E2 thấp phải làm sao
Phụ nữ ngoài 30, đặc biệt là chị em sinh con thứ hai phải đối mặt với hàng loạt triệu chứng “xuống...
Estrogen và progesterone có ở đâu? 04:50 CH 20-12-2016 Estrogen và progesterone là 2 hormone quan trọng quyết định mức độ cân bằng nội tiết tố nữ. Tuy... Đâu là thuốc nội tiết tố nữ tốt nhất hiện nay? 09:28 SA 27-03-2021 Nội tiết tố nữ được xem như chiếc chìa khóa vàng giúp duy trì sắc đẹp, sự trẻ trung và vóc dáng cho... Hiểu đúng vai trò của estrogen đối với sắc đẹp và sinh lý nữ 12:02 CH 30-08-2021 Hiện nay, độ tuổi suy giảm nội tiết tố nữ estrogen ngày càng trẻ hóa và gây ra hàng loạt các vấn đề... Nồng độ estrogen thay đổi như thế nào trong thai kỳ? 12:02 CH 01-09-2021 Đối với phụ nữ có thai, nồng độ estrogen trong thai kỳ cũng như các hormone khác sẽ thay đổi liên... Làm sao để phòng ngừa nguy cơ thiếu hụt estrogen? 05:25 CH 01-09-2021 Khi bước sang tuổi 30, hầu hết phụ nữ bắt đầu suy giảm nội tiết tố nữ dẫn đến các “rắc rối” dần dần... Gần đây đồng thuận về tiêu chuẩn chẩn đoán ĐƯBTK đã được thiết lập bởi Hiệp hội Sinh sản người và Phôi học Châu Âu (ESHRE, 2011).ĐƯBTK với kích thích buồng trứng (KTBT) được chẩn đoán khi có 2 trong 3 tiêu chuẩn sau: 1.Tuổi vợ lớn (≥40 tuổi) hay có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào. 2.Tiền sử có đáp ứng kém(≤3 trứng với phác đồ KTBT chuẩn) 3.Bất thường của một xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng (AFC <5-7nang hay AMH <0.5-1.1ng/ml). Ngoài ra tiền sử 2 lần đáp ứng kém với phác đồ chuẩn cũng được chẩn đoán mà không cần có tiêu chí tuổi lớn hay bất thường xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng. Cần phân biệt nhóm bệnh nhân đáp ứng kém “giả” do chưa được KTBT đúng cách hoặc sử dụng thuốc chưa đủ liều. Với những bệnh nhân đáp ứng kém với KTBT thực sự thì việc đáp ứng kém sẽ tồn tại qua nhiều chu kì KTBT. Tất cả những nguyên nhân gây nên giảm dự trữ buồng trứng như: lớn tuổi, tiền sử phẫu thuật tại buồng trứng hoặc tiểu khung, lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung… dẫn đến buồng trứng đáp ứng kém với KTBT và một số trường hợp không rõ nguyên nhân. III.Các xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng: 1.Các xét nghiệm tĩnh: -FSH ngày 2 hoặc 3 chu kỳ: là yếu tố tiên lượng đáp ứng của buồng trứng hữu ích và quan trọng. Nồng độ FSH căn bản ngày 2 hoặc 3 chu kì kinh từ 2-10 IU/L. Khi nồng độ FSH ngày 3 >10IU/l đặc biêt là > 15IU/L là dấu hiệu dự báo giảm dự trữ buồng trứng tiên lượng đáp ứng kém với KTBT trong TTTON. -Estradiol(E2) ngày 2 hoặc 3 chu kỳ: Phần lớn E2 được sản xuất từ tế bào hạt của buồng trứng, E2 cũng được sản xuất một phần nhỏ tử vỏ thượng thận, não…Xét nghiệm E2 ngày2 hoặc 3 tăng có thể tiên lượng buồng trứng đáp ứng kém mặc dù FSH ngày 2 hoặc 3 bình thường. Tuy nhiên số lượng nang thứ cấp không tiên lượng được khả năng có thai bởi vì số nang noãn thứ cấp chỉ xác định được số lượng noãn trong khi đó khả năng có thai phụ thuộc vào cả số lượng noãn và chất lượng noãn. -Inhibin B: Inhibin B do tế bào hạt sản xuất trong quá trình phát triển nang noãn và là xét nghiệm đánh giá trực tiếp hơn so với các xét nghiệm khác về hoạt động của buồng trứng. Nồng độ inhibin-B ngày 3 của chu kỳ < 45pg/ml dự báo dự trữ buồng trứng kém trước khi có sự tăng lên của hàm lượng FSH cơ bản. -Anti-Mullerian hormon (AMH): -Thể tích của buồng trứng: thể tích của buồng trứng < 3 cm3 thì tỷ lệ hủy chu kỳ cao hơn và liên quan đến số nang noãn phát triển tuy nhiên thể tích của buồng trứng không liên quan đến số noãn thu được. Thể tích buồng trứng giảm làm giảm số nang noãn thứ cấp, giảm lưu lượng máu tới mô đệm buồng trứng.Thể tích buồng trứng càng lớn và lưu lượng máu đến buồng trứng nhiều tiên lượng sẽ thu được nhiều nang noãn và noãn khi KTBT. 2.1.Thử nghiêm FSH ngoại sinh: -Đo FSH và E2 vào đầu chu kì kinh nguyệt. -Tiêm 300IU FSH vào ngày 3 chu kì kinh nguyệt. -Đo lại nồng độ E2 sau 24 giờ. -Kết quả: sự gia tăng nồng độ E2 dùng để tiên lượng dự trữ buồng trứng. Khi nồng độ E2 tăng hơn 30 pg/ml tức là buồng trứng còn hoạt động tốt. 2.2. Thử nghiệm clomiphene citrate: -FSH căn bản được đo vào ngày 3 của chu kì kinh nguyệt. -Uống 100mg clomiphene citrate từ ngày 5 đến ngày 9 của chu kì. -Nồng độ FSH được đo lại vào ngày 10. -Kết quả: Xét nghiệm được đánh giá là bất thường khi có sự gia tăng bất thường nồng độ FSH ngày 3 và/ hoặc ngày 10 (>10-20mIU/ml) 2.3.Thử nghiệm đồng vận gonadotropin (GnRHa) IV.Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng buồng trứng: 1.Tuổi: Phụ nữ sinh ra với lượng nang noãn sơ cấp xác định. Số lượng nang noãn không tăng thêm mà chỉ có thể giảm đi theo tuổi. Những thống kê về dân số cho thấy khả năng sinh sản của người phụ nữ giảm rõ rệt khi quá 35 tuổi và hầu như có rất ít phụ nữ sinh con khi quá 40 tuổi mặc dù kinh nguyệt chỉ thực sự chấm dứt khoảng tuổi 45-50. BMI là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá đáp ứng buồng trứng khi KTBT, được tính theo công thức: BMI = Cân nặng (kg)/chiều cao x chiều cao (m2) . Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng BMI tăng sẽ làm tăng liều FSH, tăng số ngày KTBT, thu được ít nang noãn lớn và trung bình và là thông số có giá trị để dự báo số nang ≥ 14 mm ngày tiêm hCG. 3. Tiền sử phẫu thuật ở tiểu khung: 5.Thói quen và lối sống Việc sử dụng các chất kích thích như rượu, thuốc lá, cà phê gây ảnh hưởng tới dự trữ buồng trứng và nguy cơ cao đối với đáp ứng buồng kém trong KTBT. Ngoài ra những căng thẳng, stress cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả điều trị. V.Các phương pháp xử trí đối với ĐƯBTK: 1Tăng liều gonadotropin: Các nang noãn muốn phát triển được cần có sự tác động của FSH, với mỗi nang noãn sẽ có 1 ngưỡng FSH khác nhau. Ở nhóm đối tượng giảm dự trữ buồng trứng hoặc tiên lượng đáp ứng buồng trứng kém thì ngưỡng FSH thường cao hơn, do đó việc tăng liều FSH giúp vượt qua được ngưỡng FSH của các nang noãn, để các nang có thể tiếp tục phát triển mà không bị thoái hóa đi. Liều FSH cao nhất là 450IU.Tuy nhiên người ta nghiên cứu thây đối với nhóm có ĐƯBTK thì liều 300IU/ngày hay 375IU/ngày không có sự khác biệt. 2.Lựa chọn phác đồ KTBT: 2.1.Phác đồ ngắn (short protocol, flare-up protocol): GnRH agonist vào cơ thể sẽ gắn vào các receptor của GnRH của tuyến yên và kích thích tuyến yên giải phóng ra FSH và LH (hiệu ứng flare-up). Tác dụng này đạt cao nhất vào pha nang noãn. GnRH antagonist có khả năng ngăn chặn ngay tức thì khi xuất hiện đỉnh LH sớm. Như vậy LH nội sinh không bị ức chế ngay từ đầu sẽ tăng số nang thứ cấp được chọn lọc và phát triển. Việc KTBT sẽ sử dụng FSH từ ngày 2 của chu kỳ, GnRH đối vận sẽ dùng quanh thời điểm có nguy cơ tăng LH nội sinh. Cho đến nay hiệu quả của việc sử dụng GnRH antagonist đối với nhóm đáp ứng kém với KTBT vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Nghiên cứu so sánh giữa phác đồ dài GnRH agonist với phác đồ GnRH antagonist cho thấy 2 phác đồ khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tác dụng ngăn ngừa đỉnh LH. Phác đồ GnRH antagonist có tỷ lệ quá kích buồng trứng nặng thấp hơn so với phác đồ GnRH agonist nhưng tỷ lệ có thai lâm sàng thấp hơn ở phác đồ GnRH antagonist. 3. Bổ sung LH Bổ sung LH thường được bắt đầu vào ngày 6-8 của KTBT. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh việc bổ sung LH trong nhóm đáp ứng kém với KTBT giúp cải thiện chất lượng nang noãn, tăng tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai lâm sàng. Đặc biệt với nhóm bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang người ta nhận thấy việc tăng LH ở nhóm bệnh nhân này chủ yếu là LH kết hợp, không có hoạt tính sinh học do đó vẫn bị thiếu hụt Lh, nên cần bổ sung LH trong khi KTBT. 4. Bổ sung hormone tăng trưởng Việc sử dụng AI trong KTBT khá mới và cần có thêm các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh vai trò của AI cũng như những tác dụng không mong muốn của nó đối với buồng trứng. 6. Bổ sung testosterone Một số nghiên cứu dùng testosterone dạng gel bôi ngoài da liều 12.5mg/ngày trong 21 ngày ở chu kì trước khi KTBT thấy có cải thiện số noãn thu được, số phôi tạo ra và tăng tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ có thai.Tuy nhiên, các nghiên cứu với cỡ mẫu còn nhỏ, cần có thêm các nghiên cứu khác để bổ sung cho kết quả điều trị với testosteron VI.Kết luận Cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng ở những bệnh nhân đáp ứng kém với KTBT là một thách thức lớn với y học. Nhiều biện pháp đã được đưa ra nhưng chưa có biện pháp nào thực sự có hiệu quả. Người thực hiện kỹ thuật cần hiểu rõ và chẩn đoán các trường hợp đáp ứng kém với KTBT nhằm tư vấn cho bệnh nhân chiến lược điều trị phù hợp, đạt được hiệu quả với chi phí chấp nhận được, đáp ứng được sự mong mỏi của bệnh nhân có con với noãn của mình. |