Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý

1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học quản lí

Xác định đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học quản lí là đi tìm lời giải cho câu hỏi: Tâm lí học quản lí nghiên cứu cái gì? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết chúng ta cần xác định vị trí của Tâm lí học quản lí trong hệ thống các phân ngành của khoa học Tâm lí.

Nếu chúng ta cho rằng Tâm lí học quản lí là một phân ngành của Tâm lí học thì điều đó hoàn toàn không sai, song chúng ta cần chính xác hơn nữa vị trí của lĩnh vực khoa học này. Chúng tôi cho rằng Tâm lí học quản lí là một phân ngành hẹp, một phân ngành của tâm lí học xã hội. Tại sao vậy?

Bởi vì, nếu Tâm lí học xã hội nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của nhóm xã hội, trong đó đặc biệt là hành vi xã hội thì Tâm lí học quản lí nghiên cứu về quá trình tổ chức nhóm, đặc biệt là các tổ chức xã hội. Như vậy, Tâm!í học quản lí và Tâm lí học xã hội đều nghiên cứu về nhóm xã hội, nhưng phạm vi nghiên cứu của Tâm lí học quản lí hẹp hơn.

Đối tượng của Tâm lí học quản lí là nghiên cứu những đặc điểm tâm lí của người người lãnh đạo, những người bị lãnh đạo và các tổ chức xã hội, cũng như các quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.

Nhiệm vụ cơ bản của Tâm lí học quản lí là nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của hoạt động quản lí với mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động này.

2. Các phương pháp nghiên cứu

Theo Paul E. Spector [2000], việc tiến hành các phương pháp nghiên cứu của Tâm lí học quản lí cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau:

a] Xác định câu hỏi nghiên cứu

b] Thiết kế các khái niệm nghiên cứu quan trọng

c] Các phương pháp nghiên cứu

d] Đo lường

e] Thống kê

g] Đạo đức trong nghiên cứu

2.1. Xác định các câu hỏi nghiên cứu

Khi tiến hành bất cứ một vấn đề tâm lí nào của tổ chức thì đều bắt đầu từ việc xác định câu hỏi nghiên cứu. Chúng ta định nghiên cứu vấn đề tâm lí gì của tổ chức? Câu hỏi nghiên cứu có thể là một vấn đề cụ thể, có phạm vi hẹp, cũng có thể là một vấn đề lớn, có phạm vi rộng.

Chẳng hạn, câu hỏi nghiên cứu dưới đây là dạng câu hỏi mang tính tổng hợp, có phạm vi rộng: Những nguyên nhân nào kích thích tính tích cực lao động của con người? Câu hỏi nghiên cứu cụ thể về khía cạnh này có thể là: Lợi ích có vai trò như thế nào đối với việc kích thích tính tích cực lao động của con người?

Khi xác định câu hỏi nghiên cứu không nên xác định một cách quá chung chung, mà nên cụ thể rõ ràng. Bởi các câu hỏi nghiên cứu lớn, chung chung sẽ khó khăn cho người nghiên cứu khi xác định mục tiêu, nhiệm vụ, khách thể, nội dung, phạm vi nghiên cứu…

Không nên xác định một vấn đề nghiên cứu như: Nghiên cứu tâm lí người lãnh đạo, mà cần xác định rõ nghiên cứu khía cạnh tâm lí nào của người lãnh đạo. Chẳng hạn như nghiên cứu năng lực tổ chức hay các đặc điểm nhân cách của người lãnh đạo. Đưa ra các câu hỏi nghiên cứu quá chung chung là hiện tượng thường thấy ở các sinh viên chuẩn bị làm khoá luận tốt nghiệp, các học viên cao học, các nghiên cứu sinh ngành Tâm lí học ở nước ta khi xác định đề tài nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp, của luận văn cao học hay của luận án tiến sĩ.

2.2. Thiết kế các khái niệm nghiên cứu quan trọng

Khi tổ chức một nghiên cứu cần chú ý đến một số vấn đề cơ bản sau:

2.2.1. Các biến số

Các biến số là cơ sở để xây dựng đề cương nghiên cứu. Các biến số của một nghiên cứu về tổ chức có thể là: năng lực, thái độ hành vi, thành tích nghề nghiệp... Có hai loại biến số biến số độc lập và biến số phụ thuộc.

Các biến số độc lập là các yếu tố mà người nghiên cứu kiểm soát hay điều khiển được.

Các biến số phụ thuộc là những đo lường về đánh giá tác động [nếu có] của biến độc lập.

Nói cách khác, biến độc lập có thể trở thành nguyên nhân của biến phụ thuộc. Chẳng hạn, nghiên cứu về biến đổi tâm lí của người lao động trong một doanh nghiệp khi giám đốc áp dụng các biện pháp tổ chức lao động mới. Ở đây, các biện pháp tổ chức lao động mới là biến độc lập, những biến đổi tâm lí của người lao động là biến phụ thuộc. Bởi vì, những biến đổi tâm lí này phụ thuộc vào cách thức tổ chức lao động của những người lãnh đạo.

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu

Khi thực hiện một nghiên cứu, chúng ta cần xác định nghiện cứu đó được tiến hành ở đâu: Trong phòng thí nghiệm hay ở ngoài hiện trường?

Nghiên cứu ngoài hiện trường là nghiên cứu được thực hiện trong môi trường tự nhiên. Chẳng hạn, nghiên cứu hành vi của người lao động khi họ đang làm việc trong công xưởng. Nhà nghiên cứu không can thiệp để làm biến đổi môi trường làm việc của người lao động.

Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là nghiên cứu mà nhà tâm lí học đã thiết kế hoặc sáng tạo ra địa điểm nghiên cứu theo ý định của mình. Năm 1924 đến năm 1926, E.Mayo và các cộng sự của ông đã tiến hành nghiên cứu về sự ảnh hưởng của việc chiếu sáng đến hiệu quả lao động của công nhân tại Công ti điện miền Tây [Mỹ]. Các nhà nghiên cứu quan sát hai nhóm công nhân làm việc. Một nhóm được làm việc trong điều kiện có cường độ ánh sáng thay đổi theo từng giai đoạn, còn với nhóm kia, cường độ ánh sáng không thay đổi trong suốt thời gian thử nghiệm. Sau hơn hai năm thử nghiệm, họ không thấy có sự thay đổi hiệu suất lao động nào mang tính thống kê liên quan đến sư thay đổi cường độ ánh sáng trong phòng làm việc. Đây là một dẫn chứng về nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.

2.2.3. Khái quát hoá

Khái quát hoá rất cần thiết đối với tổ chức nghiên cứu. Khái quát hoá là những nhận định ban đầu của nghiện cứu, nó có thể giúp chúng ta đánh giá về tập thể khác tổ chức khác, về địa điểm tình huống nghiên cứu trên cơ sở đó giúp chúng ta lựa chọn vấn đề, địa điểm, phương pháp nghiên cứu.

2.2.4. Kiểm tra

Mỗi nghiên cứu chúng ta thường thu được các số liệu và đưa ra các giải thích cho kết quả thú được. Nhà nghiên cứu cần kiểm tra lại xem những kết quả đó với giả thuyết nghiên cứu ban đầu, kiểm tra lại các kết quả thu được, kể cả các nhận định đưa ra: Đặc biệt, đối với những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thì sự kiểm tra kết quả thu được qua các lần nghiên cứu là rất cần thiết.

2.2.5. Sự phân chia ngẫu nhiên và sự lựa chọn ngẫu nhlên

Sự phân chia ngẫu.nhiên được, thực hiện khi các khách thể phận chia theo những điều kiên hoặc mức độ khác nhau của biến số độc lập mà không theo tính hệ thống nào. Điều đó có nghĩa là mỗi khách thể nghiên cứu đều có sự ngẫu nhiên như nhau khi phân theo từng điều kiện.

Sự lựa chọn ngẫu nhiên là sự lựa chọn các vấn đề khảo sát theo phương pháp không có tính hệ thống. Mỗi vấn đề của nghiên cứu đều có sự ngẫu nhiên như nhau đối với lựa chọn trong thực tế. Sự lựa chọn ngẫu nhiên cũng được sử dụng nhiều trong lựa chọn các khách thể nghiên cứu. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp của công nhân một nhà máy, ta có thể chọn một số công nhân một cách ngẫu nhiên trong tổng số công nhân của nhà máy.

2.3. Các phương pháp nghiên cứu

Là một phân ngành của Tâm lí học xã hội, Tâm lí học quản lí sử dụng hầu hết các phương pháp nghiên cứu của Tâm lí học xã hội. Trong đó, có những phương pháp không chỉ là phương pháp của Tâm lí học xã hội mà còn là phương pháp nghiên cứu của một số khoa học khác. Các phương pháp này được trình bày nhiều trong Tâm lí học xã hội, Tâm lí học đại cương. Do vậy, ở đây các phương pháp được trình bày rất tóm lược.

2.3.1. Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp được sử dụng khá nhiều trong Tâm lí học xã hội, cũng như Tâm lí học quản lí. Theo David G. Mayers, cứ bốn nghiên cứu thuộc lĩnh vực Tâm lí học xã hội thì có ba phương pháp thực nghiệm và có hai phần ba các nghiên cứu đó được tiến hành trong phòng thí nghiệm.

Thực nghiệm được thiết kế trong đó có một hoặc một số biến độc lập và có một hoặc một số biến phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu thường thay đổi một hay thột số yếu tớ cùng một lúc, trong khi vẫn giữ nguyên các yếu tố khác, qua đó chỉ ra sự thay đổi do tác động đó. Theo David, nghiên cứu thực nghiệm là nghiên cứu nhằm tìm kiếm các nguyên nhân của các mối liên hệ nhân quả bằng cách điều khiển một hay một vài nhân tố, trong khi đó lại kiểm soát các nhân tố khác - giữ cho chúng không đổi [Lê Văn Hảo, 1996].

Hầu hết các thực nghiệm trong Tâm lí học quản lí được tiến hành trong phòng thí nghiệm [Schaubroeck và Kuehn, 1992]. Tuy vậy, vẫn có những thí nghiệm được tiến hành trong môi trường tự nhiên.

2.3.2. Phương pháp điều tra

Phương pháp điều tra là một trong những phương pháp đơn giản nhất và dễ thực hiện nhất trong số những phương pháp nghiên cứu cơ bản. Phương pháp điều tra sử dụng một loạt câu hỏi để nghiên cứu một hay một số biến số mà chúng ta quan tâm. Hầu hết các cuộc điều tra đều được thực hiện bằng hình thức bảng hỏi. Ngoài ra, có những cuộc điều tra được tiến hành bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại hoặc được thực hiện qua E-mail hay qua mạng.

Đa số các cuộc điều tra đều nhằm thu thập các số liệu trực tiếp từ phía khách thể nghiên cứu, song một số cuộc đều tra lại sử dụng những số liệu đã có sẵn và thu thập thêm thông tin từ những đồng nghiệp của khách thể và từ những người quản lí.

Điều tra có thể thực hiện theo lát cắt ngang hay điều tra bổ dọc...

Một số cuộc điều tra mang tính chất lát cắt ngang, nghĩa là điều tra về một vấn đề tại một thời điểm.

Điều tra bổ dọc là thu thập số liệu về một vấn đề, về cùng khách thể, cùng địa điểm khảo sát nhưng trong các thời điểm khác nhau. Điều tra bổ dọc là điều tra được tiến hành trong thời gian dài và trong thời gian đó nhà nghiên cứu tiến hành các cuộc điều tra khác nhau.

Ở nước ta đa số các nghiên cứu đều thuộc diện nghiên cứu có tính chất lát cắt ngang, các nghiên cứu bổ dọc còn ít được thực hiện, nhất là trong Tâm lí học quản lí.

Phương pháp điều tra có ưu điểm là chúng ta có thể nhanh chóng có được thông tin về vấn đề quan tâm. Mặt khác, phương pháp điều tra thực hiện dễ dàng hơn, thuận lợi hơn so với phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.

Phương pháp điều tra có nhược điểm là không phải lúc nào chúng ta cũng thu được các thông tin tốt, có độ tin cậy về vấn đề nghiên cứu.

Có lẽ, vấn đề lớn nhất của phương pháp điều tra là sự nhiệt tình, tinh thần và ý thức trách nhiệm của khách thể khi trả lời các câu hỏi.

2.3.3. Phương pháp quan sát

Người ta thường sử dụng phương pháp này để quan sát tâm trạng, thái độ và đặc biệt là hành vi của con người trong tổ chức. Ở nhiều công ti của Nhật Bản, các nhà tâm lí học thường quan sát tâm trạng của các công nhân khi đến công ti. Vì tâm trạng có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng lao động của người lao động. Taylor đã quan sát quá trình thực hiện các thao tác lao động của người công nhân, trên cơ sở đó phân tích những động tác nào là cần thiết và những động tác nào là thừa, cần loại bỏ, từ đó, nâng cao được năng suất lao động của người công nhân.

Khi thực hiện phương pháp quan sát, ta cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: xác định rõ mục đích quan sát, xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp.

Có hai dạng quan sát cơ bản: quan sát không can thiệp và quan sát có can thiệp.

Quan sát không can thiệp là quan sát hành vi của khách thể mà không có tác động của người quan sát. Hình thức này còn được gọi là quan sát tự nhiên. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép một cách thụ động những gì xảy ra.

Quan sát có can thiệp là quan sát mà nhà quan sát muốn can thiệp vào tình huống nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số điểm nào đó hoặc trắc nghiệm một lí thuyết. Quan sát có can thiệp có ba hình thức:

- Quan sát có tham gia;

- Quan sát có cấu trúc;

- Quan sát thực nghiệm.

Quan sát có tham gia là người quan sát tham gia tích cực trong tình huống mà hành vi được quan sát. Người quan sát không cần phải ngụy trang, mà hiện diện trong tình huống công khai.

Quan sát có cấu trúc là quan sát có sự kiểm soát của nhà nghiên cứu, nhưng mức độ kiểm soát thấp hơn thực nghiệm. Nhà nghiên cứu có thể có thể can thiệp nhằm tạo ra một tình huống để quan sát hay có thể tạo nên quy trình để quan sát tốt, hiệu quả hơn.

2.3.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Trong Tâm lí học quản lí cũng như nhiều khoa học khác thường sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu. Việc tiến hành phương pháp nghiên cứu tài liệu cần chú ý một nguyên tắc cơ bản sau:

- Nghiên cứu tài liệu cần được xem như một phương pháp đặc biệt khi nghiên cứu nội dung các thông tin về tổ chức.

- Nghiên cứu tài liệu phải có tính chất tổng hợp, nghĩa là không chỉ nghiên cứu nội dung của thông tin mà cần phải nghiên cứu các khía cạnh khác trong các quan hệ của tổ chức.

- Nghiên cứu tài liệu là phương pháp bổ trợ, cùng với một số phương pháp khác khi nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của tổ chức.

Các giai đoạn tiến hành nghiên cứu tài liệu gồm:

- Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu tài liệu;

- Giai đoạn kiểm tra độ tin cậy của tài liệu;

- Giai đoạn phân tích tài liệu, diễn đạt kết quả và kết luận.

2.4. Đo lường

Đo lường là quá trình xác định số lượng các đặc điểm của khách thể hay các vấn đề nghiên cứu. Các biến số trong mỗi nghiên cứu cẩn được đo lường hoặc lượng hoá để giúp nhà tâm lí học phân tích và đi đến các kết luận.

Có thể phân ra hai đo lường: đo lường tuyệt đối và đo lường tương đối.

Trong đo lường tuyệt đối, các giá trị của biến số được miêu tả có tính đặc thù, riêng rẽ một cách tuyệt đối mà không miêu tả toàn bộ các đặc điểm của vấn đề nghiên cứu, tức là miêu tả có chọn lọc…

Đo lường tương đối được sử dụng khi nhà nghiên cứu muốn miêu tả toàn bộ các đặc điểm của vấn đề.

Video liên quan

Chủ Đề