Chính quyền Khúc Hạo đã tiến hành nhiều chính sách tiến bộ trong vòng

01/12/2021 115

A. Chính quyền của Khúc Hạo đã tiến hành nhiều chính sách tiến bộ. 

B. Khúc Hạo chia đặt các lộ, phủ, chậu và xã ở các xứ. 

C. Nhân dân tự lập sổ khai hộ khẩu, kể rõ họ tên quê quán.

Đáp án chính xác

D. Bình quân thuế ruộng tha bỏ lực dịch.

14/10/2021 180

Câu hỏi Đáp án và lời giải

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: A

Sau khi lên thay cha, Khúc Hạo đã tiến hành nhiều chính sách tiến bộ.

Nguyễn Hưng [Tổng hợp]

Câu 1. Khúc Thừa Dụ quê ở

A. Xuân Châu.

B. Ái Châu.

C. Diễn Châu.

D. Hồng Châu.

Câu 4. Sau khi lên thay cha, Khúc Hạo đã

A. tiến hành nhiều chính sách tiến bộ.

B. thi hành luật pháp nghiêm khắc.

C. làm theo những chính sách trước kia của Khúc Thừa Dụ.

D. chia ruộng đất cho dân nghèo.

Câu 5. Mùa thu năm 930, nhà Nam Hán

A. đưa quân sang đánh nước ta.

B. cử sứ sang chiêu mộ nhân tài ở nước ta.

C. cử người Hán sang làm Tiết độ sứ.

D. cử sứ sang yêu cầu Khúc Hạo sang triều cống.

Câu 9. Điểm độc đáo trong kế hoạch đánh giặc của Ngô Quyền là gì?

A. Dùng kế mai phục hai bên bờ sông sau đó tấn công trực diện vào các con thuyền lớn.

B. Bố trí trận địa mai phục ở tất cả các đoạn đường chúng có thể đi qua để đánh bại kẻ thù.

C. Dùng kế đóng cọc trên khúc sông hiểm yếu, nhử địch vào trận địa bãi cọc rồi đánh bại chúng.

D. Mở trận đánh quyết định đánh bại quân địch, rồi giảng hòa rồi mở đường cho chúng rút về nước.

CâuĐáp ánCâuĐáp án
Câu 1DCâu 14D
Câu 2CCâu 15D
Câu 3CCâu 16A
Câu 4ACâu 17C
Câu 5ACâu 18D
Câu 6ACâu 19C
Câu 7CCâu 20B
Câu 8BCâu 21C
Câu 9CCâu 22C
Câu 10ACâu 23D
Câu 11DCâu 24C
Câu 12ACâu 25D
Câu 13ACâu 26A

Nguyễn Hưng [Tổng hợp]

Với giải Câu 5 trang 34 sách bài tập Lịch Sử 6 sách Cánh diều được biên soạn lời giải chi tiết sẽ giúp bạn biết cách làm bài tập môn Lịch Sử 6.

Câu 5 trang 34 sách bài tập Lịch Sử 6: Ý nào dưới đây không đúng về cải cách của Khúc Hạo?

A. Chính quyền của Khúc Hạo đã tiến hành nhiều chính sách tiến bộ. 

B. Khúc Hạo chia đặt các lộ, phủ, chậu và xã ở các xứ. 

C. Nhân dân tự lập sổ khai hộ khẩu, kể rõ họ tên quê quán.

D. Bình quân thuế ruộng tha bỏ lực dịch.

Hiển thị đáp án

Đáp án: C

Giải thích:

- Một số chính sách cải cách của Khúc Hạo:

+ Chia đặt các lộ, phủ, chậu và xã ở các xứ.

+ Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lục dịch.

+ Chính quyền lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán…

Tiếp nối sự nghiệp cai quản đất nước, Khúc Hạo đã tiến hành nhiều cải cách quan trọng, thay thế chế độ của nhà Đường.

Về hành chính, ông đặt ra các lộ - phủ - châu - giáp - xã, thay cho thế đơn vị hành chính trước đây là châu, huyện, châu cơ mi ở miền núi, hương và xã. Nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã.

Ở mỗi xã, ông cho đặt có một Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng, mỗi giáp đặt một Quản giáp và Phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Riêng Giáp trưởng được giao trông coi lập sổ hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán của người khai, để quản lý được hộ khẩu. Chính quyền Khúc Hạo thực hiện "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch... Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị. Nhân dân đều được yên vui".

TheosáchLịch sử Việt Nam[2017], thay đổi lớn nhất trong cải cách hành chính của họ Khúc là nắm chính quyền đến tận cấp làng xã. Trong suốt thời Bắc thuộc, chính quyền phương Bắc chỉ cai quản được đến cấp huyện, làng xã vẫn là khu vực tự trị của người Việt, chỉ chịu sự cai trị gián tiếp của chính quyền đô hộ.

"Làng xã của người Việt vẫn tồn tại kiên cường... Chính từ làng mà nhân dân ta đã giành được đất nước. Họ Khúc là đại diện cho những Hào tộc bản địa, tầng lớp lãnh đạo mới của dân Việt, giành lấy quyền quản lý đất nước, chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc", sách viết.

Về kinh tế, chính quyền Khúc Hạo thực hiện chính sách "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch". Trước kia, triều đình phương Bắc mặc sức vơ vét của dân, thu nhiều loại thuế, đánh thuế nặng nên nhân dân căm phẫn. Nay họ Khúc thực hiện chế độ ruộng đất là công hữu, phân chia cho các hộ canh tác và đánh thuế một cách bình quân theo diện tích đất các hộ được phân chia.

Lực dịch trước đây là một thứ khổ sai triều đình phương Bắc áp dụng khi bắt dân đi mò trai lấy ngọc, săn voi lấy ngà… đã được Khúc Hạo tha bỏ, cùng thuế đinh. "Đó là một sự cởi trói cho dân, có tác dụng to lớn đến việc thu phục nhân dân ổn định xã hội", cố GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện sử học Việt Nam từng đánh giá.

Cuộc cải cách của họ Khúc đã tạo cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc cho nền độc lập, tự chủ của người Việt sau này.

Câu 4: Nhà Hậu Lương sau khi lật đổ nhà Đường ở phương Bắc, đã ứng xử như thế nào với chính quyền của họ Khúc?

a. Công nhận lâu dài nền tự chủ của chính quyền họ Khúc

b. Ngay lập tức cho quân tái chiếm

c. Vừa công nhận, vừa âm thầm cho quân chiếm lại chính quyền

Quỳnh Trang

tham khảo

Hoàn cảnh lịch sử
Năm 905, hào trưởng người Việt ở Hồng châu là Khúc Thừa Dụ giành lấy quyền tự chủ cho người Việt tại Tĩnh Hải quân [tên gọi Việt Nam đương thời], tự xưng là Tiết độ sứ và bước đầu được nhà Đường của Trung Quốc thừa nhận. Việt Nam chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ.[3][4]

Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo nối chức Tiết độ sứ. Nhà Hậu Lương, vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau [908], vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam.[3][5]

Bên ngoài, chính quyền tự chủ mới dựng của người Việt lại đứng trước nguy cơ từ phía Bắc. Bên trong, chính quyền gặp phải những khó khăn do những hậu quả nặng nề thời Bắc thuộc để lại[6]. Để củng cố chính quyền cai trị, xây dựng nền tảng độc lập, phát huy nội lực để dần tự thoát khỏi sự kiềm chế của phương Bắc, Khúc Hạo đã tiến hành cuộc cải cách trên toàn Tĩnh Hải quân[7].

Nội dung cải cách
Hai lĩnh vực lớn mà Khúc Hạo tiến hành cải cách là hành chính và kinh tế.

Hành chính
Lãnh thổ họ Khúc quản lý bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, kéo dài tới phía bắc Hoành Sơn[8], thêm một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay[9]. Khúc Hạo đã tiến hành cải cách hành chính bằng việc xây dựng lại bộ máy cai trị mới, dù bộ máy chính quyền họ Khúc được nhìn nhận còn giản đơn[10]. Trung tâm Tĩnh Hải quân vẫn được đặt tại Đại La [Tống Bình cũ, tức Hà Nội] như thời thuộc Đường.

Trình tự các cấp đơn vị hành chính dưới thời thuộc Đường là Châu - Huyện – Hương – Xã. Bộ máy cai trị cũ của nhà Đường bao gồm hệ thống từ trên xuống. Dù Thứ sử Giao châu là Khâu Hòa từng đặt ra đơn vị xã [tiểu xã từ 10-30 hộ và đại xã từ 40-60 hộ], nhưng chính quyền đô hộ nhà Đường mới chỉ nắm được đến cấp hương, chưa thể nắm đến cấp xã và không đặt ra các chức quan quản lý cấp xã ở Giao châu[11].

Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với Tĩnh Hải quân, nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên, nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã. Ông lấy lộ thay châu, lấy phủ châu thay cho huyện. Thời thuộc Đường, dưới châu là hương, Khúc Hạo đổi hương là giáp, các đơn vị bên dưới giáp là xã[12]. Khúc Hạo chủ trương xây dựng một bộ máy gần dân, nắm từ dưới lên, tại đơn vị cơ sở là xã[13].

Trình tự bộ máy nhà nước tự chủ do Khúc Hạo cải cách là: Lộ - Phủ - Châu – Giáp - Xã - Quận.[1][14] Mỗi xã, Khúc Hạo đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng[15]. Mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách "An Nam chí nguyên", Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp [vốn là hương] trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.[1][6]

Bằng việc cải cách này, chính quyền họ Khúc đã ý thức được việc quản lý đến chính quyền cấp cơ sở [giáp và xã][14]. Tuy ghi chép về việc cải cách, thay đổi hành chính của Khúc Hạo nhưng sử sách lại không ghi rõ ông đã đặt tên các đơn vị hành chính có tên gọi cụ thể ra sao[16].

Kinh tế
Thời thuộc Đường, ngoài việc phải cống nạp rất nhiều, người Việt còn chịu tô thuế và lao dịch nặng nề[17]. Nhằm thay đổi điều đó, Khúc Hạo chủ trương sửa đổi lại chế độ tô thuế. Ông thực hiện chính sách "bình quân thuế ruộng"[15]. Các sử gia khi xem chính sách này của Khúc Hạo đã cho rằng Khúc Hạo căn cứ vào cách phân phối ruộng đất theo chế độ công xã của phương thức sản xuất châu Á thời cổ trung đại, đánh thuế bình quân theo ruộng đất mà các hộ được phân chia[18].

Khúc Hạo còn chủ trương bỏ thuế đinh, người thu thuế là Phó tri giáp, theo mô hình cống nạp liên danh của phương thức sản xuất châu Á thời cổ trung đại, khắc phục sự phiền hà sách nhiễu của các quan cũng như việc thu thuế nhiều tầng, nhiều loại, tránh được cả thất thu ngân sách[18].

Một chính sách khác mà Khúc Hạo áp dụng là "tha bỏ lực dịch"[15], nhằm bớt đi lao động khổ sai cho người dân dưới thời thuộc Đường.

Việt Nam đương thời vừa có những đặc điểm đặc thù, vừa mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hình thái phương thức sản xuất châu Á[19]. Chính sách của Khúc Hạo có tác động rất lớn đến đời sống xã hội của người Việt đương thời, phù hợp với kết cấu kinh tế - xã hội khi đó, giảm nhẹ được sự bóc lột của chính quyền với nhân dân, tạo ra sự dung hòa cần thiết về quyền lợi giữa nhà nước tự chủ với các làng xã, các thành viên thôn xóm[14].

Hai chính sách bình quân thuế ruộng và tha bỏ lực dịch được các sử gia xem là tiền đề tạo ra thành công của cuộc cải cách, tác động tích cực tới chính trị, văn hóa, xã hội lúc đó[18]. Do nhà nước quản lý tới tận các đơn vị cơ sở, cải cách kinh tế có tác dụng gây dựng quyền sở hữu ruộng đất của chính quyền trong xã hội, trên cơ sở đó củng cố và mở rộng dần theo quá trình phát triển của chế độ quân chủ trung ương tập quyền trong những thời kỳ sau[19].

Ý nghĩa
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi nhận chính sách mà Khúc Hạo áp dụng "cốt khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui".[15] Đó là chính sách giảm phiền hà, nhiễu dân, không bắt buộc, không quá khắt khe như thời Bắc thuộc[1].

Chính sách cải cách mà Khúc Hạo áp dụng được các sử gia nhìn nhận là chính sách thân dân, cố kết toàn dân[1]. Cải cách đã đổi mới bước đầu bộ mặt đất nước, đổi mới bộ máy chính trị, thể hiện rõ tinh thần độc lập tự chủ, tự cường, ý thức dân tộc sâu sắc và quyết tâm lớn của dân tộc Việt, nhằm thoát hẳn khỏi sự ảnh hưởng của phong kiến phương Bắc[19]. Qua cải cách, đời sống nhân dân được cải thiện[20].

Riêng về lĩnh vực hành chính, Đào Duy Anh căn cứ vào những ghi chép trong sử sách những giai đoạn sau cho rằng Khúc Hạo đương thời chưa thể thực hiện cải cách thật chu đáo và toàn diện[12].

Vì nhu cầu chống ngoại xâm, các hào trưởng địa phương phải phục tùng chính quyền trung ương nhưng vẫn có xu hướng cát cứ và họ Khúc cũng như các triều đại kế tiếp vẫn phải dựa vào các hào trưởng địa phương để củng cố chính quyền các cơ sở. Nhưng từ cuộc cải cách của Khúc Hạo, xu thế độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất quốc gia ngày càng được biểu hiện rõ nét[1].

Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, công cuộc cải cách của Khúc Hạo mở ra một thời kỳ phát triển mới của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành[1].

Cuộc cải cách tạo ra sự ổn định, vững vàng cho Việt Nam trước hoàn cảnh lịch sử khi đó; đoàn kết sức mạnh toàn dân để đứng vững trước những cuộc xâm lăng tiếp theo của phương Bắc, giữ vững nền độc lập, tự chủ. Dù sau thời Khúc Hạo, Nam Hán lại tiến vào chiếm Tĩnh Hải quân, nhưng nhanh chóng bị đẩy lui trở lại Quảng Châu. Các sử gia cho rằng việc người Việt đánh lui liên tiếp hai cuộc tấn công của Nam Hán thời Tự chủ để tiến đến từ bỏ chức vị Tiết độ sứ của phương Bắc và xưng vương hiệu, đế hiệu – những chuỗi chiến thắng mang tính liên tục trong lịch sử Việt Nam - có công lao gây dựng, tạo tiền đề của cuộc cải cách do Khúc Hạo tiến hành cho đời sau.[10][21]

Sử gia Lê Tung nhà Hậu Lê thế kỷ 16 đánh giá rất cao công lao của Khúc Hạo:[19]

Khúc Trung Chúa [tức Khúc Hạo] nối nghiệp mở nước, khoan hòa, có phong thái trù mưu định kế quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, thật là bậc chúa hiền của nước Việt.
Kết quả có được từ cuộc cải cách này là nền móng cho những thành tựu lớn hơn trong tương lai của các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê[10].

Video liên quan

Chủ Đề