Bài tập chứng minh trong tố tụng dân sự năm 2024

Uploaded by

Đặng Trần Bảo Trâm

0% found this document useful [0 votes]

565 views

3 pages

Copyright

© © All Rights Reserved

Available Formats

DOCX, PDF, TXT or read online from Scribd

Share this document

Did you find this document useful?

Is this content inappropriate?

0% found this document useful [0 votes]

565 views3 pages

Bài Tập Tình Huống Luật Ttds Về Chứng Cứ Và Chứng Minh

Uploaded by

Đặng Trần Bảo Trâm

Jump to Page

You are on page 1of 3

Search inside document

Reward Your Curiosity

Everything you want to read.

Anytime. Anywhere. Any device.

No Commitment. Cancel anytime.

Trong học luật tố tụng dân sự, bài tập tình huống đóng vai trò quan trọng, giúp áp dụng lý thuyết vào thực tế và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề. Hãy cùng tìm hiểu một tình huống cụ thể, khám phá cách tiếp cận giải quyết tranh chấp dân sự.

Bài tập 1:

Tháng 9/2023, anh A cho anh B vay 500 triệu đồng, thời hạn trả nợ là tháng 12/2023, việc vay tiền có lập thành văn bản. Tháng 11/2023, anh A cho anh B thuê một xe bốn chỗ để đi lại và thời hạn trả xe vào tháng 02/2024. Mặc dù đã hết hạn trả nợ và trả xe đã lâu, anh B vẫn không thực hiện nghĩa vụ nên anh A đã khởi kiện anh B ra Tòa án với hai yêu cầu: Anh B phải trả nợ gốc, tiền lãi theo hợp đồng vay tiền và trả lại xe cho anh A. Tòa án Quận X, thành phố Y đã thụ lý và giải quyết cả hai yêu cầu của anh A trong cùng một vụ án.

  1. Theo anh, chị, Tòa án quận X thành phố Y giải quyết cả hai yêu cầu của anh A trong cùng một vụ án như vậy là đúng hay sai? Tại sao?
  2. A có quyền khởi kiện B đòi nợ trong trường hợp này hay không?
  3. Xác định Quan hệ pháp luật tranh chấp và tư cách đương sự?
  4. Giả sử Tòa án có thẩm quyền đã thụ lý và phát hiện đã hết thời hiệu thời kiện thì Tòa án phải xử lý như thế nào?

Lời giải:

  1. Căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về Phạm vi khởi kiện, quan hệ dân sự vay tiền giữa anh A và anh B cùng quan hệ dân sự cho thuê xe giữa họ có liên quan với nhau. Do đó, Tòa án Quận X, thành phố H đã thụ lý và giải quyết cả hai yêu cầu của anh A trong cùng một vụ án, điều này là phù hợp với quy định của pháp luật.
  2. Căn cứ theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì Trường hợp Tòa án có thẩm quyền đã thụ lý và phát hiện đã hết thời hiệu thời kiện thì Tòa án [Lúc này ra bản án, quyết định giải quyết vụ án] mà đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án [Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án] ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nếu đương sự không có yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật.
  3. Xác định Quan hệ pháp luật tranh chấp Tranh chấp trên là tranh chấp về hợp đồng giữa A và B nên đây là quan hệ pháp luật dân sự. Xác định tư cách của đương sự Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong đó: Nguyên đơn là A, do A là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Bị đơn là B, do B là người bị nguyên đơn [A] khởi kiện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Không
  4. Căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 4 và Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì A có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Tổng kết bài tập tình huống luật tố tụng dân sự, chúng ta đã có cơ hội thực hành và áp dụng kiến thức lý thuyết vào giải quyết vấn đề thực tế. Qua trải nghiệm này, chúng ta nhận thức rõ tầm quan trọng của quy trình pháp lý trong bảo vệ quyền lợi và công bằng, đồng thời tích lũy thêm kỹ năng quan trọng cho sự phát triển trong lĩnh vực luật tố tụng dân sự.

  • 1. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG  KHOA LUẬT HỌC TIỂU LUẬN THỰC TẬP ĐỀ TÀI: CHỨNG CỨ VÀ VẤN ĐỀ CHỨNG MINH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ Giảng viên hướng dẫn: Số điện thoại: Email: Sinh viên thực tập: Mã số sinh viên: Số điện thoại: Email: BÌNH DƯƠNG
  • 2. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… TP.HCM, ngày ….. tháng …. Năm 201… NGƯỜI NHẬN XÉT ……………………………..
  • 3. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… TP.HCM, ngày ….. tháng …. Năm 201… NGƯỜI NHẬN XÉT ……………………………..
  • 4. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT Hội đồng trọng tài HĐTT Tòa án nhân dân TAND Tòa án nhân dân tối cao TANDTC Trọng tài thương mại TTTM Trọng tài viên TTV Viện kiểm sát nhân dân VKSND Ủy ban nhân dân UBND
  • 5. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài..................................................................1 2. Phạm vi nghiên cứu đề tài........................................................................................1 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài................................................................................2 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.....................................................................2 CHƯƠNG 1.....................................................................................................................3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ..............................................................................................................3 1.1. Khái niệm chứng cứ..............................................................................................3 1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ..................................................................................3 1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ ..................................................................................3 1.1.3. Phân loại chứng cứ .........................................................................................4 1.1.4. Nguồn của chứng cứ.......................................................................................4 1.2. Khái niệm về chứng minh.....................................................................................7 1.2.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự.................................7 1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh ................................................................8 1.2.3. Quá trình chứng minh.....................................................................................9 1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự...................................................9 1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự ......................................10 1.3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh ....................................................................................................................................10 1.3.1. Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ ...............................................10 1.3.2. Thu thập, giao nộp và bảo vệ chứng cứ........................................................11 1.4. Trách nhiệm của tòa án nhân dân........................................................................11 1.4.1.. Xác định chứng cứ.......................................................................................11 1.4.2. Thu thập chứng cứ ........................................................................................13 1.4.3. Đánh giá chứng cứ........................................................................................14 1.4.4. Bảo vệ chứng cứ ...........................................................................................15 1.5. trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ.........15
  • 6. thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 CHƯƠNG 2...................................................................................................................16 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH................................................................................16 TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ.....................................................................16 2.1. Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ............16 2.1.1. Điểm mới ......................................................................................................16 2.1.2. Một số bất cập, hạn chế ................................................................................18 2.2. Thực tiễn xét xử ..................................................................................................20 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .................................................25 3.1.Những tình tiết, sự kiện phải chứng minh bao gồm các tình tiết sự kiện mà quan hệ dân sự.....................................................................Error! Bookmark not defined. 3.2.Quy định rõ về thời hạn giao nộp chứng cứ:........Error! Bookmark not defined. 3.3.Quy định trưng cầu giám định .............................Error! Bookmark not defined. 3.4. Hạn chế chứng cứ bị tiêu hủy .............................Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ...................................................................Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................Error! Bookmark not defined.
  • 7. thiết của việc nghiên cứu đề tài Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải quyết vụ án. Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, ngày 15 tháng 6 năm 2004 và sửa đổi vào năm 2015. Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án. Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả chọn đề tài: "Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Với phạm vi chưa có đủ điều kiện nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân sự theo phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền thống [dân sự và hôn nhân gia đình], còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này trong các công trình nghiên cứu sau này.
  • 8. nghiên cứu đề tài Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v... 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. - Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
  • 9. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm chứng cứ 1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn. Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức phản ánh sự thật khách quan do đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức, người tham gia tố tụng giao nộp hoặc Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. 1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ a] Tính khách quan của chứng cứ Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó. b] Tính liên quan của chứng cứ Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
  • 10. trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết. c] Tính hợp pháp của chứng cứ Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể: - Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. - Phải từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. - Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp [Bộ luật Tố tụng dân sự đang để trống quy định này]. - Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. - Phải được thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự. 1.1.3. Phân loại chứng cứ Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau. Những tình tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dưới hai dạng sau: - Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được phản ánh vào đầu óc con người, từ đó con người ghi lại, chụp lại và phản ánh có ý thức lại chính nó. - Các dấu vết, vật chứng là vật chất. Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau như: chứng cứ gián tiết, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định, chứng cứ khẳng định, chứng cứ viết...; nhưng dù có gọi như thế nào thì cũng không làm thay đổi giá trị của nó. Việc phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định về chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự có hệ thống và minh bạch. - Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rút ra từ lời khai của đương sự, người làm chứng. - Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rút ra từ những vật như vật chứng, tài liệu, giấy tờ. 1.1.4. Nguồn của chứng cứ Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự thì
  • 11. nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không chứng minh làm sáng tỏ để giải quyết vụ việc dân sự. Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể: - Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản và sự liên quan tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh... Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn được mà đương sự giao nộp không thể được coi là chứng cứ. - Các vật chứng Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự, nếu không phải là hiện vật gốc nhưng phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Do vậy, vật chứng phải luôn có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu thập vật chứng theo trình tự luật định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo đảm giá trị đặc tính của vật chứng. Nếu đương sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải lập biên bản miêu tả chi tiết hình thức cũng như đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với vật không thể di chuyển được thì phải xem xét tại chỗ; vật mau hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét như ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để lưu. - Lời khai của đương sự Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp hay giải quyết của mình tại Tòa án. Lời khai của đương sự dựa trên trí nhớ và sự kiện, tình tiết nên thường mang tính chủ quan. Tâm lý trong lời khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái quyền lợi cá nhân, nên xem xét yếu tố này để Tòa án thận trọng khi đánh giá. Lời khai của đương sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo đúng trình tự và ký tên của mình. Lưu ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai. - Lời khai của người làm chứng
  • 12. là người biết rõ những thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại không có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó như bị dụ dỗ, bị mua chuộc, bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời khai sai lệch, thiếu chính xác. Lời khai của người làm chứng theo quy định phải được ghi bằng văn bản hoặc ghi âm, ghi hình, nhưng phải ký tên xác nhận. Người làm chứng phải đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi dân sự; nếu bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự phải có người đại diện. - Kết luật giám định Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ quan chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu của một bên đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ kiện có thể quyết định toàn bộ vụ án. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ án. Bởi vậy, các kết luận giám định có thể được giám định lại, giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định khác. - Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Cụ thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có đại diện của cơ quan sở tại có thẩm quyền. Tòa án phải báo cho đương sự biết trước để họ chứng kiến việc xem xét, thẩm định. - Tập quán là nguồn của chứng cứ Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và được công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán được coi là chứng cứ trong một vụ án cụ thể thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập quán đó và chứng minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán đó thừa nhận, như xác nhận vào văn bản cả cộng đồng dân cư và được chứng thực cũng như xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi
  • 13. đó được thừa nhận. Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi lẽ, nó không có giới hạn cụ thể, rạch ròi, ở một mức độ nào đó nó có tính ước lệ và suy đoán. Ví dụ, ở một cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn đến vì giúp cho một cá nhân nào đó mà cộng đồng dân cư có thể ký và xác thực vào văn bản mà việc này vẫn không trái với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ bản, tập quán không được trái với các nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội và đương nhiên tập quán đó chưa được khái quát để cụ thể hóa trong luật. - Kết quả định giá tài sản Định giá có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Định giá có thể do đương sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận thấy cần định giá. Kết quả định giá là nguồn của chứng cứ nên việc định giá do Hội đồng định giá được lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khi định giá tài sản, Hội đồng định giá tiến hành định giá riêng từng tài sản. Để xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự phải căn cứ vào mức phố biến giá cả thị trường địa phương tại thời điểm định giá mà có vật, tài sản cần định giá. 1.2. Khái niệm về chứng minh 1.2.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc là cần thiết; trong đó còn bao gồm cả hoạt động áp dụng luật của Tòa án đối với vụ việc dân sự cụ thể cần giải quyết.
  • 14. của hoạt động chứng minh Vấn đề xác định rõ chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào? Vì mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục đích, nhiệm vụ khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau. Trong đó, xác định nghĩa vụ chứng minh của đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Tòa án trong việc làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án dân sự. Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đương sự, ngưòi đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác và Tòa án. Trong đó, đương sự có vai trò chủ yếu để chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm đương sự và Tòa án cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự. Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự không có nghĩa vụ chứng minh. Tuy vậy, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, trong một số trường hợp, Tòa án vẫn phải chứng minh để làm rõ. Ví dụ, đối với trường hợp đương sự không thể thu thập được chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ [khoản 2 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự]. Tòa án thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng [Điều 96, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự]. Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ cơ sở của quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, việc chứng minh của Tòa án mang tính hỗ trợ cho việc chứng minh của đương sự và phục vụ cho việc giải quyết vụ việc đúng đắn của Tòa án. Việc thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của một chủ thể có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các chủ thể chứng minh phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ.
  • 15. chứng minh Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Như hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong quá trình tố tụng. Kết quả giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá trình này đòi hỏi phải thận trọng, tỷ mỷ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất. Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi khởi kiện thụ lý vụ án, đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh bằng việc nguyên đơn gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án phải gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án [Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự]. Tại phiên tòa, các bên đương sự tham gia tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của họ không hạn chế [Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự]. Khi có kháng cáo, người kháng cáo phải gửi cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung [nếu có] để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp [khoản 3 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự]. 1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự, dùng nó làm cơ sở giải quyết vụ kiện dân sự. Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất đa dạng nên các tình tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ việc dân sự cụ thể rất phong phú. Do vậy, trong quá trình giải quyết, việc xác định những tình tiết, sự kiện nào cần phải chứng minh. Để xác định được đối tượng chứng minh của mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa vào yêu cầu hay phản đối của đương sự. Đương sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có yêu cầu, hay phản đối yêu cầu. Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết, sự kiện khẳng định của bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên phản lại yêu cầu liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
  • 16. tiện chứng minh trong tố tụng dân sự Phương tiện chứng minh là những công cụ được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hoạt động chứng minh có quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những phương tiện chứng minh cụ thể để các chủ thể lấy đó làm công cụ chứng minh cho mình: Các tài liệu đọc được phải là bản chính, các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác định xuất xứ; các vật chứng, lời khai của đương sự; người làm chứng phải được ghi lại dưới một hình thức nhất định theo luật định. Trong một vụ việc dân sự cụ thể, các đương sự có thể dùng nhiều phương tiện chứng minh trong đó được làm rõ các sự kiện, tình tiết phải được xác định đúng, rõ ràng và cần thiết. 1.3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh 1.3.1. Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ Tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự đã khẳng định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự lại quy định về việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó nêu: 1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự. Vậy, vì sao pháp luật tố tụng dân sự lại đặt ra nghĩa vụ chứng minh cho đương sự? Sở dĩ như vậy do: ở quan hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà nước hỗ trợ hay không? Mặt khác, các bên đương sự là người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, thường biết rõ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì, còn hay không còn, đúng hay không đúng và đang ở đâu. Do đó, khi các bên đưa tranh chấp của họ ra Tòa án, thì tòa án là trọng tài giúp
  • 17. quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp luật, chứ tòa án không thể làm thay, chứng minh cho đương sự với những yêu cầu của họ. Thời gian qua, trong một số vụ án đương sự không hiểu về nghĩa vụ của mình về việc tự chứng minh nên đã không hợp tác với Tòa án, gây ảnh hưởng và cản trở cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Có người không đến tòa khi tòa triệu tập để lấy lời khai, không tham gia vào buổi định giá, hòa giải, đối chất, không cho tòa xem xét đối tượng tranh chấp. Bởi vậy, việc quy định đương sự phải chịu hậu quả về việc chứng minh của mình vừa bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự vừa nâng cao trách nhiệm cho đương sự. 1.3.2. Thu thập, giao nộp và bảo vệ chứng cứ Xuất phát từ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình [Điều 06, Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định quyền và nghĩa vụ trong việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Do đó, nếu bất kỳ đương sự nào đang quản lý chứng cứ mà không giao nộp cho Tòa án hoặc không nộp đầy đủ chứng cứ cho tòa án thì cũng phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Giao nộp chứng cứ chỉ là một hành vi cụ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư... mà pháp luật quy định đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ không giao nộp không được coi là căn cứ để xét xử bất lợi cho họ. Trong trường hợp này, dù đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án. Do vậy không lưu trong hồ sơ chứng cứ này, các đương sự khác không được biết cụ thể chứng cứ này nhưng để việc xét xử đúng đắn phải cho thẩm phán xét xử vụ án biết được nội dung của chứng cứ đó. 1.4. Trách nhiệm của tòa án nhân dân 1.4.1.. Xác định chứng cứ Theo quy định tại Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; do đó, việc giao nộp chứng cứ và việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo đúng quy định tại các
  • 18. ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn [Nghị quyết 04...]. Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn chuẩn bị chứng cứ để giúp tòa án có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ kiện. Đây là giai đoạn tòa án kiểm tra lại toàn bộ các chứng cứ của vụ kiện đã có. Tại Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và NQ04/2015- NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về "chứng minh và chứng cứ" như sau: * Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thầm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản sao được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. * Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. * Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục nhờ có bản xác nhận xuất xứ của tài liệu này kèm theo về việc không trực tiếp khai báo cho tòa án. * Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Pháp luật Giám định tư pháp [ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua 29 tháng 9 năm 2004 - Hiệu lực ngày 01/01/2001] và Nghị định số 67/2015/NĐ- CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp. * Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89, thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án phải báo trước cho đương sự việc xem xét thẩm định tại chỗ, phải lập thành văn bản và có đủ thành phần tham gia. * Nếu đương sự viện dẫn chứng cứ là phong tục tập quán phải xác định rõ; tập quán nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận; nếu có đủ điều kiện thì tòa mới chấp nhận đó là chứng cứ để bảo vệ yêu cầu của đương sự.
  • 19. chứng cứ Theo quy định tại khoản 2 điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự thì phải có hai điều kiện sau đây, tòa án mới tiến hành một hoặc một số biện pháp được quy định trong BLTTDS để thu thập chứng cứ thay cho đương sự, đó là: - Đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ. - Đương sự phải có đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Do đó, khi nhận được yêu cầu của đương sự, thẩm phán yêu cầu đương sự trình bày rõ việc đương sự tự thu thập chứng cứ ra sao, lý do tại sao không thể tự mình thu thập được chứng cứ và những biện pháp đương sự đã áp dụng mà vẫn không có kết quả. Trên cơ sở đó để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Nếu có cơ sở kết luận đương sự chưa tự mình chủ động thu thập chứng cứ, chưa áp dụng khả năng mà đương sự có thể thu thập chứng cứ, thì thẩm phán không chấp nhận yêu cầu của đương sự và thông báo cho đương sự biết. Việc thông báo đó phải bằng văn bản. Vấn đề thu thập chứng cứ của Tòa án cần phải đặt ra trên một số quan điểm sau: Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập lại trật tự các quan hệ nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của công dân. Trong các vụ kiện, không phải đương sự nào cũng xác định đúng quyền lợi của mình và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định cho họ. Trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ, mặc dù đã hết sức cố gắng thu thập nhưng vẫn không được mà có đơn yêu cầu thì tòa án nên chấp nhận để thu thập cho đương sự. Có thể một số vụ kiện cụ thể, tòa án không được máy móc cho rằng khi các đương sự chưa đưa ra đủ yêu cầu hay chưa cung cấp đủ các chứng cứ thì tòa án không giải quyết vụ kiện, tòa án có thể phải chủ động trong việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ kiện để giải quyết vụ kiện đúng đắn. * Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng tòa án muốn làm sáng tỏ được vụ kiện đương sự phải tiến hành lấy lời khai. Dù cho các bên đương sự đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự bên kia thì tòa án cũng phải kiểm tra lại và làm rõ hơn. Khi đương sự chưa
  • 20. hoặc nội dung của bản khai chưa đầy đủ, thì thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản khai bổ sung và ký tên của mình. * Trưng cầu giám định. Sự thỏa thuận của các bên đương sự hay có yêu cầu của một trong các bên đương sự yêu cầu tòa án trưng cầu giám định thì phải được thể hiện bằng văn bản. Thẩm phán muốn có quyết định yêu cầu cơ quan chuyên môn có chức năng giám định thì phải thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng về giám định và căn bản liên quan. Ví dụ: Trong vụ án đòi nợ, trong giấy vay tiền ông A đã ký tên vào giấy vay, nhưng khi bị kiện ông A không chấp nhận chữ ký đó là của mình thì tòa hướng dẫn ông A làm đơn đề nghị tòa có quyết định giám định chữ ký tại cơ quan có thẩm quyền giám định tư pháp. * Xem xét, thẩm định tại chỗ. Khi đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét thấy có căn cứ, thì thẩm phán quyết định tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ; quyết định xem xét thẩm định tại chỗ phải được gửi cho ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vào ngày, giờ đã quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán liên hệ để họ có mặt. Trường hợp vắng mặt đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ. 1.4.3. Đánh giá chứng cứ Đây là yêu cầu khắt khe nhất mà tòa phải đảm nhiệm và trách nhiệm này là quan trọng. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ. Tuy nhiên nếu các chủ thể khác vẫn có quyền đánh giá chứng cứ, nhưng tựu chung tòa án vẫn là quan trọng nhất vì là chủ thể có quyền sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động đánh giá chứng cứ của tòa án có tính chất quyết định tới kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, ngoài việc tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về đánh giá chứng cứ thì tòa phải hết sức thận trọng, tỷ mỷ trong việc đánh giá chứng cứ;
  • 21. một cách đầy đủ, toàn diện các ý kiến về đánh giá chứng cứ của Luật sư và những người khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa. 1.4.4. Bảo vệ chứng cứ Trong trường hợp chứng cứ được tòa quản lý thì tòa phải bảo vệ nó. Trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này có thể khó có thể thu thập được thì theo yêu cầu của đương sự hoặc tòa hướng dẫn cho đương sự làm đơn nên biết được việc đó, Tòa án phải có quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như niêm phong, thu giữ chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác. 1.5. trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ Trường hợp tòa án đang thụ lý hồ sơ vụ án, thực hiện yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự sẽ có hai khả năng xảy ra: - Thứ nhất: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ trực tiếp chuyển giao, cung cấp chứng cứ cho tòa án sẽ phải thực hiện bằng biên bản giao nhận, cung cấp chứng cứ. Việc xem xét chấp nhận chứng cứ sẽ được thực hiện như đối với trường hợp đương sự giao chứng cứ cho tòa án. - Thứ hai: Là cá nhân, cơ quan tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ gián tiếp chuyển giao, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của tòa án.
  • 22. ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2.1.1. Điểm mới Kể từ ngày 01-01-2016, khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực đã thay thế cho bộ luật tố tố tụng dân sự 2004 và các pháp lệnh trước đó là: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, ngày 29-11-1989; Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, ngày 17-4-1983; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, ngày 16-3-1994; Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quy định của trọng tài nước ngoài, ngày 14-9-1995 và những quy định về thủ tục giải quyết các vụ án lao động của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu Bộ luật Tố tụng dân sự, tác giả thấy Bộ luật Tố tụng dân sự thể hiện rõ tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Tố tụng dân sự được xây dựng trên cơ sở pháp điển hóa các quy định của pháp luật, bổ sung những thiếu sót về nguyên tắc và cả cho giải quyết trong tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Khắc phục sự tản mạn, trùng lặp, thiếu đồng bộ trong các văn bản trước đây. Đồng thời, thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 57/2001/QH10 ngày 25-12-2001 về phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự, các văn bản trước đây trong một thời gian dài đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của các bên đương sự, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, nhất là trước sự phát triển toàn diện của nền kinh tế, xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các văn bản trước đây đã bộc
  • 23. chế: nội dung chưa đầy đủ, một số quy định không còn phù hợp, Bộ luật Tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống đặt ra. Về chế định chứng minh và chứng cứ Bộ luật Tố tụng dân sự quy định có nhiều điểm mới, tiến bộ như sau: Bộ luật Tố tụng dân sự dành chương VII bao gồm 20 điều [từ Điều 79 đến Điều 98] của phần thứ nhất quy định về chứng minh và chứng cứ, trình tự thu thập, cung cấp, sử dụng và đánh giá chứng cứ..., trong đó xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: 1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. 3. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: 1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp... ... Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Đương sự có quyền bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình". Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tố đa các quyền của đương sự; nhưng đồng thời quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Chỉ trong những trường hợp cần thiết do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thì Tòa án mới tiến hành xác minh thu thập chứng cứ. - Lần đầu tiên Bộ luật Tố tụng dân sự đã có một điều luật quy định khái niệm "chứng cứ" [Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự]; khái niệm này đã phản ánh đầy đủ ba thuộc tính trong nội hàm của khái niệm, đó là: tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định rõ ràng trình tự, thủ tục cung cấp, giao nhận, thu thập, trình tự phát biểu, tranh luận tại phiên tòa..., đặc biệt tranh tụng trong
  • 24. sự được đề cao, tạo ra một cơ chế tố tụng mới cần thiết cho các chủ thể chứng minh. Lần đầu tiên trong Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh [Điều 80]. Quy định này tạo cơ sở cho Tòa án xác định chứng cứ dễ dàng, nhanh chóng. Lần đầu tiên trong Bộ luật đã quy định liệt kê 9 loại nguồn cơ bản của chứng cứ [Điều 82]. Tạo cơ sở để các chủ thể chứng minh xác định chứng cứ để chứng minh. Thủ tục giao nhận chứng cứ giữa đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức... với Tòa án thực hiện theo văn bản giao nhận. Lần đầu tiên trong tố tụng chứng cứ được quy định phải được công khai mọi chứng cứ, trừ trường hợp có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc..., bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân hoặc theo yêu cầu chính đáng của đương sự [Điều 97]. 2.1.2. Một số bất cập, hạn chế Để thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 10 năm 2015 hướng dẫn phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; và ngày 17 tháng 9 năm 2015 Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP về hướng dẫn một số quy định của Bộ Luật tố tụng về "Chứng minh và chứng cứ". Tuy mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 nhưng một số quy định đã bộc lộ những bất cập và hạn chế nhất định thể hiện ở một số nội dung cụ thể sau đây: Tại Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định "Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh", nhưng lại không quy định những tình tiết, sự kiện phải chứng minh. Điều này dẫn tới làm mất cân đối giữa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và làm cho các chủ thể lúng túng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ, nhất là đối với các đương sự: Ví như khoản a, Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: Nhưng tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận. Vậy như thế nào là mọi người đều biết? Biết như thế nào là đúng với sự thật xảy ra? Quy định này cụ thể nhưng rất mập mờ, cơ sở nào mà thẩm phán biết để cho là rõ
  • 25. đều biết để thừa nhận? Việc thừa nhận này có sai lệch, có chủ quan duy ý chí hay không? Quy định này phải cần hướng dẫn cụ thể chi tiết của Tòa án nhân dân tối cao. Trong một vụ việc dân sự khi tham gia tố tụng, đương sự chỉ chứng minh trong phạm vi yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ cũng chưa đủ mà còn phải chứng minh cả những sự kiện tình tiết khác. Ví dụ, đương sự đã cho rằng việc không thể thực hiện được nghĩa vụ tố tụng là do bất khả kháng thì phải chứng minh có sự bất khả kháng. Ngoài ra do thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng nên đương sự thường không biết phải chứng minh làm rõ, những tình tiết sự kiện gì; vì vậy, họ không xác định được các chứng cứ, tài liệu phải cung cấp cho Tòa án để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình. Theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 80 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng và chứng thực hợp pháp thì không phải chứng minh. Quy định này xuất phát từ suy đoán pháp lý; trong thực tế có thể xảy ra việc công chứng viên, hay chứng thực của ủy ban nhân dân cố ý làm sai lệch vì một động cơ nào đó. Bởi vậy, nên chăng quy định mở hơn; và trong trường hợp tòa án có nghi ngờ về tính đúng đắn của việc công chứng, chứng thực thì được xác minh lại. Việc quy định tại các Điều 6 và Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao quyền tự định đoạt của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ cho yêu cầu của mình. Nhưng bên cạnh đó lại hạn chế sự chủ động của tòa án, không đảm bảo cho tòa án giải quyết nhanh, đúng đắn vụ việc dân sự. * Tại khoản 4 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ nhưng hậu quả như thế nào, là gì? Và không quy định rõ ràng, cụ thể. Khi xét xử, tòa án chỉ có thể xử bác yêu cầu hay chấp nhận yêu cầu của đương sự mà thôi. Trường hợp tại Tòa án cấp sơ thẩm, đương sự không chịu cung cấp chứng cứ mà khi vụ án lên tòa án cấp phúc thẩm đương sự mới cung cấp hoặc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mới khiếu nại và cung cấp chứng cứ thì phải chịu hậu quả gì? Hiện nay việc quy định thiếu cụ thể như vậy là khó thực hiện đối với các cấp Tòa án, gây khó khăn cho đương sự còn lại, phải xét xử nhiều lần mà vẫn không xong một vụ án.
  • 26. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tập quán là một trong các nguồn của chứng cứ, Nghị quyết số 04/2005 cũng phần nào giải thích rõ như thế nào tập quán và khi nào tập quán được coi là chứng cứ. Nhưng thực hiện quy định này trong thực tiễn không dễ dàng, việc quy định tại mục 7 thể hiện sự kế thừa tinh hoa của truyền thống dân tộc, tuy nhiên điều này đã dẫn đến việc xác định tập quán không nhất quán, đã có việc vận dụng tùy tiện. 2.2. Thực tiễn xét xử Trong những năm gần đây, các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình có chiều hướng ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các vụ án mà Tòa án giải quyết. Do tác đọng bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có mặt trái của cơ chế thị trường nên các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình ngày càng phức tạp, đặc biệt là các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất, nhà đất, về thừa kế nhà đất, tài sản, về vay nợ, chia tài sản là nhà đất trong các vụ án ly hôn, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày cảng xảy ra nhiều, kéo dài và phức tạp thường tốn nhiều công sức, thời gian xác minh, thu thập, nghiên cứu, đánh giá, bảo vệ, bảo quản chứng cứ và giải quyết vụ việc dân sự. Theo số liệu báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao một số năm gần đây: Năm 1999 ở cấp sơ thẩm, các tòa cấp sơ thẩm đã giải quyết được 92.441 vụ án, trong tổng số 129.25 vụ án đã thụ lý [đạt tỷ lệ giải quyết là 71,54%], ở cấp phúc thẩm số vụ án có kháng cáo, kháng nghị là 12.849 vụ, chiếm 13,89% trong tổng số vụ án đã xét xử sơ thẩm [so với năm 1998 tăng 750 vụ]. Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử, đạt tỷ lệ là 78,8%. Các tòa phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 325 vụ án dân sự trong tổng số 1.176 vụ phải xét xử, đạt 27,63% và đã giải quyết 50 vụ án về hôn nhân và gia đình trong tổng số 111 vụ án phải xét xử phúc thẩm, đạt 45%. Tỷ lệ án tồn đọng 28,46%. Năm 2002: Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết 92.253 vụ trên tổng số 111.721 vụ [đạt tỷ lệ 82,57%]; số vụ kháng cáo, kháng nghị phải giải quyết trình lộ phúc thẩm là 11.524 vụ, chiếm 12,49% tổng số vụ án đã xét xử sơ thẩm, chiếm trong đó, TAND cấp tỉnh đã xét xử phúc thẩm 9.347 vụ án trong tổng số 10.468 vụ án phải xét xử, đạt tỷ lệ 89,29%. Các tòa phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 529 vụ dân sự trong tổng số 928 vụ phải giải quyết, đạt tỷ lệ 54% và đã giải quyết 80 vụ án ly hôn và gia đình trong tổng số 128 vụ án phải giải quyết, đạt tỷ lệ 62,5%. Tỷ lệ án tồn đọng 17,43%.
  • 27. án cấp sơ thẩm đã giải quyết được 95.228 vụ trên tổng 115.632 vụ, đạt tỷ lệ 82,3%; số vụ kháng cáo kháng nghị phải giải quyết theo trình tự phúc thẩm là 12.458 trên 95.228 vụ, chiếm 13% trong tổng số vụ án đã xét xử theo trình tự sơ thẩm. Trong đó, TAND cấp tỉnh đã giải quyết 9.871 vụ trong tổng số 11.402 vụ án phải xét xử, đạt tỷ lệ giải quyết chung là 86,5%. Các tòa phúc thẩm TANDTC đã giải quyết 586 vụ án dân sự trong tổng số 917 vụ án phải giải quyết, đạt tỷ lệ 63,9%. Tỷ lệ án tồn đọng 17,65%. Năm 2005: Tổng các vụ về hôn nhân gia đình là 120.072, giải quyết hòa giải thành 22.017 vụ, công nhận thỏa thuận 24.356 vụ, đưa ra xét xử 31.140, tổng giải quyết được 102972 vụ đạt tỷ lệ 85,7%. Tỷ lệ án tồn đọng 15,3%. Năm 2006: án, việc dân sự sơ thẩm tổng thụ lý 64612 vụ trong đó công nhận thỏa thuận 18193 vụ, đưa ra xét xử 2647 vụ giải quyết được 53.233 đạt tỷ lệ 82,39%. án, việc sơ thẩm hôn nhân gia đình trong tổng số vụ phải giải quyết 63.151 vụ, trong đó chuyển hồ sơ vụ án 114 vụ, hòa giải thành 4944 vụ, công nhận thuận tình xin ly hôn 25.354 vụ, giải quyết cho ly hôn 15.402 vụ tổng giải quyết được 57.277 vụ, đạt tỷ lệ 90,7%. Năm 2010: án, việc dân sự sơ thẩm tổng số vụ thụ lý 69.094 vụ, trong đó, chuyển hồ sơ vụ án 1.702 vụ, công nhân thỏa thuận 18.426 vụ; xét xử 21.157 vụ, tổng số vụ giải quyết 55.395 đạt tỷ lệ 80,2%. án, việc sơ thẩm hôn nhân gia đình tổng số vụ thụ lý 65.238 vụ trong đó chuyển hồ sơ vụ án 817 vụ, hòa giải thành 4098 vụ, công nhận thuận tình ly hôn 28.885 vụ, không chấp nhận đơn xin ly hôn 780 vụ, cho ly hôn là 12.435 vụ; hủy kết hôn trái pháp luật 1.024 vụ, số vụ giải quyết 59.791 vụ, chiếm tỷ lệ 91,6%. Năm 2014: án, việc dân sự sơ thẩm tổng số vụ thụ lý 74.571 vụ; trong đó chuyển hồ sơ vụ án 1.566 vụ, công nhận thỏa thuận 23.339 vụ, xét xử 25.179 vụ, tổng số vụ giải quyết được 63.079 vụ chiếm tỷ lệ 84,6%. án, việc sơ thẩm hôn nhân gia đình tổng số vụ thụ lý 68.833 vụ, trong đó chuyển hồ sơ 732 vụ, hòa giải thành 4.589 vụ, công nhận thuận tình ly hôn 31.280 vụ, không chấp nhận đơn xin ly hôn 1.286 vụ, cho ly hôn 14.463 vụ, hủy kết hôn trái pháp luật 842 vụ, tổng số vụ việc giải quyết được 64059 vụ, chiếm tỷ lệ 93,1%.
  • 28. số vụ việc dân sự sơ thẩm thụ lý 287721 vụ, trong đó chuyển hồ sơ 9339 vụ, công nhân thỏa thuận 87655 vụ, đưa ra xét xử 99461 vụ số vụ giải quyết được 271229 chiếm tỷ lệ 95,9%. Số vụ việc sơ thẩm hôn nhân gia đình, tổng số thụ lý 288980 vụ, trong đó chuyển hồ sơ 1936 vụ, không chấp nhận đơn xin ly hôn 3716 vụ, công nhân thuận tình ly hôn 135058 vụ, hòa giải thành 21383 vụ, cho ly hôn 65440 vụ, hủy kết hôn trái pháp luật 2638 vụ, tổng số vụ giải quyết 284205 vụ, chiếm tỷ lệ 93,1%. [Tất cả thông tin trên được cung cấp từ Tòa án nhân dân tối cao]. Qua các số liệu nêu trên, thấy rằng ngày càng xảy ra tranh chấp, số lượng mỗi năm tăng dần. Đặc biệt năm 2017 theo thống kê tăng gấp gần bốn lần năm 2014 về tổng số vụ. Bộ luật tố tụng đã có quy định rõ việc cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nhưng nhiều trường hợp đương sự không thực hiện tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa, điều đó làm ảnh hưởng không ít đến việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự. Vai trò của luật sư tham gia bảo vệ quyền, lợi ích cho đương sự, giúp đương sự cung cấp chứng cứ và tư vấn về tố tụng dân sự còn chưa cao chiếm tỷ lệ còn ít trong các vụ tranh chấp dân sự hiện nay. * Mặc dù từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến nay đã hai năm; Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2015 hướng dẫn một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về "chứng minh và chứng cứ" nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề trong hoạt động thực tiễn cụ thể sau: Tồn tại về việc thu thập chứng cứ: có không ít trường hợp thẩm phán giao cho thư ký điều tra, thu thập, kể cả hòa giải; hoặc có một số Tòa vì thiếu thẩm phán nên giao cho thư ký [thư ký đã già nhưng không có điều kiện học lớp thẩm phán để được bổ nhiệm] thường xuyên hòa giải trong hầu hết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Điều đó dẫn tới dù có kinh nghiệm nhưng chưa được đào tạo chuyên môn và không bị ràng buộc nhiều về trách nhiệm nên việc thư ký hòa giải, thu thập chứng cứ, lấy lời khai rất hời hợt và chất lượng kém, ảnh hưởng hiệu quả giải quyết vụ việc dân sự. Nếu theo quy định của pháp luật nhưng đây là bước xử lý "tình thế" ở một số Tòa do nhiều nguyên nhân: do mới được tăng thẩm quyền thư ký nhiều, thẩm phán thiếu, một số thời gian nào đó xảy ra tranh chấp nhiều; Do ở một số Tòa án ở một số địa phương
  • 29. bộ Tòa làm thư ký từ khi vào ngành đến lúc về hưu bởi họ không đủ điều kiện, tiêu chuẩn [chủ yếu là bằng cấp] dẫn đến họ được châm chước, ưu ái trong giải quyết vụ việc dân sự. Ở một số Tòa án địa phương, không đã bỏ qua sự có mặt của đương sự trong việc định giá, xem xét thẩm định tại chỗ; ý kiến chủ quan của Tòa và một số thành viên của ủy ban nhân dân đã làm căn cứ chứng minh. Tại một số Tòa án việc giao nộp chứng cứ phòng làm biện ban giao nhận chứng cứ, đương sự không được giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ. Về mặt tâm lý, đương sự không bao giờ muốn mình phải kiện tụng. Khi bắt buộc phải thực hiện do bị vi phạm quyền lợi. Khi đến Tòa án họ thường có cảm giác lo lắng, thậm chí có đương sự sợ sệt.Chính vì lẽ đó đã xẩy ra không ít cán bộ Tòa án có thái độ tiếp dân quan liêu, hách dịch và đã tước bỏ bớt quyền của họ như được hướng dẫn, được giải quyết, được bảo vệ quyền lợi hợp pháp khi bị xâm phạm [nghi là bị xâm phạm]. Thực tế đã không ít vụ tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc bị đưa ra xét xử vắng mặt một bên đương sự do Tòa án không giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của mình; họ đã bị bất lợi thậm chí mất quyền khởi kiện; ví dụ anh A bị anh B khởi kiện do không được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Bởi vậy anh A đã vắng mặt Tòa đã xét xử vắng mặt khi Tòa triệu tập đến lần thứ 2 hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc trường hợp phía nguyên đơn có yêu cầu nhưng do một số nguyên nhân nào đó mà giấy triệu tập của Tòa án hợp lệ vẫn không có mặt, nguyên đơn một thời gian sau đến Tòa án tuyên bố áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành; đến khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thì hành và hiện nay thực tế xét xử cho thấy, Tòa án nhân dân các cấp, đặc biệt là Tòa án ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu thẩm phán, trình độ thẩm phán có bằng cử nhân Luật chính quy rất ít điều đó ảnh hưởng không ít trong việc giải quyết vụ việc dân sự, chính xác, đầy đủ, toàn diện, bảo đảm, bảo vệ chứng cứ chưa thực sự tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định pháp luật, tố tụng dân sự. ở các Tòa án nhân dân vùng sâu, miền núi vận dụng phong tục tập quán là chứng cứ không nhất quán, chủ quan trong xác định và đánh giá.
  • 30. bảo quản chứng cứ ở một số Tòa, đặc biệt Tòa cấp huyện còn rất lỏng lẻo, thẩm phán một số Tòa án còn đưa cả hồ sơ một cách tùy tiện ra khỏi trụ sở Tòa án, đặc biệt tủ lưu giữ hồ sơ [các vụ án nói chung và vụ việc dân sự nói riêng] đơn giản và an toàn không cao có thể dẫn đến mất hồ sơ, tài liệu... chứng cứ gốc quan trọng để giải quyết vụ án. Đặt ra giả thiết như động đất, bão tố, hỏa hoãn chắc chắn không tránh khỏi việc mất, hư hỏng làm giảm, mất giá trị chứng minh của chứng cứ mà Tòa án đang lưu giữ. Tại Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về tài liệu chứng cứ kém theo đơn khởi kiện: "Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp". Luật quy định như trên, nhưng trong thực tiễn ở mỗi Tòa lại yêu cầu mỗi kiểu điều đó dẫn đến đương sự lúng túng, một số vụ việc dân sự ở một số Tòa đương sự bị trả lại đơn khởi kiện mà không tuân thủ đúng theo Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự. Công văn số 115/2014/KHXX ngày 22-7-2014 của Tòa án nhân dân tối cao về thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Theo điểm a mục 2 công văn này có quy định: Kể từ 01-7-2014 trở đi Tòa án chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp đất đai nếu đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã mà một bên đương sự không nhất trí và khởi kiện đến Tòa. Ví dụ, không thể hòa giải được vì đương sự một bên cố tình không tham gia, hay đương sự không thể lấy được biên bản hòa giải. Vậy đặt ra quy định này vô hình chung trong một số trường hợp đã hạn chế, tước bỏ quyền khởi kiện của công dân.
  • 31. SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Chủ Đề