU vào cuối tháng 3 năm 2019.[29] Thời điểm kích hoạtSửa đổiMặc dù cam kết sẽ kích hoạt Điều 50 vào buổi sáng hôm sau của cuộc bỏ phiếu "rời khỏi", David Cameron đã từ chức Thủ tướng Chính phủ, để lại quyết định thời điểm cho người kế nhiệm. Có tin đồn ở Anh rằng nó sẽ bị trì hoãn,[30] và Ủy ban châu Âu vào tháng 7 năm 2016 giả định rằng, thông báo về Điều 50 sẽ không được đưa ra trước tháng 9 năm 2017.[31] Theresa May cho biết rằng thông báo sẽ xảy ra vào cuối tháng 3 năm 2017. Lá thư kích hoạt Điều 50 được May ký vào ngày 28 tháng 3 năm 2017, được Tim Barrow, đại sứ Anh tại EU, trao tận tay cho Donald Tusk vào ngày 29 tháng 3.[32][33][34] Chú thíchSửa đổi
|