Dấu hiệu vi phạm hình sự về môi trường được thể hiện trong yếu tố cấu thành tội phạm nào

Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có trách nhiệm, năng lực hành vi…

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã đưa ra khái niệm tội phạmnhư sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

Cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm 04 yếu tố sau: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể.

1. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội : tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ của tội phạm còn có các dâu hiệu khác nhau như: phương tiện, công cụ tội phạm, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm, thực hiện phạm tội.

2. Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao gồm : lỗi, mục đích, va động cơ phạm tội. Bất cư tội phạm cụ thể nào cũng phải là hành vi được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi có hai loại lỗi : lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý phạm tội.

+ Cố ý phạm tội là cố ý trong các trường hợp sau:

– Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hành vi đó sẽ xảy ra.

– Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiềm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn những vẫn có ý thức để mặc nó xảy ra.

+ Vô ý phạm tội bao gồm các trường hợp sau:

– Người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

– Người phạm tội không thấy được hành vi của mình có thể gây ra nguy hại cho xã hội, mặc dù có thể thấy trước và có thể thấy hậu quả đó.

3. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể.

4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự

Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự : Người từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự với những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm.

Như vậy, một hành vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố trên. Khi đã được coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của mình theo quy định.

1. KHÁI QUÁT VỀ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNGBảo vệ môi trường được nhận thức từ rất lâu trên thế giới, song vấn đề này đượctập trung giải quyết cả ở tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu trong nửa sau thế kỷ XX.Những hậu quả của việc tàn phá môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hộivà con người, đặc biệt phải kể đến nạn sa mạc hóa; ô nhiễm đất, nước và không khí; hiệuứng nhà kính v.v. Đấu tranh với những hành vi tàn phá môi trường chưa thu được hiệuquả cao, cùng với tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơchế bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Trong giới hạn của quốc gia, một trong nhữngmắt xích chủ yếu của cơ chế này là chính sách hình sự đối với những hành vi xâm hạimôi trường.Chính sách hình sự về bảo vệ môi trường của Việt Nam được cụ thể hóa thông quaviệc xây dựng những tội phạm về môi trường cụ thể. Chương XVII BLHS quy định đốivới 10 tội phạm về môi trường: tội gây ô nhiễm không khí [Điều182], tội gây ô nhiễmnguồn nước [Điều183], tội gây ô nhiễm đất [Điều184], tội nhập khẩu công nghệ, máymóc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường[Điều185], tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người [Điều186], tội làm lây lan dịchbệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật [Điều187], tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản[Điều188], tội huỷ hoại rừng [Điều189], tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vậthoang dã quý hiếm [Điều190], tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồnthiên nhiên [Điều191].Những hành vi cấu thành tội phạm quy định trong Chương XVII BLHS là nhữnghành vi xâm hại đến môi trường có tính nguy hiểm xã hội cao. Điều này có nghĩa là,không phải tất cả những hành vi xâm hại đến môi trường đều được quy định trong BLHS.Những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn, chưa đến mức phải truy cứu tráchnhiệm hình sự sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng trách nhiệm hànhchính hay thông qua tuyên truyền, giáo dục. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội,những hành vi xâm hại đến môi trường sẽ được nghiên cứu thường xuyên giúp cho quátrình hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường.Khái niệm tội phạm về môi trường theo Giáo trình của trường ĐH Luật Hà Nộicho rằng: “Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm cácquy định của Nhà nước về môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường”. Khái niệmnày có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn thêm:Hệ thống các tội phạm về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong BLHS không hề tồn tại.Nhận định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trongPage 1chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý vàbảo vệ môi trường.2. CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNGKhái quát chung của tội phạm về môi trường nêu trong phần 1 giúp chúng ta xác địnhphạm vi của loại tội phạm này, cũng như là cơ sở cho việc xây dựng các tội phạm cụ thể.Để hiểu các tội phạm về môi trường rõ ràng và cụ thể hơn, đặc biệt nhằm áp dụng chínhxác các quy định tương ứng của BLHS trong cuộc sống, đòi hỏi phải nghiên cứu cấuthành tội phạm thể hiện qua: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.a. Khách thể của tội phạm về môi trườngKhách thể của loại tội phạm về môi trường là những quan hệ xã hội về giữ gìn môitrường trong sạch, sử dụng hợp lý những tài nguyên của nó và đảm bảo an toàn môitrường cho dân cư.Để hiểu khách thể của tội phạm về môi trường cần làm rõ khái niệm “môi trường”. Kháiniệm này được đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường, theo đó “Môi trường bao gồm cácyếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh conngười, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiênnhiên” [Khoản1 Điều1]. Đặc biệt, Luật không chỉ xây dựng khái niệm về môi trường, màcòn chỉ rõ những bộ phận cấu thành của môi trường. “Thành phần môi trường là các yếutố tạo thành môi trường: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng,sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiênnhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vậtchất khác” [Khoản1 Điều2].Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm về môi trường không giới hạntrong một lĩnh vực nào, như trong hoạt động kinh tế chẳng hạn. Hậu quả của những hànhvi xâm hại môi trường gây ra không chỉ đối với hoạt động kinh tế, mà đối với toàn bộcuộc sống trên trái đất.Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này, khách thể trực tiếp trong từng tộiphạm là những quan hệ xã hội cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý những bộ phận cấuthành của môi trường, cũng như đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư. Ví dụ, kháchthể của tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản là các quan hệ xã hội về bảo vệ và sử dụng hợp lýnhững nguồn lợi thuỷ sản, tức các quan hệ về bảo vệ và sử dụng hợp lý sông, hồ, biển.Đối tượng của tội phạm về môi trường chính là đối tượng của các hành vi xâm hại đếnmôi trường. Đó là những bộ phận cấu thành của môi trường mà đã được liệt kê trongPage 2Khoản1 Điều2 Luật Bảo vệ môi trường. Những bộ phận này hình thành và tồn tại mộtcách tự nhiên, hoặc có sự kết tinh của lao động con người nhưng vẫn tồn tại trong thiênnhiên hoặc được đưa vào thiên nhiên để thực hiện chức năng sinh vật và những chứcnăng tự nhiên khác. Chính bởi bản chất gắn với tự nhiên nên những thành phần cấu thànhmôi trường có thể phân biệt được với những đối tượng tội phạm khác mà thường đượcbiết dưới dạng “hàng hoá” hay “tài sản”.b. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường* Các tội phạm về môi trường có thể được thực hiện bằng hành động hoặc khônghành động vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên,giữ gìn và bảo vệ môi trường. Các hành vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ônhiễm môi trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không thực hiện quy tắc bảo vệ môitrường, gây dịch bệnh v.v. Những hành vi trong mặt khách quan của tội phạm về môitrường là sự thể chế hoá trong lĩnh vực hình sự những hành vi bị nghiêm cấm quy địnhtrong Luật Bảo vệ môi trường tại điều 7 LBVMT: “ 1- Đốt phá rừng, khai thác khoángsản một cách bừa bãi gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; ….”Đặc trưng của các tội phạm về môi trường quy định trong BLHS là thường sửdụng kết cấu dẫn chiếu. Để xác định việc thực hiện tội phạm về môi trường thường phảicăn cứ vào việc xác định các hành vi vi phạm các quy tắc về sử dụng nguồn tài nguyênthiên nhiên và bảo vệ môi trường, trong đó các quy tắc này được quy định trong nhữngvăn bản chuyên ngành khác. Vì vậy, để có thể áp dụng chính xác BLHS đối với các tộiphạm về môi trường cần phải vận dụng chính xác các quy định của pháp luật Việt Namvề bảo vệ môi trường.* Tuyệt đại bộ phận tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất [9 trong số 10tội: Điều182, Điều183, Điều184, Điều185, Điều186, Điều187, Điều188, Điều189,Điều191 BLHS]. Để khẳng định tội phạm hoàn thành cần chứng minh được những hànhvi vi phạm gây hậu quả cụ thể. Trong diễn biến xâm hại môi trường phức tạp và phổ biếnhiện nay, việc xây dựng các tội phạm về môi trường với cấu thành vật chất chưa phát huyhết được vai trò của mình đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Những hành vi tànphá, huỷ hoại môi trường sống cần được ngăn chặn ngay từ đầu và có những biện phápchế tài kiên quyết. Đây là một trong số những điều kiện cơ bản để giữ vững sự tăngtrưởng ổn định về mặt kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện.Việc nghiên cứu và sửa đổi các quy định của BLHS về bảo vệ môi trường thông qua việcxử lý ngay từ khi thực hiện các hành vi vi phạm là hết sức cần thiết. Căn cứ để xử lý hìnhsự các hành vi này không dựa vào đánh giá hậu quả mà có thể bằng việc xác định quy môvi phạm. Nói một cách ngắn gọn: nên thay đổi tính chất của cấu thành các tội phạm vềmôi trường sang cấu thành hình thức là chủ yếu.Page 3Hậu quả trong các tội phạm về môi trường được quy định trong các cấu thành cơ bản là“hậu quả nghiêm trọng”. Ngoài ra trong một số cấu thành với tình tiết tăng nặng sử dụngthuật ngữ “hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Đây lànhững tiêu chí mang tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vàonhiều yếu tố khác nhau như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất,khả năng khắc phục những thiệt hại cho môi trường, v.v… Đặc biệt trong lĩnh vực môitrường việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù riêng. Thật không hợp lý nếuchỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp luật xác định tính chất nghiêm trọng, màđược áp dụng cho các tội phạm khác như xâm phạm tài sản riêng công dân, cho các tộiphạm về môi trường. Để có thể áp dụng chính xác các quy định của BLHS đối với các tộiphạm về môi trường, cần có một sự hướng dẫn riêng cụ thể từ phía các cơ quan chứcnăng của Nhà nước, nhất là Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môitrường, đối với các loại “hậu quả” quy định trong chương này.Xác định các hành vi phạm tội về môi trường cũng cần chỉ rõ mối quan hệ nhânquả giữa các hành vi vi phạm với những hậu quả xảy ra. Những thiệt hại về môi trườngphải phát sinh trực tiếp và chủ yếu từ chính các hành vi vi phạm.Trên cơ sở xác định hậu quả của các hành vi vi phạm, có thể xác định tính chấthoàn thành của tội phạm. Những tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất được coilà hoàn thành kể từ khi có những hậu quả tương ứng xảy ra.* Tội phạm về môi trường với cấu thành hình thức. Đó là tội vi phạm các quy địnhvề bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm [Điều190 BLHS]. Để xác định tội phạm đã hoànthành, không cần thiết phải có hậu quả xảy ra. Thời điểm hoàn thành tội phạm được tínhtừ thời điểm thực hiện hành vi liệt kê tại Điều190 như: đưa ra khỏi vùng dịch bệnh độngvật có khả năng truyền dịch bệnh cho người; săn bắn động vật hoang dã v.v.* Cấu thành của phần lớn các tội phạm về môi trường đòi hỏi phải có dấu hiệu bắtbuộc về việc đã bị xử phạt hành chính [Điều182, Điều183, Điều184, Điều 185, Điều 187,Điều 188, Điều 189, Điều 191 BLHS]. Việc quy định dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạmhành chính trong các tội phạm về môi trường có một số vấn đề và nội dung cần lưu ý sau:- Việc quy định dấu hiệu này trong các cấu thành tội phạm về môi trường nhằmtăng cường trách nhiệm của các cá nhân đối với việc bảo vệ môi trường. Hành vi vi phạmcủa những người đã bị xử phạt hành chính chứng tỏ tính hệ thống của sự vi phạm, sự kiêncố của người vi phạm đối với những hành vi xâm hại môi trường, cũng như ý thức khôngtốt về việc bảo vệ môi trường. Điều này nói lên tính nguy hiểm xã hội cao hơn, và vì vậynhững người đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cần thiết phảibị xử lý một cách kiên quyết thông qua các chế tài hình sự, kể cả trường hợp hành vi viPage 4phạm lặp lại chưa dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như quy định trong BLHS, đốivới tất cả các tội phạm về môi trường [hiện nay mới hạn chế chỉ ở một số tội [Điều 187,Điều 188, Điều 189].- Quy định bắt buộc dấu hiệu đã bị xử lý phạt hành chính trong cấu thành cơ bảncủa nhiều tội phạm về môi trường và không có trường hợp ngoại lệ dẫn đến tồn tại nhữngtrường hợp không hợp lý cả về mặt lý luận lẫn thực tế. Đó là các điều: 182, 183, 184,185. Nếu hành vi vi phạm thực hiện lần đầu nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thìkhông bị truy tố trách nhiệm hình sự vì chưa bị xử phạt hành chính lần nào. Không khókhăn để khẳng định tính nguy hiểm xã hội đặc biệt cao trong các trường hợp nêu trên đểcần thiết áp dụng trách nhiệm hình sự, hơn nữa các trường hợp này không thể xử lý hànhchính vì vượt quá mức độ của vi phạm hành chính. Để giải quyết vấn đề này, BLHS ViệtNam nên được sửa đổi theo hướng bổ sung vào cấu thành cơ bản của các tội phạm về môitrường nêu trên, hành vi vi phạm lần đầu gây hậu quả ở mức độ nhất định nào đó. Kết cấurất thành công được các nhà Lập pháp của Việt Nam sử dụng trong các tội phạm về môitrường khác: “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính”, nên được ápdụng cho tất cả các tội phạm về môi trường.- Dấu hiệu về việc đã bị xử phạt hành chính trong các tội phạm về môi trường chỉcó thể là cơ sở cho việc định tội cụ thể nếu như đó là việc xử phạt hành chính đối vớihành vi xâm hại môi trường cùng loại và chưa hêt thời hạn để được coi là chưa bị xử phạthành chính. Nội dung của các điều trong BLHS phần các tội phạm về môi trường thể hiệnrất rõ kết luận này khi sử dụng hai kết cấu “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình khôngthực hiện các biện pháp khắc phục” hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”. Tuynhiên cần nhận thức rằng môi trường là một thể thống nhất, các bộ phận của nó không thểtồn tại độc lập với nhau và với môi trường nói chung. Ý thức bảo vệ môi trường khôngthể chỉ đối với một bộ phận cấu thành nào đó của môi trường. Với lý do này, nên nângcao ý thức và trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ môi trường của mọi người thông qua việcnâng cao khả năng xử lý bằng hình sự các hành vi xâm hại môi trường. Cụ thể, các điềuluật quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường có thể chỉ cần yêucầu dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường nói chung, màkhông nhất thiết phải là những hành vi cùng loại.c. Chủ thể của tội phạm về môi trườngChủ thể của các tội phạm về môi trường là tất cả những người từ đủ 16 tuổi trở lên và cónăng lực trách nhiệm hình sự. Hầu như các tác giả đều nhất trí với thành phần chủ thể củacác tội phạm về môi trường nêu trên. Tuy nhiên có thể nhận thấy tồn tại vấn đề chịu tráchnhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể về môi trường từ đủ 14.Page 5Tội phạm mà người thực hiện phải chịu trách nhiệm từ đủ 14 tuổi trong chương XVII làtội huỷ hoại rừng với khung hình phạt đặc biệt tăng nặng [Khoản3 Điều 189]. TheoKhoản3 Điều 8 BLHS, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xãhội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. Trong khi đó,người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tộiphạm rất nghiêm trọng do cố ý. Khung hình phạt cao nhất của tội hủy hoại rừng quy địnhtại Khoản3 Điều 189 đến 15 năm tù, đủ để liệt các tội này vào tội phạm rất nghiêm trọng.Đồng thời, những tội phạm này được thực hiện do cố ý. Dễ dàng nhận thấy việc ngườitrên 14 tuổi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.Trong một số tội phạm về môi trường có chủ thể đặc biệt. Sự đặc biệt này thôngthường nhất gắn với việc giữ chức vụ hoặc có quyền hạn của người vi phạm:- Đối với tội “nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chấtkhông bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường” [Điều 185], người cho phép nhập khẩuhiển nhiên là người giữ chức vụ hoặc có thẩm quyền theo pháp luật trong các cơ quanNhà nước. Ngoài những người kể trên, chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là nhữngngười theo pháp luật có quyền kinh doanh hoạt động xuất, nhập khẩu. Theo Khoản1 Điều8 Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 Quy định chi tiết thi hànhLuật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hànghoá với nước ngoài, thẩm quyền hoạt động xuất, nhập khẩu thuộc về các doanh nghiệpthuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy đinh của pháp luật theo ngành nghềđã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đại diện cho các doanh nghiệpnày chính là những người giữ chức vụ hoặc có quyền theo Điều lệ của doanh nghiệp.Trường hợp người không có thẩm quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu thực hiện hành vinhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêuchuẩn bảo vệ môi trường, thì cần xử lý theo Điều 153 “Tội buôn lậu” hoặc Điều 159 “Tộikinh doanh trái phép” tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế.- Chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là những người giữ chức vụ hoặc có quyềntheo quy định của pháp luật còn đối với các hành vi “cho phép đưa vào Việt Nam độngvật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguyhiểm có khả năng truyền cho người” [Điều 186] hoặc “cho phép đưa vào Việt Nam độngvật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiệncác quy định của pháp luật về kiểm dịch” [Điều187].Nhìn chung xác định chủ thể của các tội phạm về môi trường theo pháp luật ViệtNam như vậy là hợp lý. Việc gìn giữ và bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi người.Để có được ý thức đúng đắn về môi trường cần có sự giáo dục và tuyên truyền thườngxuyên. Những người chưa thành niên khả năng nhận thức còn có hạn, nhất là đối với mộtPage 6vấn đề phức tạp như môi trường. Biện pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn này chínhlà các biện pháp xã hội như: đưa vấn đề giáo dục môi trường vào nhà trường, phát triểncác hình thức tuyên truyền trong cộng đồng về môi trường v.v.d. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trườngTrong quy định của BLHS tại các điều của tội phạm về môi trường không có một quyđịnh trực tiếp hoặc một quy định “ngụ ý” nào để có thể khẳng định người vi phạm phảichịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có lỗi do vô ý. Hơn nữa phần lớn các trườnghợp chịu trách nhiệm hình sự sau khi đã từng bị xử phạt hành chính cho những hành vi viphạm cùng loại, nên càng có cơ sở để khẳng định mặt chủ quan của tội phạm về môitrường được đặc trưng chỉ bằng lỗi cố ý. Trong các tài liệu khoa học pháp lý cũng thểhiện quan điểm này.Nghiên cứu các hành vi xâm hại môi trường có thể rút ra một số nhận xét sau:- Phá hoại môi trường là phá hoại chính điều kiện sống của con người, làm ảnhhưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người. Với sự gia tăng của các hành vi phá hoạinày, nên coi các tội phạm này chủ yếu là các tội phạm rất nghiêm trọng để tương xứngvới tính nguy hiểm xã hội rất cao của nó.- Với đặc thù của các hoạt động xâm hại đến môi trường, thiệt hại nhiều và lớnnhất là do các tổ chức và doanh nghiệp gây ra trong quá trình sản xuất. Chính nhữngngười giữ chức vụ không thực hiện hết trách nhiệm của mình, không có ý thức bảo vệmôi trường và cẩu thả thực hiện công việc của mình gây thiệt hại cho môi trường, nhưnghọ lại khó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì hành vi vi phạm phải với lỗi cố ý.- Trong các tài liệu pháp lý của nước ngoài phần đông ý kiến cho rằng: “phần lớncác tội phạm về môi trường được thực hiện do lỗi vô ý”.Từ sự nhận xét trên, có thể rút ra kết luận về việc mặt chủ quan của các tội phạm về môitrường không nên chỉ được đặc trưng bằng lỗi cố ý. Khi bình luận về “tội vi phạm cácquy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng” của BLHS, em cho rằng: “vềmặt chủ quan, tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc do vô ý”. Những hành vi do vô ýgây hậu quả nặng nề cho môi trường cũng cần được nghiêm trị nhằm tăng cường hiệuquả của thực tiễn bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Đồng thời việc chịu trách nhiệm hìnhsự trong trường hợp có lỗi vô ý nên được quy định trực tiếp trong các tội phạm cụ thể.Trong mặt chủ quan của tội phạm về môi trường, mục đích và động cơ hầu nhưkhông có ý nghĩa để định tội. Tuy nhiên, cũng có tội có yêu cầu mục đích đối với một vàihành vi riêng lẻ. Thực hiện tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản [Điều 188] bằng hành vi sửPage 7dụng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, dòng điện hoặc các phương tiện, ngư cụ khácbị cấm đòi hỏi phải có mục đích “khai thác thuỷ sản hoặc làm hủy hoại nguồn lợi thủysản” [Mục a Khoản1 Điều 188].3. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNGTrong việc thay đổi cách đánh giá tầm quan trọng của hoạt động bảo vệ môitrường nói chung, các tội phạm về môi trường nói riêng, các nhà lập pháp của Việt Namđã thực hiện một cách đồng bộ việc sửa đổi khung hình phạt của các tội phạm về môitrường. BLHS đánh giá 6/10 tội là rất nghiêm trọng, trong đó cá biệt có khung hình phạtcao nhất đến 15 năm [Điều189] [xét khung hình phạt cao nhất của các tội]. Số tội phạmvề môi trường còn lại đều được đưa vào danh mục các tội phạm nghiêm trọng. Bên cạnhđó, tính nghiêm khắc của khung hình phạt còn được thể hiện qua hình phạt “phạt tiền”với giá trị rất lớn [Đến hai trăm triệu đồng đối với tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản –Điều188] và mỗi tội trong Chương tội phạm về môi trường còn có quy định riêng về hìnhphạt bổ sung cũng hết sức nghiêm khắc. Hình phạt tiền bổ sung có thể tới một trăm triệuđồng đối với tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người [Điều186]. Ngoài ra, hầunhư tất cả các tội phạm về môi trường còn quy định hình phạt bổ sung, theo đó ngườiphạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhấtđịnh từ một năm đến năm năm.Sự gia tăng đáng kể khung hình phạt đối với các tội phạm về môi trường một lầnnữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam đấu tranh với các hành vi phá hoại môi trường,đe doạ sự phát triển ổn định và thịnh vượng. Việc tăng cường áp dụng hình phạt tiền làmột quyết định đúng đắn phù hợp với đặc thù của loại tội phạm này. Thực hiện các biệnpháp cải thiện môi trường sống, phòng ngừa các thiệt hại về môi trường đòi hỏi nhữngkhoản chi phí rất lớn. Hơn nữa, để khắc phục những thiệt hại về môi trường do các hànhvi phạm tội gây nên cũng đòi hỏi những khoản chi không nhỏ. Chính vì vậy, việc tăngcường áp dụng hình phạt tiền với giá trị lớn là một biện pháp hữu hiệu bảo vệ môi trườngsống tại Việt Nam. Vấn đề quan trọng ở đây là xây dựng một cơ chế cụ thể và rõ ràng đểcó thể sử dụng tiền phạt này vào đúng mục đích khắc phục thiệt hại và gìn giữ môitrường.4. NHỮNG HẠN CHẾ CẦN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI- Khả năng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Trong mỗi điều luật củaChương XVII “Các tội phạm về môi trường” có phần cuối cùng [thường là phần 3 hoặcphần 4, gọi là phần cuối] quy định “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền”. Quy địnhnhư vậy “không rõ ràng đó là hình phạt bổ sung”, sẽ khó đảm bảo được sự nhận thứcđúng đắn và thống nhất như ngụ ý của nhà làm luật.Page 8- Tương quan giữa mức phạt tiền đối với vi phạm hình sự và vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực bảo vệ môi trường.Nguyên tắc chung trong việc quy định trách nhiệm pháp lý là: “hành vi nào cómức nguy hiểm xã hội cao hơn, thì tương ứng với nó, trách nhiệm pháp lý cũng cao hơn”.Ngoài nguyên tắc chủ đạo này, còn cần thiết áp dụng nguyên tắc: nhiều yếu tố khác cũngcó thể ảnh hưởng đến việc quyết định mức độ trách nhiệm pháp lý như nhân thân ngườivi phạm, lỗi của người bị vi phạm v.v. Trên cơ sở nguyên tắc này có thể rút ra nguyên tắcchung sau: “Trách nhiệm pháp luật hình sự phải cao hơn trách nhiệm pháp luật hànhchính đối với hành vi vi phạm cùng loại”.Có lẽ trên cơ sở nguyên tắc chung nêu trên, tính bất hợp lý của quy định về phạttiền đối với tội phạm về môi trường do mức phạt tiền này có thể thấp hơn giới hạn tối đacủa phạt tiền với tư cách là hình thức xử phạt hành chính. Nhận xét này hoàn toàn phùhợp với nguyên tắc chung về trách nhiệm pháp lý.Chúng ta biết rằng cá nhân thực hiện hành vi vi phạm thì việc nhận thức tính nguyhiểm cho xã hội, việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội, và sau đó là thực hiện chỉdo chính bản thân cá nhân. Trường hợp có sự câu kết với những người khác thì mức độtrách nhiệm pháp lý cao hơn. Trong khi đó, cơ chế ban hành một quyết định của tổ chứcmà có thể dẫn tới vi phạm pháp luật lại tương đối phức tạp, do người giữ chức vụ hoặctrong phần lớn trường hợp được ban hành bởi một tập thể. Như vậy về bản chất của việcvi phạm, cần coi hành vi vi phạm của tổ chức có mức độ nguy hiểm xã hội cao hơn. Ngaytừ thời kỳ phong kiến, Quan vi phạm thì xử phạt nặng hơn thứ dân vi phạm cùng hành viđó một bậc, đã trở thành một truyền thống. Đây là một tập quán tốt đẹp, nên không có lýgì không áp dụng một cách sáng tạo vào pháp luật hiện đại. Hơn nữa, để quyết định củatổ chức ban hành có trách nhiệm hơn, tổ chức nên chịu trách nhiệm cao hơn so với cánhân.Ngoài ra nếu xét ý nghĩa của việc xử phạt đối với người vi phạm, mức độ tác độngcủa cùng một mức phạt tiền đối với cá nhân và tổ chức cũng khác nhau. Do quy mô tàisản của tổ chức thông thường lớn hơn của cá nhân rất nhiều lần, nên mức phạt tiền tuy đãgây khó khăn cho cá nhân, buộc họ phải có những biện pháp tự kiềm chế hành vi củamình để không bị áp dụng biện pháp xử phạt, tức kiềm chế việc thực hiện các hành vi viphạm, nhưng đối với các tổ chức thì lại hoàn toàn không đáng kể. Như vậy, tổ chức cóthể vẫn không dừng việc vi phạm pháp luật hoặc vẫn sẽ cố ý vi phạm trong tương lai vàbiện pháp xử phạt coi như chưa phát huy được tác dụng của mìnhTóm lại, nếu công nhận việc phân hoá xử phạt dành cho cá nhân và tổ chức theohướng áp dụng biện pháp xử phạt với mức độ cao hơn cho tổ chức đối với cùng một hànhPage 9vi vi phạm, thì việc tổ chức chịu xử phạt hành chính với mức độ phạt tiền ngang với cánhân chịu phạt theo chế tài phạt hình sự là hoàn toàn có thể xảy ra.- Một điều đáng chú ý khi nói về sự phân hoá xử phạt ở Việt Nam đó là việc các tổchức không thể trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu tổ chức vi phạm phápluật trong lĩnh vực môi trường đến mức xử phạt hình sự thì sẽ giải quyết như thế nào? Rõràng khi đó cũng chỉ có thể áp dụng phạt hành chính, vậy trong trường hợp này áp dụngmức phạt tiền theo chế tài hành chính quá mức tối thiểu quy định trong chế tài hình sựphải chăng là biện pháp tối ưu nhất? Điều này cũng đồng nhất với việc xử phạt hànhchính với mức phạt tiền có thể cao hơn mức phạt tiền tối thiểu trong chế tài hình sự.Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể chấp nhận khả năng phạt tiền hành chính cóthể cao hơn phạt tiền hình sự cho các hành vi vi phạm pháp luật cùng loại, mà không nhấtthiết chỉ trong lĩnh vực môi trường. Để có thể áp dụng được luận điểm này cần thiết xâydựng lý luận về trách nhiệm pháp lý của tổ chức. Đặc biệt, lý luận này cần được thể chếhoá một cách cụ thể trong Luật Hành chính, cũng như Luật Hình sự, thành những nguyêntắc và quy tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của tổ chức.Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam chưanhiều, nói một cách tương đối thì mới được hai năm kể từ khi BLHS mới của Việt Namđược thông qua với những quy định riêng. Với sự phát triển phức tạp của các hoạt độngkinh tế và xã hội, các tội phạm về môi trường sẽ diễn ra phức tạp hơn nên đòi hỏi việcnghiên cứu phải thực hiện thường xuyên. Những vấn đề được nêu lên trong bài này mớichỉ là những vấn đề chung và tương đối dễ nhận thấy trên bề mặt. Mặc dù vậy có thểkhẳng định việc giải quyết đúng đắn chúng là cơ sở cho việc áp dụng đúng đắn các quyđịnh của Pháp luật Hình trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là những quy định về tộiphạm môi trường cụ thể.Page 10Danh Mục Tài liệu Tham Khảo1. Bộ luật hình sự năm 1999 [Chương 17]; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều củaBộ luật hình sự năm 2009;2. Luật bảo vệ môi trường năm 20053. Vũ Thu Hạnh, “Xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngNhững điểm bất cập cần được nghiên cứu chỉnh sửa”, Tạp chí khoa học pháp lí,số 1/2003.4. Nguyễn Văn Phương, “Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lí của khái niệmphế liệu”, Tạp chí khoa học pháp lí, số 1/2007.Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp trường: “Trách nhiệm bồi thườngthiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên”, tháng 5/2007.Page 11PhầnTrangKHÁI QUÁT VỀ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG1CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG2Khách thể của tội phạm về môi trường2Mặt khách quan của tội phạm về môi trường3Chủ thể của tội phạm về môi trường5Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường7HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG8NHỮNG HẠN CHẾ CẦN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI8Danh Mục Tài Liệu Tham khảo11Page 12

Video liên quan

Chủ Đề