Bắt phong trần phải phong trần nghĩa là gì

Thơ rất hay mà lời lại rất khiêm nhường: ‘Lời quê chắp nhặt dông dài.’ Nếu thơ của cụ Nguyễn Du mà quê thì thơ mình còn… quê tới chỗ nào nữa!

Câu chót của truyện Kiều (mua vui cũng được một vài trống canh) cóvần với câu đầu (trăm năm trong cõi người ta) nên khi các cô miềnBắc hát đối thường hỏi:

Truyện Kiều anh học đã làu

Đố anh kể được một câu hết Kiều?

Bên con trai trả lời:

Trăm năm trong cõi người ta

Mua vui cũng được một vài trống canh.

(Một và hay một vài đều cùng nghĩa.) Có nghĩa là trong cuộcsống trăm năm người ta thấy sự việc đi qua một cách chớp nhoáng giống nhưchỉ trong một vài trống canh thôi. Câu này cũng có ý nghĩa lắm.

‘Cho hay muôn sự tại trời.’ Câu này hầu như nói rằng tất cả mọi sựmọi việc trên đời đều được ông Trời sắp đặt như trong thuyết Thiên mệnh.Trời ở đây có thể là ông Trời nhưng cũng có thể là mạng lưới nhân quả. Tuynói ‘muôn sự tại trời’ nhưng sau đó cụ Nguyễn Du lại nói: ‘Đãmang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.’ Haiđiều có vẻ như chống trái nhau, nhưng lại có thể bổ túc cho nhau. Đứng vềphương diện văn chương, tư tưởng, tâm lý thì không nói gì, nhưng đứng vềphương diện Phật học thì cái thấy của cụ Nguyễn Du chưa được rạch ròi lắm.

Trời kia đã bắt làm người có thân.’ Như vậy làm người, có cái thânnày có thể không phải là một điều vui mà là một sự đày đọa (‘Hữu thânhữu khổ phàn nàn cùng ai?). Nhiều người nói ‘Tôi không muốn làm người.Tôi không muốn có thân. Tôi chống đối lại ý tưởng của Trời Đất của ThượngĐế vì tôi thấy làm người mệt quá!’ Trong khi đó được làm người có thể làmột niềm vui. Tùy theo cách nhìn của mình. ‘Trời kia đã bắt làm ngườicó thân’ là tư tưởng có khuynh hướng yếm thế.

‘Bắt phong trần phải phong trần’ nghĩa là nếu trời bắt mình phảisống cuộc đời gió bụi (truân chuyên, đau khổ, rủi ro) thì con người phảisống cuộc đời giớ bụi. Thuở trời đất nổi cơn gió bụi.’ Trời đã làmra con người rồi lại làm ra gió bụi để cho con người lãnh đủ. Nhiều ngườichống đối ông Trời, chống đối Thiên mệnh là vì vậy. – ‘Cho thanh caomới được phần thanh cao.’ Thanh cao có nghĩa là nhàn hạ, có hạnh phúc,không bị rủi ro nhiều (ngược lại với phong trần.) Có một lực lượng nào đóquyết định việc mình sẽ bị phong trần hay sẽ được thanh cao. Vận mệnh conngười như đã được viết sẵn trong một cuốn sổ ở Thiên Đình. Con người chếtcứng. Vùng vẫy thế nào cũng không thoát được. Nếu số mình là gió bụi phongtrần thì mình sẽ là gió bụi phong trần suốt đời. Còn nếu số mình đượcthanh cao thì dù mình làm biếng, không tranh đấu gì hết cũng vẫn đượcthanh cao, khỏe khoắn. Đó là thuyết Thiên mệnh hay Định mệnh. Thiên làtrời; mệnh là mệnh lệnh hay mạng. Chữ ‘mạng’ cũng có nghĩa là đờisống. Thiên mệnh nghĩa là ông Trời nắm giữ vận mạng, quyết định đời sốngcủa mình. Có những trường hợp người ta không dùng chữ ‘ông Trời’ ;tuy không có ông Trời nhưng số mạng con người đã được quyết định trước. Đólà thuyết Định mệnh. Tất cả đều đã được xếp sẵn, con người cứ việc vângchịu thôi chứ không thể nào phản đối, xoay sở hay cựa quậy gì được hết.Định là déterminé. Khuynh hướng tin vào Thiên mệnh hay Định mệnh rất mạnhtrong tâm trí con người. Con người tuy vùng vẫy cũng khá, mưu mô cũngnhiều nhưng rốt cuộc cũng cảm thấy mình bị kẹt trong lưới Thiên mệnh. Vùngvẫy khó quá cho nên cuối cùng phải tin rằng có một Thiên mệnh hay Địnhmệnh. Khi còn trẻ, chúng ta hay phản đối tư tưởng Thiên mệnh hay Định mệnhnày. Chúng ta nói: ‘Mình có sức mạnh, có trí tuệ, nhiều thứ lắm… Mình sẽchống lại!’

Hồi Thúy Kiều còn nhỏ, một ông thầy tướng nói: ‘Suốt đời cô sẽ khổ vì tấtcả những tinh hoa (tài sắc) trong con người cô đều phát tiết ra ngoài hết.Cô không giấu giữ được cái gì ở bên trong nên phải khổ suốt đời.’ - Ôngthầy tướng này nguy lắm! người ta còn con nít mà nói như vậy là gieo mộthạt giống dau khổ thắc mắc và lo sợ vào trong lòng người ta! Người ta cứyên chí rằng mình sẽ khổ suốt đời, đó là cái không hay. - Trong đêm đầutiên gặp Kim Trọng, Thúy Kiều nói: ‘Nhìn anh em thấy anh là người có phướcđức. Em thì không. Vì vậy em không biết cuộc tình của chúng ta có thànhtựu được hay không?

‘Nhớ từ năm hãy thơ ngây,

‘Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:

‘Anh hoa phát tiết ra ngoài,

‘Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

‘Trông người lại ngẫm đến ta,

‘Một dày một mỏng biết là có nên?’

Kim Trọng nghe Thúy Kiều lo lắng như vậy đã dùng đủ cách để trấn an”

Sinh rằng: ‘Giải cấu là duyên,

‘Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!

‘Ví dù giải kết đến điều,

‘Thì đem vàng đá mà liều với thân.’

- Trong lịch sử, con người đã quyết định và đã chiến thắng ông Trời nhiềulần rồi. Em đừng lo! Chúng ta là những người còn trẻ, chúng ta là nhữngngười thông minh. Chúng ta sẽ tranh đấu! Nếu cần anh sẽ hy sinh cái thânnày!’ Ai trong chúng ta khi còn trẻ cũng đều như Kim Trọng cả. Cố nhiênkhi yêu mình có rất nhiều ‘xí quách’. Và mình cứ hứa tùm lum mà không biếtsức mình làm được tới đâu. Rốt cuộc mười lăm năm mình mới biết là mình làmđược gì.

Tư tưởng Thiên mệnh trong truyện Kiều còn rất mạnh. Tư tưởng đó được ôngthầy tướng trình bày và trước Kim Trọng, người yêu, cố tình chống lại.Nhưng rốt cuộc Đạm Tiên, con ma, đã phát triển và củng cố niềm tin đó, íthay nhiều. Ta phải nhìn lại, xét thử mình tin bao nhiêu phần trăm ở thuyếtThiên mệnh hay Định mệnh đó. Đây là bốn câu xác định tuyệt đối về thuyếtThiên mệnh hay Định mệnh:

Cho hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Nhưng đến những câu kế thì ta thấy thuyết đó bắt đầu lung lay: ‘Có đâuthiên vị người nào.’ Nghĩa là ông Trời rất công minh. Không phải ôngmuốn cho mình thanh cao thì mình được thanh cao, cho mình phong trần thìmình phải phong trần; phải có lý do gì đó thì người này mới phong trần,người kia mới thanh cao. Lý do đó nằm ở chỗ nào?

Có đâu thiên vị người nào,

Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.

Hai yếu tố tài và mệnh đóng một vai trò nhất định trong sự quyết đinh mộtngười phải đau khổ hay hạnh phúc: Theo triết lý của nguyên lục (mà cụNguyễn Du cũng bị ảnh hưởng khi viết truyện Kiều) thì giữa tài và mệnh cósự chống đối nhau. Càng có tài bao nhiêu thì số mạng càng ngang trái bấynhiêu. Người càng có tài thì càng khổ. Những người có tài mà nhiều ngườithấy được sẽ bị ganh ghét. Sắc và tài là hai cái khi phát hiện ra ngoàinhiều quá thì sẽ làm người mang nó khổ. ‘Anh hoa phát tiết ra ngoài’ một trăm phần trăm thì: ‘Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.’ Pour être heureux vivonscachés: Muốn được hạnh phúc thì phải ở ẩn đi. Chứ nếu người ta thấymình có hạnh phúc thì người ta sẽ ghen, sẽ đập cho mình tan nát. Cho nênhạnh phúc không bao giờ nên phô trương ra cả. Mà loài người rất dại dột!Loài người không có hạnh phúc nhưng hay giả đò là mình có hạnh phúc. Cónhững cặp trong nhà thì lục đục đánh nhau, đi ra ngoài thì lmà như là mìnhcó hạnh phúc nhiều lắm. Trong khi đó trí tuệ là khi có hạnh phúc thật sựthì phải giả bộ là không có hạnh phúc, che dấu đi, nếu không sẽ bị ganhtuông. Thuyết tài mệnh tương đố ở đây chỉ nói rằng có tài và có sắc thìkhổ chứ không nói rõ là vì tâm lý ganh ghét của con người. Căn cứ vào nhận thức đó thì lỡ mà mình đã có tài và có sắc rồi thì mìnhphải làm sao để giấu tài, giấu sắc của mình đi. Mặt hơi đẹp thì phải lấylọ nghẹ hoặc bùn đất bôi lên cho bớt đẹp. Có tài thì giả bộ như mình nguđể người ta khỏi ghét. Mấy cô gái không đẹp thì các cô sợ ít. Mặt cô màxinh thì cô sợ nhiều. Đức tin của người ta cũng có căn cứ vào sự thật xảyra chứ không phải chỉ nghe một lý thuyết mà tin liền. Ở Đông phương chúngta phải biết ở ẩn, phải làm như ngu, như điếc, như câm trong những lúc khókhăn thì mới sống được. Còn nếu mình nói thẳng, chứng tỏ mình là người códũng, có tài thì mình chết rất mau. Ở Tây phương người ta cũng nói rằngnếu muốn sống hạnh phúc thì phải sống ẩn danh.

‘Có đâu thiên vị người nào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.’ Chúngta thấy ở đây đã bắt đầu có sự đóng góp của con người trong khổ đau hayhạnh phúc của mình rồi. ‘Có đâu thiên vị người nào’ tức là ông Trờicông minh. Trời công minh có nghĩa là con người có đóng một vai trò nàođó. Người tốt thì được cái này, người xấu thì bị cái kia. Không phải ôngTrời muốn gì thì được đó. Quyết định của ông Trời phải căn cứ trên tháiđộ, hành vi của con người. Từ thuyết Định mệnh đi tới thuyết Nghiệp. ‘Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai’ có nghĩa là cả hai đều quantrọng.Tuy tài năng và số mệnh chống trái nhau nhưng cách sống (hành động)của con người cũng có thể đóng góp vào sự quyết định vận mạng của mình.

Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài cùng với chữ tai một vần.

Chơi chữ rất khéo. Nếu có tài mà khoe khoang và hống hách thì sẽ bị tainạn. Chúng ta không biết những chi tiết về đời sống hàng ngày, những rủiro và may mắn của cụ Nguyễn Du; chúng ta chỉ biết khi được lệnh phải ralàm quan dưới triều Nguyễn thì cụ làm như ngu như điếc. Trong những buổihọp nội các cụ không nói gì hết. Không khoe tài của cụ ra; trong khiNguyễn Du là người có tài! Có một hôm vua Gia Long nói: ‘Này khanh, nhànước dùgn người là để có thêm trí tuệ, thêm nhận thức để chính trị có thểđem thêm lợi ích cho nước cho dân. Tại sao khanh không chịu nói gì hết màcứ ngồi im lặng như vậy?’ Lý do mà mọi người đều nói là cụ Nguyễn Ducó cảm tưởng là ra làm quan với triều đình Nguyễn tức là không trrungthành với nhà Lê, giống như một người đàn bà phản bội chồng mình. ‘Trung thần bất sư nhị quân’, người thần tử trung kiên thì không baogiờ thờ hai vua cả. Đã thờ vua Lê mà lại ra thờ vua Nguyễn thì không còntrinh tiết nữa. Lâu nay dạy truyện Kiều người ta thường nói tới điều đó.Nhưng ít ai nói tới lý do thứ hai: người có tài mà hợm hĩnh, khoe khoangthì sẽ đau khổ. Có lẽ thái độ giả ngu giả điếc của cụ Nguyễn Du trongtriều đình là để tự bảo vệ tấm thân của mình. Và như vậy có nghĩa là trướcđó cụ đã từng đau khổ vì cụ là người có tài. ‘Chữ tài liền với chữ taimột vần’ câu thơ này có thể đến trực tiếp từ kinh nghiệm của cụ. Khicó nhận thức ‘Có tài mà cậy chi tài’ cụ Nguyễn Du đã thực tập điềuđó. Có lẽ cụ cũng chưa quên được những khổ đau của mình ngày xưa do chỗchưa biết áp dụng triết lý này cho nên bây giờ quyết định giấu tài giấusắc của mình đi cho được an ổn.

Từ thuyết Thiên mệnh và Định mệnh chuyển sang cách sống sự khôn khéo củacon người có thể làm cho cuộc sống con người bớt khổ đau. Bây giờ cụ lạinói tới thuyết Nghiệp báo:

Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Nghiệp báo này là do đâu? Do người hay do Trời? Không được rõ ràng lắm.Chữ nghiệp trong câu thơ này chỉ có nghĩa tiêu cực thôi. Trong khiđó chữ nghiệp (karma) trong Phật giáo có nghĩa là hành động (action.)Nghiệp tốt đưa đến quả báo tốt, nghiệp xấu đưa đến quả báo xấu. Thườngthường trong văn chương ngoài đời, chữ nghiệp luôn được dùng trong nghĩaxấu. Điều này chứng tỏ trong quần chúng sự hiểu biết về giáo lý Nghiệp báokhông được vững chãi. Ở Tây phương cũng vậy, karma nghĩa là ‘bad karma’chứ không hàm chứa ‘good karma’. Bổn phận người tu là phải giải thích choquần chúng để điều chỉnh cách sử dụng chữ nghiệp này. Nghiệp có hai loại:thiện nghiệp (kusala) và ác nghiệp (akusala). Thiện nghịêp là hành độngđem lại an lạc cho mình và người trong hiện tại và trong tương lai. Ácnghiệp ngược với Thiện nghiệp. Hành động (nghiệp) phát xuất từ thân, miệngvà ý gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ba nghiệp này có thể làthiện hay ác. Nghiệp có nghiệp nhân (karma hetu) và nghiệp quả (karmaphala.) Phải phân biệt nghiệp nhân và nghiệp quả, nghiệp thiện và nghiệpác. Khi nói ‘Đã mang lấy nghiệp vào thân’ cụ Nguyễn Du hiểu rằngnghiệp là nghiệp xấu chỉ đem tới quả xấu thôi. ‘Cũng đừng trách lẫntrời gần trời xa’: con người đã có nghiệp trong người rồi thì đừng nóirằng tại Trời quyết đinh thế này thế kia. Câu này làm sụp đổ câu ‘Ngẫmhay muôn sự tại trời.’ Vừa mới nói: ‘Tất cả đều do Trời!’ Tưtưởng Nghiệp báo và Nhân quả của cụ Nguyễn Du vì vậy chưa được rõ ràng.

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Căn là gốc rễ, Thiện căn là gốc rễ của cái thiện. ‘Thiệncăn ở tại lòng ta’ nghĩa là gốc rễ cái thiện nằm ngay ở trong lòngmình chứ không ở đâu xa. ‘Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Tâm nàylà tâm gì? Tâm có tâm ác, tâm thiện, tâm chánh, tâm tà. ‘Chữ tâm’ dùng trong này nghiêng về phía thiện: ‘Thiện căn ở tại lòng ta.’ Chữ Thiện căn (kusala mula) là một danh từ thuần túy Phật học; cụNguyễn Du đã được nghe những nhận thức của cụ chưa được hệ thống hóa. CụNguyễn Du đã thấy trong lòng chúng ta có những hạt giống thiện. Chịu khótrở về vun tưới những hạt giống đó thì tâm của chúng ta sẽ thiện và ta sẽđược nhờ và vào đó rất nhiều, vì: ‘Chứ tâm kia mới bằng ba chữ tài. ‘chữ tâm’ đâu có thể ‘bằng ba chữ tài’ được! Nếu mình không có tài mà có thiện tâm thì mình vẫn có hạnh phúc và hạnhphúc hơn những người có tài mà không có thiện tâm. Đó là triết lý của cụNguyễn Du. Trong đoạn này chúng ta thấy chữ nghiệp được dùng theo nghĩanghiệp xấu và chữ tâm dùng theo nghĩa thiện tâm. Cách dùng từ không đượcchính xác. Vì nghiệp có thể là nghiệp lành hay nghiệp dữ, tâm có thể làtâm xấu hay tâm tốt. Và nếu tâm mà xấu thì

Triết lý truyện Kiều cũng được phát biểu qua lời bình phẩm và tiên đoáncủa nhân vật Tam Hợp Đạo Cô. Sau khi Thúy Kiều đã đền ân báo oán, sư chịGiác Duyên từ giã ra đi. Kiều xin sư chị ở nán lại với mình:

Nàng rằng: ‘Thiên tải nhất thì,

‘Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.

‘Rồi đây bèo hợp mây tan,

‘Biết đâu hạc nội mấy ngàn là đâu!’

Đây là một đoạn văn xác nhận thuyết Định Mệnh:

Sư rằng: ‘Cũng chẳng mấy lâu,

‘Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.

‘Nhớ ngày hành cước phương xa

‘Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri,

‘Báo cho hội ngộ chi kỳ,

‘Năm nay là một nữa thì năm năm.

‘Mới hay tiền định chẳng lầm,

‘Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.

‘Còn nhiều ân ái với nhau,

‘Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?’

Nàng rằng: ‘Tiền định tiên tri,

‘Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.

Theo thuyết tiền định và định mệnh thì những gì xảy ra trong đời mình đềuđã được viết trước rồi; chúng ta cứ việc đợi, đến lúc đó thì việc đó sẽxảy ra. Nếu là người có khiếu tiên tri, nhìn cho kỹ thì có thể đoán trướccái gì sẽ đến. Tất cả đã có sẵn, đã được quyết định trước. Như vậy thìchuyện tu hành có ích lợi gì đâu! Tu hay không tu thì nó cũng đã đượcquyết định sẵn rồi! Tại sao phải tu? Vấn đề được đặt ra là con người có tựdo hay không? Con người có thể can thiệp vào mạng lưới của Nhân Quả đểthay đổi hay không? Đạo Phật trả lời như thế nào?

Hôm trước bên trung tâm Tây Tạng có người đặt câu hỏi vấn đề quyết định:làm thế nào để có một quyết định thông minh? Tôi trả lời: Trước khi mìnhquyết định thì sự việc đã được quyết định rồi. Mình có cảm tưởng mình cótự do quyết định, ai dè tất cả đều đã được quyết định trước! Tôi đưa ramột ví dụ: Bữa đó tôi vào trong một gian hàng Nhật Bổn để mua một vuônglụa về cột mấy cuốn kinh mới thỉnh. Họ treo một dọc dài mấy trăm tấm hìnhvẽ, màu sắc khác nhau. Mình đi ‘chọn’. Cô tiếp viên hỏi: ‘Thầychọn cái nào?’ Tôi cười nói: ‘Tôi đâu có chọn. Tôi để nó chọn tôimà!’ Cô ta ngạc nhiên. Nhưng sự thực là như vậy. Mình có cảm tưởng, ảotưởng là mình có đầy đủ tự do, muốn chọn cái nào thì chọn; kỳ thực sự chọnlựa đã được hoàn tất từ bao giờ rồi. Khiếu thẩm mỹ của mình, giáo dục củamình, những hạt giống ông bà trao truyền, sự tu học của mình, cái thấy củamình về vẻ đẹp, cái trang nhã… tất cả những cái đó đều viết sẵn trong mìnhrồi. Mình trình diện ra trước những tấm khăn đó, khi đi ngang qua ‘nó’ thì mình bị ‘nó’ bắt. Cái gọi là ‘tiếng sét ái tình’ cũng vậy. Tại sao có ‘tiếng sét’ khi gặp anh đó hay cô đó mà khôngcó tiếng sét khi gặp những người kia? Tại vì đã được quyết địnhtrước. Con người thường có ảo tưởng là mình có tự do trong khi chọn lựa.Những người tin ở thuyết định mệnh và tiền định không có ảo tưởng nhiều vềsự tự do của mình. Tôi còn nói thêm: Ví dụ có hai hoặc ba con đường chọnlựa. Mình tưởng rằng mình chọn lầm một cái thì mình sẽ khổ suốt đời: ‘Ngàyxưa nếu mình chọn đi con đường kia thì mình sẽ không khổ như bây giờ!’ Giảdụ có ba anh chàng mà mình bắt buộc phải chọn làm chồng. Mình đã lớn rồi,cha mẹ buộc: ‘Mày phải chọn một trong ba đứa!’ Mình phân vân… Chọn bừa anhchàng thứ hai rồi đau khổ suốt đời. Mình nói: ‘Phải chi ngày xưa mình chọnanh chàng thứ nhất hay thứ ba thì chắc mình không đau khổ như thế này!’Mình mà như thế thì chọn anh chàng nào mình cũng làm cho anh chàng ấy đaukhổ mà thôi. Tâm mình chứa nhiều phiền não và u mê thì sống ở Mỹ cũng khổ,ở Pháp cũng khổ, mà ở Anh cũng khổ… Không phải từ trại tỵ nạn xin đi nướcnày hay nước khác thì mình có hạnh phúc. Mình thường nghĩ vì đã chọn conđường đó cho nên bây giờ mới có nhiều vấn đề. Biết vậy ngày xưa mình đừngđi con đường này! Đi con đường khác thì sẽ khá hơn! Đó là tự an ủi vậy màthôi. Chỉ là đứng núi này trông núi nọ. Thấy được điều này thì mình sẽkhông có ảo tưởng nhiều về cái tự do của mình.

Có nhiều người tin rằng mình không làm gì được hết. Mạng lưới nhân quảtrùng trùng như vậy, quyết định hết rồi thì có vùng vẫy cách nào cũngkhông thể thoát ra khỏi. Mình chỉ là nạn nhân! Sống như vậy thì rất đaukhổ, chịu không nổi. Cho nên có thuyết ngược lại, chủ trương rằng conngười có tự do, có ý chí tự do (free will.) Đứng về phương diện triết học,con người có tự do chọn lựa hay không? Khi hành động, mình có tự do tronghành động đó không, hay những nguyên do từ quá khứ đã quyết định dùm mìnhrồi? Một số trong chúng ta đứng về phía tin tưởng rằng chúng ta có khônggian, có tự do - nếu không thì đời sống không có ý nghĩa. Trong đạo Bụtchúng ta học về mạng lưới trùng trùng nhân quả. Chúng ta thấy tự do củamình nằm chỗ nào? Bây giờ chúng ta hãy tạm gác vấn đề lại. Hãy trở vềchuyện Kiều đọc thêm một đoạn nữa. Từ câu 2653, khi sư chị từ giã sư em đivân du và gặp lại Tam Hợp đạo cô, hỏi thêm về tương lai của nàng Kìêu:

‘Người sao hiếu nghĩa đủ đường,

‘Kiếp sao gặp những đoạn trường thế thôi?’

Đây là lời đạo cô Tam Hợp:

Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,

‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.

‘Có trời mà cũng tại ta,

‘Tu là cỗi phúc tình là dây oan.

Mọi tai nạn và mọi may mắn đều do trời quyết định. Tuy nhiên: ‘Cỗinguồn cũng ở lòng người mà ra.’ Lý thuyết này phù hợp với những câuchúng ta đọc ở cuối truyện Kiều. Tuy rằng trời định nhưng cỗi ngụồn lạivẫn ở trong tâm của con người. ‘Có trời mà cũng tại ta’: tức là haiyếu tố, Trời (định mệnh) và con người. Nếu đi xa hơn chúng ta có thể nghĩTrời là cộng nghiệp và ta là biệt nghiệp. Cái gì xảy ra không phải chỉ docá nhân và biệt nghiệp ta làm ra mà cũng do cộng nghiệp làm ra. Ví dụ ngồitrên máy bay đều có thể chết, đó là cộng nghiệp. Nếu có một người thoátđược, không chết mà chỉ bị thương sơ sơ, đó là biệt nghiệp. Biệt nghiệptrong cộng nghiệp. Chữ ‘trời’ ở đây có thể được hiểu là cộng nghiệp(collective karma) và ‘ta’ ở đây là biệt nghiệp individuel karma.Ta đang cùng ngồi ở Làng Mai. Chúng ta có cộng nghiệp Làng Mai do đó mớingồi chung. Nhưng trong khi ngồi đây, cảm giác của chúng ta có khác. Ngườithì thanh thoát nhiều hơn, người thi lo lắng nhiều hơn. Đó gọi là biệtnghiệp. Không phải ngồi chung một chỗ mà ta có cảm tưởng giống nhau.

‘Phúc họa đạo trời’ là thuyết Định mệnh (determinism). ‘Cỗinguồn cũng ở lòng người mà ra’ đó là thuyết do tâm tạo. Con người cũngđóng được một vai trò nào đó, mấy chục phần trăm. ‘Có trời mà cũng tạita’ là tiền đề để đi đến kết luận: ‘Tu là cỗi phúc tình là dâyoan.’ Ta có thể làm gì? Ta có thể tu, làm nhẹ đi nghiệp của ta và đemlại một ít hạnh phúc. Còn nếu ta không tu, cứ để cho sợi dây tình cảm kéobuộc thì ta tọa cho mình những oan nghiệp đau khổ.

Và đây là lời phán quyết của ‘bác sĩ tâm lý trị liệu’ Tam Hợp ĐạoCô phân tích tâm lý Kiều:

‘Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,

Vô duyên là phận hồng nhan đã dành.

Tuy có thông minh, tài năng và sắc đẹp nhưng Kiều không có điều kiện hạnhphúc. Đáng lý sắc sảo khôn ngoan thì phải thành công trong cuộc đời vàhạnh phúc chứ! Nhưng vì không có cái căn bản là những thiện duyên cho hạnhphúc nên Kiều phải đau khổ. Cái nghiệp của Kiều là vô duyên. Điềunày đã được viết trước rồi. Nhưng nếu chỉ như vậy thì chưa đến nỗi gì cholắm. Vì những cái này nữa nên mới khổ thêm.

‘Lại mang lấy một chữ tình,

‘Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.

‘Vậy nên những chốn thong dong,

‘Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.

‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,

‘Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.

Ở những chỗ đáng lý mình được tự do, thong dong mà mình vẫn ngồi khôngyên, đi không vững. Những con ma sầu não, ma quá khứ, ma tương lai, ma hờngiận từ bên trong hiện ra để kéo mình đi. Tuy cùng đi thiền hành với nhữngngười khác nhưng kỳ thực mình không đi cùng một hướng, mình bị những maquỷ đưa về những nẻo tối tăm. Và vì ma quỷ đưa về những nẻo đó cho nênmình gặp những tai nạn chớ có gì đâu!

‘Hết nạn ấy đến nạn kia,

‘Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần,

‘Trong vòng giáo dựng gươm trần,

‘Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.

‘Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,

‘Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.

‘Oan kia theo mãi với tình,

‘Một mình mình biết một mình mình hay.

‘Làm cho sống đọa thác đày,

‘Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!’

Đạo cô nói rằng Kiều sẽ khổ suốt đời. Đó là một lời kết án. Án này khôngphải chỉ do Định mệnh tuyên đọc. Trời định như vậy nhưng Thúy Kiều đãkhông tranh đấu được. Chưa biết nắm lấy tâm mình để tìm một nẻo thoát. Cứbị ‘những sợi dây tình vướng víu kéo đi,vì vậy trước sau gì cũng đi tới chỗ tự tử ở sông Tiền Đường. Tuy là mộtnhà tiên tri nhưng Tam Hợp đạo cô đã không nói rằng tất cả đều do nhữngđiều kiện khách quan, cộng nghiệp (Trời.) Tam Hợp nói: ‘Có trời mà cũngtại ta.’ Biệt nghiệp của Thúy Kiều cũng góp phần vào hạnh phúc khổ đaucủa cô. Thúy Kiều tự buộc mình vào những tình cảm giận hờn, những nhậnthức và ước muốn của mình. Và chính những con ma, những con quỷ đó kéoThúy Kiều đi về nẻo tai nạn, rốt cuộc cô phải tự tử ở sông Tiền Đường. TamHợp nói tới hai điều: một là tiền định và hai là cách hành xử của ThúyKiều. Không tìm ra nẻo thoát cho mình mà cứ đi theo con đường của ma quái.

Giác Duyên nghe nói rụng rời:

‘Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!’

Sau đây là lời của Đạo Cô, chúng ta hãy nghe với nhận thức khách quan củamình chứ đừng bị Đạo Cô ảnh hưởng: Đạo Cô có thể lầm, cụ Nguyễn Du cũng cóthể lầm.

Sư rằng: ‘Song chẳng hề chi,

‘Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.

- ‘Trong thời gian lần lần và đi vào nẻo ma quỷ Kiều cũng có làm một vàithiện nghiệp có thể đưa tới chỗ giải thoát nghiệp cũ và đi vào một nghiệpmới tốt đẹp hơn’. Đạo cô bây giờ không làm phận sự của một bác sĩ tâm lýnữa là quay sang làm trạng sư bào chữa cho Thúy Kiều:

‘Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,

‘Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.

Đó là một điểm son của Thúy Kiều. Tuy vướng vào tình ái nhưng thoát đượctà dâm. Không để Kim Trọng làm cho phạm giới thứ ba.

‘Lấy mình thâm trả nghĩa thâm,

‘Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!

Đó là hành động tốt thứ hai. Hy sinh cuộc đời một cô gái khuê các, bánmình chuộc cha. Đó là hành động có thể làm cảm động cả Trời. Trời đã cảmđộng nhưng vẫn để cho Kiều khổ mười lăm năm như thường! Ông Trời cũng sắtđá thiệt! Thấy ông trời như vậy mình không phục. Ông trời có thể là dễchịu hơn! Những lý luận của Đạo Cô, chấp nhận hay không là do mình. Họ cómột lý thuyết, họ lý luận để chứng minh lý thuyết của họ. Nhưng chứng minhđó hợp lý hay không là chuyện khác.

‘Hại một người cứu muôn người,

‘Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.

Nói chuyện giặc giã tàn sát sinh linh và Kiều lừa cho Từ Hải chết để cứusinh linh. ‘Hại một người cứu muôn người.’ Chuyện này rất giả tạo.Cô Kiều có bao giờ muốn giết chồng đâu! Chúng ta phải thấy điều này. TamHợp Đạo Cô nói không đúng sự thật. Cụ Nguyễn Du không thấy điều đó hoặc đãthấy nhưng vì sơ sót nên cứ lập lại như thường. Khi khuyên Từ Hải về hàng,Kiều nói: ‘Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào’, ‘Đống xương Vô-định đãcao bằng đầu’ - 'Được làm vua thua làm giặc.’ Thôi anh đừng tiếp tụcgây nạn binh đao nữa, không để tiếng tốt mà người ta chết nhiều tội lắm!Anh về quy thuận triều đình đi. Anh được làm quan lớn mà em cũng được cơhội đoàn tụ gia đình.’ Nói những câu đó là ‘Biết đường khinh trọng biếtlời phải chăng.’ Câu này đúng. Nhưng ‘Hại một người cứu muônngười.’ Thì không đúng. Ở câu 2550, Kiều nói thật:

Rằng: ‘Từ là đấng anh hùng,

‘Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.

‘Tin tôi nên quá nghe lời,

‘Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.

‘Ngỡ là phu quý phụ vinh,

‘Ai ngờ một phút tan tành thịt xương.

‘Năm năm trời bể ngang tàng,

‘Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không.

‘Khéo khuyên kể lấy làm công,

‘Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

- ‘Đừng nói là tôi có công! Nói tôi có công là tôi đau khổ lắm!’ Kiều nóirất đúng, rất hay. Nhưng hai câu này thì lại không đúng, không hay gì hết:

‘Xét mình công ít tội nhiều,

‘Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!

Công nhận rằng mình có công, dù là công ít. Không đúng. Công gì? Công giết(oan) chồng hay công gì? Trước khi gieo mình xuóng sông Tiền Đường (từ câu2629, Kiều than: ‘Giết chồng mà lại lấy chồng. Mặt nào mà lại đứngtrong cõi đời?’ ‘Giết chồng’ ở đây không phải là cố ý giết. Cố vấn choanh chàng nhưng cố vấn không hay nên anh chàng bị giết. Cái mặc cảm ‘giết chồng’ này có thể chấp nhận được.

Chủ trương của Thanh Tâm Tài Nhân (tác giả nguyên lục), cũng là chủ trươngcủa cụ Nguyễn Du, là Kiều có hai nghiệp: một nghiệp xấu và một nghiệp tốt.Con sông Tiền Đường là ranh giới giữa mười lăm năm khổ đau và quãng đờihạnh phúc sau này. Làm nền tảng cho mười lăm năm khổ đau đó có Thiên mệnh,những vốn liếng từ quá khứ, ông bà và kiếp trước đi xuống. Vốn liếng củaThúy Kiều còn có tài, sắc, tình (vướng mắc) và tâm (thiện tâm.) tài sắc vàtình, ba cái làm lưng tựa cho mười lăm năm khổ đau (theo lý thuyết củaNguyễn Du.) Nhưng cái tâm tốt đồng thời cũng tạo ra được vài thiện nghiệp(giữ giới không tà dâm, bán mình cứu cha và ‘giết’ Từ Hải để cứumuôn dân khỏi nạn can qua.) Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu và tâm từ bi này màthiện nghiêp tạo ra được giai đoạn thứ hai của đời Kiều, giai đoạn tu hànhvới sư chị và chuyển hóa được cho gia đình. Đó là phân tích của cụ NguyễnDu và của Đạo Cô Tam Hợp. Đạo Cô Tam Hợp và lý thuyết gia mà tác giảnguyên lục và cụ Nguyễn Du đã đi theo. Tuy mỗi tác giả có thay đổi đôichút trong khi trình bày cuộc đời Thúy Kiều nhưng đại khái thì cả hai vẫnđi theo cách phân tích của Đạo Cô Tam Hợp.

Thuyết âm dương ‘âm cực dương hồi’ sẵn có của Đông phương cùng đãđược nói tới. Âm là negative energy. Đau khổ (âm cực) khi tới chỗ cùng cựcthì hạnh phúc được sinh ra (dương hồi). Âm cực của cuộc đời Thúy Kiều làkhi tới sông Tiền Đường.

Chúng ta cũng thấy lý thuyết nhân quả trong truyện. Tuy có nghiệp quá khứhay Thiên định nhưng không phải là cái khối nghiệp của quá khứ và của tiềnđịnh đó chịu trách nhiệm hoàn toàn về mười lăm năm đau khổ. Thúy Kiều cũngcó trách nhiệm. Tài, sắc và tình của cô ràng buộc, làm cho cô cứ đi theoriu ríu mà không mở ra được con đường máu thoát khỏi vòng vây. Điều đóđược cực tả trong câu ‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng. Lại tìm những chốn đoạntràng mà đi.’ Cố nhiên khi bước vào những chốn như thanh lâu hay quânđội thì mình bị kéo theo, đau khổ đã đành rồi. Nhưng khi được bước vàonhững hoàn cảnh thanh thản như ở chùa mà mình vẫn không an lạc. Không cókhả năng an lạc. Bởi vì mình vẫn khư khư giữ lấy ba cái tài, sắc, tình vàkhông nắm vững được cái tâm tu học để chuyển hóa, thoát khỏi vòng vây.Thay vì đau khổ có thể chỉ là mười năm mà lại kéo tới mười lăm năm. Mườilăm năm đó là thiên mệnh tạo ra mà cũng do Thúy Kiều, một phần nào đó, tạora. ‘Có trời mà cũng tại ta, Tu là cỗi phúc tình là dây oan.’ ThúyKiều tu được ba chuyện còn bao nhiêu chuyện khác đều là tình hết. Nhưng nhờ có tu ba chuỵện, nên mới tạo được giai đoạn sau.

Chúng ta đọc truyện Kiều. Chúng ta thấy Giác Duyên là một yếu tố rất đặcbiệt đưa tới sự chuyển hóa của đời Kiều. Ai đưa giác Duyên tới cho ThúyKiều? Kiều đi tìm mới gặp Giác Duyên hay gặp Giác Duyên là một điều tiềnđịnh đã có sẵn? Giác Duyên là những điều kiện để bừng tỉnh. Giác Duyênkhông phải chỉ là một con người. Giác Duyên là tất cả những điều kiện cótác dụng làm cho mình thức dậy, biết rằng mình đang làm cái đó, đang đicon đường của ma quỷ. Những điều kiện có tác dụng làm cho mình thức dậy,biết rằng mình đang làm cái đó, đang đi con đường của ma quỷ. Những điềukiện đó do ai tạo ra? Cách đây hai ngàn sáu trăm năm có một người ngồidưới gốc cây Bồ Đề và đã giác ngộ, người đó đã truyền lại cho nhân loạinhững tia sáng của chánh niệm. Một tia hào quang đã được phóng về hai ngànnăm trăm năm sau cho Thúy Kiều. Người mang hào quang đó là một sư cô. Tiahào quang phóng từ cội bồ đề là một trong những yếu tố khiến cho Thúy Kiềucó thể chuyển hóa được vận mệnh của mình. Nhưng những điều kiện để đượcbừng tỉnh có thể là bất cứ điều kiện nào. Ví dụ như những khổ đau cùng cựccủa Thúy Kiều. Khi mình thấy mình khổ nhiều quá thì tự nhiên mình có thểbừng tỉnh được. Có những người khổ mà không bừng tỉnh được, nhưng có nhữngngười khổ bừng tỉnh được. Không phải ánh sáng giác ngộ từ cây Bồ Đề làđiều kiện duy nhất giúp mình bừng tỉnh. Những đau khổ, trui luyện trongvòng trầm luân cũng có thể giúp mình tỉnh dậy… Nếu không có kinh nghiệmtrực tiếp từ những đau khổ đó thì ánh sáng kia có thể không đủ để làm mìnhtỉnh dậy. Phải khốn khổ mới học hiểu được. Có những người sinh ra là tựnhiên biết, gọi là sinh nhi trí. Có những người phải học mới biết, đó làkhổ nhi trí. Phải cùng khốn thì mới hiểu được. Đó là một trong những điềukiện để bừng tỉnh. Giác Duyên là một người tượng trưng cho những điều kiệnđó đến với Kiều. Giác Duyên nằm ở chỗ nào? Ví dụ một cô thiếu nữ nói rằng:‘Con không lấy chồng. Ba anh chàng mà ba má đề nghị con không thể chấpnhận anh nào cả vì con nghĩ rằng con sẽ không có hạnh phúc với ai. Con đitu. Con đề nghị một giải pháp thứ tư.’ Theo nguyên tắc thì giải pháp thứtư cũng vậy thôi. Dầu anh chọn người thứ tư hay thứ ba nhưng nếu con ngườianh cứ như vậy thì anh cũng vẫn đau khổ. Anh đi tu anh cũng có thể đau khổnhư thường. Phải vậy không? Nhưng khi đi tu thì anh có một điều kiệnmới mà giải pháp một, hai, ba không có. Tuy anh vẫn còn y nguyên làcon người của anh, nhưng khi đi tu anh được đặt vào một khung cảnh khác,mà anh không có khi anh cưới người thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Anh sốngvới tăng thân. Tăng thân không phải là một môi trường có thể gọi là GiácDuyên, tức là những điều kiện để cho mình tỉnh thức. Nếu bốn cái giống hệtnhư nhau và anh quyết định với những nội kết của anh thì anh có thể vẫnđau khổ như nhau. Nhưng trong trường hợp thứ tư anh có Giác Duyên, một tiasáng của Bụt chiếu tới từ hai ngàn năm trăm năm trước cho nên anh có cơhội để thoát. Tự do và giải thoát nằm ở chỗ Giác Duyên. Nếu chúng ta thoátđược màng lưới của nghiệp báo, đó là nhờ những tia hào quang phóng tới từnhững người giải thoát.

Thuyết định mệnh chúng ta có thể thấy trong ba lĩnh vực:

Lĩnh vực thứ nhất là đời sống thông thường. Trong đời sống thông thường,chúng ta đặt câu hỏi: Có định mệnh hay không? Ta có nên vâng theo haykhông? Nếu vâng theo thuyết Định mệnh thì chúng ta thấy rã rời, không cókhông gian thênh thang. Và nếu còn trẻ, chúng ta muốn phấn đấu, chống lạiđịnh mệnh. Vì vậy có hai phe: một phe định mệnh và một phe chống lại địnhmệnh.

Lĩnh vực thứ hai là trong phạm vi khoa học. Trong phạm vi khoa học chữdéterminisme có nghĩa rất rõ ràng là nếu cùng những điều kiện như vậy thìthế nào cũng đi tới những kết quả như vậy. Ví dụ làm đậu hũ mà đúng theonhững phương thức a, b, c, d thì thế nào cũng có đâu hũ để ăn. Nhưng thỉnhthoảng không biết tại sao chúng ta làm giống hệt như vậy mà đậu hũ lại rahơi khác. Trong lĩnh vực khoa học, nhất là lĩnh vực khoa học nguyên tử(mécanique quantique) chuyện này xảy ra rất thường. Tất cả điều kiện hộiđủ mà kết quả lại khác. Luật xác xuất (la loi de la probabilité) cũng dokhoa học tìm ra (cố nhiên đạo học cũng đã tìm ra) cho phép những kẽ hở.Kết quẩ có thể xảy dra khác mặc dầu có những điều kiện. Trong khi nhữngnhà bác học nguyên tử quán sát những vật thể li ti, chất điểm hay điện tử,họ dùng trí tuệ và nhận thức của mình để quán chiếu và ảnh hưởng được đốitượng của sự nghiên cứu. Có sự tham dự của tâm con người vào thì sự thựccó thể biến dạng đi. Khi cần nhìn vào một vật thể li ti để quán sát ngườita cần phải chiếu ánh sáng vào. Vật thể vi tế là một loại năng lượng, ánhsáng cũng là một loại năng lượng. Khi ánh sáng chiếu vào thì vật thể đó đãthay đổi rồi. Tâm thức cũng là năng lượng.Khi dùng tâm để quán chiếu vàođiện tử thì trong bản chất của điện tử cũng có sự thay đổi. Tâm của nhàkhoa học có ảnh hưởng tới sự thật gọi là khách quan của thế giới nguyên tửvật chất. Vì vậy luật xác suất tới bổ túc cho luật định mệnh nói kết quảnhư nhau. Điều này đã được chứng minh bằng khoa học. Tâm của Bụt, tâm củachúng ta đang có mặt và đang ảnh hưởng tới thế giới vật chất, thế giới xãhội, thế giới nhân quả. Yếu tố của tâm là một yếu tố có thể can thiệp vàohoàn cảnh, về vật chất cũng như về kinh tế, xã hội.

Đứng về phương diện của những định luật tâm lý mà xét, chúng ta thấy rằngkhi những hạt giống của si mê, giận hờn, ganh tị, khi những nội kết cũ… cómặt, chúng ta sẽ phản ứng như thế này hay thế kia. Chúng ta có thể tiênđoán trước phần nào căn cứ theo thuyết định mệnh. Ví dụ chúng ta nói: Nếumình gởi anh này vào buổi họp, thì khi những người khác nói ra sự thật nàyanh ta sẽ phản ứng như thế, chắc chắn như vậy, không thể sai được. Vì tâmcủa anh ta đang có những tâm hành này, tâm hành kia nên mình tiên đoán anhta sẽ phản ứng như thế, không sai. Đó là mình theo thuyết Định Mệnh. Căncứ trên sự thật là trong buổi họp mà có những người nói như vậy là anh tađều phản ứng như thế. Một trăm lần đều xảy ra như một. Quyết định khôngcho anh ta vào buổi họp là hành động theo đức tin của mình về thuyết địnhmệnh và mình thấy không có tự do gì trong con người của anh ta hết. NhưngGiác Duyên ở đâu? Giác Duyên nói: ‘ Hôm nay anh đi với tôi và anh sẽ cầmtay tôi trong suốt buổi họp. Khi nào tôi bấm tay anh một cái là anh khôngnói gì hết.’ Tất cả mọi người đều sửng sốt vì anh chàng tự nhiên xuất hiệntrong buổi họp. Nhưng quan sát viên hôm đó rất lấy làm lạ là tại sao buổihọp đã xong rồi mà anh không nổi điên. Đâu biết rằng có một nguyên do ẩndấu là bàn tay anh ta đang được sư Giác Duyên nắm. Mỗi lần biết anh nàysắp phản ứng thì sư Giác Duyên lại nắm chặt bàn tay anh lại và anh ta ngồiyên. Đó là yếu tố Giác Duyên, chỉ có tăng thân mới tạo ra được và sẽ giúpđược anh chàng thay đổi, nhờ sự có mặt của Giác Duyên. Giác Duyên là điềukiện của sự tỉnh thức. Chánh niệm của anh ta rất yếu. Dù là được học mộtnăm hay một năm rưỡi rồi nhưng những lúc như vậy anh ta vãn không có khảnăng nắm lấy chánh niệm và cứ phản ứng một cách rất là… ‘tự nhiên’ Anh dã được hướng dẫn rằng mỗi khi gặp trường hợp như vậy thì phải nắm lấyhơi thở. Anh cũng cố gắng thực tập nhưng chất lượng của những hạt giốngkia nặng quá. Anh ta biết rằng những lúc đó thở được thì rất hay, nhưnglúc đó tại sao anh ta không nhớ và không thở! Vì vậy ta mới cần phải cóGiác Duyên. Giác Duyên cần phải đưa ta đi một đoạn đường thì ta mới có thểtự mình di được. Sau mỗi lần anh ta phản ứng, ta hay nói: ‘Tôi đã dặn anhlà những lúc như vậy thì phải thở mà tại sao anh không thở?; Anh ta trảlời: ‘Tại vì lúc đó sự kiện xảy ra mau như chớp nhoáng, tôi không làm gìđược hết!’ Có nhớ thở mình thở cũng không được!’ Nếu chúng ta buông xuôi,chịu thua thì anh ta không bao giờ có cơ hội. Ta phải đóng cho hay vai tròcủa Giác Duyên. Có nhiều cơ hội. Ta có thể nắm bàn tay anh, hướng dẫn anh.Ban đầu anh ta ngưng được không phải là do tự điều phục bằng hơi thở mànhờ có một lời giao ước với mình là khi nào mình xiết chặt tay anh thì anhdừng lại.

Sự xuất hiện của Giác Duyên trong đời Thúy Kiều là sự xuất hiện của Bụt.Và cũng nhờ Thúy Kiều đã đau khổ, chạm đến đáy vực thẳm cho nên cái nắmtay của Giác Duyên càng có hiệu nghiệm. Truyện Kiều không nói rõ điều đó.Sự chuyển nghiệp là do công phu tu tập và do tăng thân, do sự hướng dẫnchứ không phải là do chỉ làm ra được ba việc mà Tam Hợp viện dẫn (không đểKim Trọng lấn tới, bán mình và giết Từ Hải.) Trạng sư Tam Hợp nói sở dĩThúy Kiều thoát được nghiệp xấu là nhờ có ba thiện căn đó. Chúng ta thấylý do không đầy đủ. Nói rằng ‘Bán mình đã động hiếu tâm đến trời’ tại sao Trời lại để cho tiếp tục khổ trdong mười lăm năm? Lý luận nàykhông xác đáng. Nói Thúy Kiều giết Từ Hải để cứu người, đó là hoàn toàngiả tạo, không đúng. Vậy thì tại sao có sự chuyển hóa? Có sự chuyển hóa làvì có những điều kiện giúp mình tỉnh thức và tu tập. Sự tu tập với GiácDuyên trước và sau khi tự tử đưa tới sự chuyển hóa của Thúy Kiều sau này.